Vị tướng với những quyết định
chính xác
Ở cái tuổi “Thất thập cổ lai hy” nhưng khi nghe tin dữ về Đại tướng Lê Đức
Anh, Trung tướng Lê Nam Phong bàng hoàng xúc động. Trung tướng Lê Nam Phong kể,
sau chiến thắng Phước Long, Quân đoàn 4 phải xử lý nhiều nhiệm vụ phức tạp đặt
ra, vừa tham gia chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, tạo thế trận tiến công Sài
Gòn- Gia Định. Ngày 4-3-1975, quân ta bắt đầu chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu cuộc
tổng tiến công mùa Xuân 1975. Bấy giờ Sư đoàn 7 do Trung tướng Lê Nam Phong chỉ
huy phối hợp với Quân khu 7, Quân khu 6 chuẩn bị đánh chiếm Chi khu Định Quán sau
đó chuyển sang hướng đông, chuẩn bị tiến công “cánh cửa thép” Xuân Lộc.
Ngày 5-3-1975, đồng chí Lê Đức Anh, Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam trực
tiếp giao nhiệm vụ cho Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7 tại căn cứ Đồng
Xoài. Đại tướng yêu cầu Sư đoàn khẩn chương mở mặt trận mới ở đông bắc Sài Gòn
nhằm đánh chiếm Định Quán, giải phóng đường 20 và tỉnh Lâm Đồng. Trung tướng Lê
Nam Phong cho biết: “Trước khi chính thức giao nhiệm vụ, anh gặp tôi và hỏi: “Tình
hình, khả năng cơ động, chiến đấu của Sư đoàn thế nào? Nếu thay đổi mục tiêu có
chắc thắng không?”. Tôi quả quyết: “Anh yên tâm, nhất định chúng tôi sẽ chiến
thắng, nhưng đề nghị anh bổ sung phương tiện, cơ giới cho chúng tôi mới kịp thời
gian hành quân tác chiến”. Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam gật đầu: “Được,
tôi tin tưởng ở anh”. Ngay lập tức trong hội nghị quân chính triển khai nhiệm vụ,
đồng chí Lê Đức Anh đã quyết định ngay cho Sư đoàn 7 nhận thêm 35 xe ô tô để cơ
động lực lượng.
Thiếu tướng Nguyễn Viết Khai (thứ 2 từ trái qua) và Trung tướng Lê Nam Phong (thứ 2 từ phải qua)
chụp hình với nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh về thăm Đại học Nguyễn Huệ
Trung tướng Lê Nam Phong nhớ lại, một lần khác vào khoảng cuối năm 1983, khi
tôi nhận lệnh của Bộ Quốc phòng về Mặt trận 719 (Tiền phương Bộ Quốc phòng) ở
Campuchia- nơi trước đây tướng Phong đã từng tham gia chiến tranh biên giới Tây
Nam. Tới Bộ chỉ huy Quân tình nguyện, tôi được gặp đồng chí Lê Đức Anh lúc đó là
Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam. “Vừa thấy tôi, Tư lệnh Lê Đức Anh đứng dậy tươi
cười: “Cậu trở lại đây thì khác gì về nhà”. Ngồi xuống ghế trò chuyện, Tư lệnh
nhắc tôi: “Bây giờ không như thời chống Mỹ, mình làm nhiệm vụ quốc tế cao cả nên
phải xử lý rất khéo trong mọi mối quan hệ; xây dựng láng giềng đoàn kết bền vững.
Tôi tin ở kinh nghiệm và sự năng động của đồng chí. Nhất định chúng ta sẽ lập công
nhiều hơn nữa!”. Lời nhắc nhở và niềm tin của anh không những cổ vũ tôi hoàn thành
tốt nhiệm vụ mà còn theo suốt đời quân ngũ của mình” Tướng Phong kể.
Thiếu tướng Nguyễn Viết Khai, nguyên Chính ủy Trường Đại học Nguyễn Huệ cho
hay, cuộc đời binh nghiệp của ông có may mắn được làm việc, gặp gỡ nhiều lần với
Đại tướng Lê Đức Anh, kể từ khi xây dựng quân đội khó khăn mà Đại tướng Lê Đức
Anh làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho đến khi ông giữ cương vị Chủ tịch nước. Tướng
Khai nhấn mạnh: “Nhờ những nỗ lực cá nhân và tài ngoại giao khéo léo, Đại tướng,
chủ tịch nước Lê Đức Anh đã giúp thế giới nhìn nhận rõ bản chất của thảm họa diệt
chủng mà tập đoàn Pôn Pốt gây ra và hiểu rõ hơn, trong lúc cả dân tộc còn gặp
nhiều khó khăn, gian khổ nhưng với nghĩa tình anh em, Việt Nam đã giúp đỡ để nhân
dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng mà dân tộc Campuchia vẫn gọi bộ đội Việt
Nam là đội quân nhà Phật”...
Sau này, nhiều lần về thăm, làm việc với Trường Đại học Nguyễn Huệ, Đại tướng
Lê Đức Anh luôn quan tâm việc giáo dục đào tạo, nâng chất lượng đội ngũ cán bộ
sĩ quan, nhất là phương pháp quản lý, giáo dục bộ đội. Đại tướng Lê Đức Anh đã để
lại nhiều tình cảm tốt đẹp, nhiều lời dạy chí tình cho cán bộ giảng viên và học
viên Trường SQLQ 2 (Đại học Nguyễn Huệ hôm nay).
Đại tướng Lê Đức Anh với lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Quân khu 7
Trung tướng Võ Minh Lương, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 7 vẫn
nhớ như in những lần được làm việc cùng đại tướng hoặc gần nhất là đến chúc thọ
đại tướng. “Dù tuổi cao, sức yếu nhưng Đại tướng vẫn căn dặn phải quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ sĩ quan chuẩn mực về đạo đức, phong cách, xứng danh Bộ đội
Cụ Hồ trên trận địa mới”, Trung tướng Võ Minh Lương nói.
Vị tướng giản dị, nghĩa tình
Là người may mắn được làm trợ lý khá lâu cho Đại tướng, Đại tá Khuất Biên Hòa
vẫn nhớ rõ phong cách giản dị, nghĩa tình, không vị tình riêng của bác Sáu Nam
(Đại tướng Lê Đức Anh). Nhớ về những năm tháng làm việc cùng Đại tướng, ông Hòa
xúc động kể: “Phong cách của Đại tướng rất giản dị. Ông hay mặc bộ quần áo Tô
Châu màu rêu đã sờn cũ, mùa đông thì thêm chiếc áo len bên trong, khoác chiếc áo
bông của quân đội phát. Khi có ngày lễ quan trọng hoặc có đồng chí cán bộ của
Trung ương sang làm việc hay thăm hỏi, trước đó 15 phút, ông nói công vụ lấy bộ
comple để ông mặc. Sau đó, ông ngồi đón khách trước giờ hẹn 5 phút”.
Đại tá Khuất Biên Hòa với nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh (Ảnh nhân vật cung cấp)
Đại tá Hòa chia sẻ, là nguyên thủ quốc gia, lại có đời sống giản dị, đời thường,
quan tâm chia sẻ với nhiều người khó khăn, Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức
Anh dành nhiều thời gian đi cơ sở, ông đã phát hiện ra một tình trạng khá phổ
biến, đó là nhiều bà mẹ có con đi chiến đấu hy sinh, bản thân mẹ nghèo đói. Ông
hỏi cán bộ địa phương thì nhận câu trả lời vì trên không có chủ trương nên địa
phương không biết làm cách nào. Đại tướng đến tận phường, xã hỏi có bao nhiêu
người vợ, người mẹ liệt sĩ thiếu đói và nhiều người vợ, người mẹ có chồng, con,
hy sinh cho Tổ quốc nhưng lâu nay không được ai chăm sóc.
Từ những cuộc gặp gỡ, thăm hỏi ấy đã cho ông cảm nhận: Đời sống vật chất
tuy thiếu thốn những các mẹ, các vợ liệt sĩ vẫn chịu được, nhưng nỗi khổ về
tinh thần, sự cô đơn giữa cộng đồng không ai chịu nổi. Trở về Hà Nội, họp Bộ Chính
trị, ông đã đề xuất việc phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Ông
cho rằng, đối với sự chịu đựng và hy sinh cho Tổ quốc mà các mẹ phải chịu thì
việc làm này là quá muộn, nhiều mẹ đã không còn nữa nhưng muộn còn hơn không.
Được Bộ Chính trị đồng ý,
ngày 10-9-1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh (số 36L/CTN)- công bố Pháp
lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh
ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh
binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng. Ngày
1-12-1994, Đảng và Nhà nước tổ chức trọng thể lễ phong tặng danh hiệu vinh dự
Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đợt 1 tại Hà Nội.
Chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trực tiếp
đón và cùng các mẹ duyệt hàng quân danh dự trong khuôn viên Phủ Chủ tịch. Trong
khung cảnh đó, nhiều mẹ đã xúc động nghẹn ngào. Đi bên các mẹ, Chủ tịch nước Lê
Đức Anh không giấu nổi tình cảm của mình, nước mắt ông chảy dài trên má. Sau các
đợt phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cả nước dấy lên phong trào nuôi dưỡng
suốt đời các mẹ còn sống. Từ đó, phong trào phát triển lên, nhiều nhà hảo tâm,
doanh nghiệp, cơ quan xây tặng nhà tình nghĩa, giúp đỡ, hỗ trợ các gia đình chính
sách, thương, bệnh binh, người có công cách mạng...Đại tá Khuất Biên Hòa tự hào
khẳng định: “Đại tướng Lê Đức Anh là người thiết kế, xây dựng nên một không khí,
nếp sống nhân văn của xã hội, của cộng đồng Việt Nam. Điều đó cũng xuất phát tự
đức tính giản dị, giàu lòng nhân ái và vô cùng trong sáng của con người Đại tướng”./.
Vĩnh Hà