ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH ĐỒNG NAI
 
Chưa có thông tin
 

LỊCH SỬ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH ĐỒNG NAI

 

 

 

ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

TỈNH ĐỒNG NAI

 

 

 

 

 

LỊCH SỬ

MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

TỈNH ĐỒNG NAI (Từ 1930 - 2000)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

18/11/2005


 

 

BAN CHỈ ĐẠO

·        Đồng chí DƯƠNG MINH NGÀ - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy - Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

·        Đồng chí NGUYỄN XUÂN CHIẾN - Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

·        Đồng chí NGUYỄN TRỌNG THÊM - Nguyên phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh khóa IV.

·        Đồng chí NGUYỄN BẠCH TUYẾT - Nguyên Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh khóa II, III.

·        Đồng chí LÊ VĂN TRIẾT - Nguyên Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh khóa IV.

 

BAN CHỦ NHIỆM

·        Đồng chí NGUYỄN NGỌC ĐỨC - Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh.

·        Đồng chí NGUYỄN THỊ KIM HOÀNG - UVTT - Chánh Văn phòng Ủy ban MTTQVN tỉnh.

·        Đồng chí TRẦN QUANG TOẠI - Giám đốc Nhà Bảo tàng tỉnh.

·        Đồng chí NGUYỄN VĂN DŨNG - Trưởng Ban TC-HC Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

·        Đồng chí TRẦN MINH GIÁM - Phó Ban TC-TH Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

 

BAN BIÊN SOẠN

·        Đồng chí TRẦN QUANG TOẠI - Giám đốc Nhà Bảo tàng tỉnh.

·        Đồng chí PHAN ĐÌNH DŨNG - Hội viên Hội khoa học lịch sử tỉnh.

·        Đồng chí LÊ YÊN TRI - Hội viên Hội khoa học lịch sử tỉnh.

·        Đồng chí LÊ VĂN LIÊN - Phó Ban Dân vận Tỉnh ủy.

·        Đồng chí NGUYỄN VĂN DŨNG - Trưởng Ban TC-HC Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

 

 



Untitled-1.jpg
 Bác Hồ cầm nhịp bài hát “Đoàn kết”

 


LỜI GIỚI THIỆU

 

          Từ khi khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân đã chung sức chung lòng, đoàn kết đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng, ổn định và phát triển đất nước ngày một đi lên, sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong thành quả chung đó Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam là lực lượng cách mạng to lớn có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          Kế thừa truyền thống vẻ vang của Mặt trận dân tộc thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai đã tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân đóng góp sức người, sức của trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, cũng như khi hòa bình thống nhất đất nước.

Trong công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã không ngừng đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, củng cố kiện toàn tổ chức, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần, giai cấp, tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước góp phần vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - văn hóa - xã hội - quốc phòng an ninh của tỉnh trong những năm qua.

Kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2005) là dịp để mọi người, mọi nhà, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên ôn lại quá trình lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam và một lần nữa khẳng định lại sức mạnh đại đoàn kết dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra luận điểm có tính chân lý:

“Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”[1]

          Kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2005) Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai được sự quan tâm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; sự giúp đỡ nhiệt tình của Ủy ban Nhân dân tỉnh, các Sở ban ngành, đoàn thể tỉnh; các đồng chí cán bộ cách mạng lão thành, cán bộ Mặt trận các khóa, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lịch sử, các tầng lớp nhân dân… xây dựng công trình nghiên cứu, biên soạn và xuất bản quyển sách “Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai từ 1930- 2000”.

          Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai chân thành cảm ơn sự đóng góp quí báu của các tập thể, cá nhân - đặc biệt là sự đóng góp nhiệt tình của Sở Khoa học - Công nghệ tỉnh - vào công trình Sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai.

          Quyển sách “Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai từ 1930- 2000” nhằm giới thiệu về vị trí, đặc điểm tự nhiên, địa lý, về con người Đồng Nai, quá trình đấu tranh kiên cường của quân, dân trong 2 cuộc kháng chiến, giới thiệu một cách sinh động hoạt động cụ thể của các tầng lớp nhân dân trong các phong trào, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc phát động. Qua đó nâng cao lòng tự hào dân tộc để thôi thúc mỗi người, mỗi nhà chung sức chung lòng đóng góp bằng hành động thiết thực cho công cuộc xây dựng và phát triển Đồng Nai giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

          Ngoài ý nghĩa trên, quyển sách còn nhằm khẳng định vai trò lịch sử của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh nhà qua các thời kỳ, để giáo dục truyền thống, rút ra những bài học kinh nghiệm cho hoạt động Mặt trận trong giai đoạn mới.

          Lần đầu tiên biên soạn Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do trình độ của Ban biên tập, Ban chủ nhiệm có hạn và những khó khăn về tư liệu lưu giữ, nhiều cán bộ cách mạng lão thành có tham gia trực tiếp vào các hoạt động sức khỏe yếu, không thể nhớ chính xác hoặc đã mất, nên chắc chắn công trình không thể không có những thiếu sót. Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai rất mong nhận được sự đóng góp tư liệu, ý kiến bổ sung của đồng bào, đồng chí và các vị để góp phần bổ sung thêm cho Sử của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai hoàn chỉnh hơn.

 

 

 


 

BAN THƯỜNG TRỰC

ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

TỈNH ĐỒNG NAI

PHẦN MỞ ĐẦU

ĐỒNG NAI - VÙNG ĐẤT - CON NGƯỜI

VÀ TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT

 

          I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN

          Đồng Nai là vùng đất mới hình thành và phát triển hơn 300 năm, nếu lấy mốc từ năm 1698, khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào kinh lược và xây dựng thiết chế hành chính, đưa vùng đất mới phía Nam Tổ quốc (bấy giờ gọi là xứ Đồng Nai) thành một bộ phận của đất nước.

Những cuộc khai quật khảo cổ do các nhà khoa học Pháp tiến hành từ thế kỷ 20, đặc biệt với sự phát triển của khảo cổ học Đồng Nai từ sau năm 1975, cho thấy từ rất xa xưa Đồng Nai là vùng đất quy tụ nhiều cộng đồng cư dân. Những di chỉ khảo cổ học thời tiền sử như Bình Lộc, Dầu Giây, Gia Tân, Hàng Gòn, Cẩm Tiêm... với nhiều công cụ đá hình rìu, mảnh tước, hạnh nhân thuộc thời đại đá cũ, giai đoạn A-sơn, cách nay khoảng 60 đến 30 vạn năm. Những di chỉ khảo cổ khai quật ở các khu vực Suối Chồn, Bình Đa, Cái Vạn, Cái Lăng, Hàng Gòn... cho thấy cách nay khoảng 5.000 đến 3.000 năm đã có con người sống quần cư. Họ chế tác những công cụ đá, gốm, đồng thau, sống trên những ngôi nhà sàn bằng gỗ, hình thành những khu vực xưởng sản xuất công cụ, chế tác đàn đá… trao đổi giao lưu văn hóa trong khu vực, hình thành một nền văn hóa đặc trưng Đồng Nai dọc theo hai bờ sông Đồng Nai.

          Theo các nhà sử học và qua thư tịch cổ, từ thế kỷ thứ I sau công nguyên, vùng đất Đồng Nai thuộc về Vương quốc Phù Nam rộng lớn. Từ thế kỷ thứ VII, sự tranh chấp giữa Phù Nam, Chân Lạp nổ ra, sau đó, sự tranh chấp giữa Vương quốc Chân Lạp ở phía nam với Vương quốc Chăm phía bắc, đã biến vùng đất thuộc miền Đông trở nên hoang hóa, rừng rậm bao phủ, không một dân tộc nào thực sự làm chủ vùng đất này. Những di chỉ khảo cổ lịch sử như Nam Cát Tiên, Gò Bường, Gò Ông Tùng, Chiêu Liêu… với những phế tích đền thờ tín ngưỡng cho thấy rõ điều này.

Đồng Nai trong thế kỷ 17 là tên gọi cho cả vùng đất Nam bộ. Lê Quý Đôn viết trong tác phẩm Phủ biên tạp lục: “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu trở vào, toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm”. Năm 1623 với sự kiện chúa Nguyễn cho xây dựng một nhà thu thuế những người buôn bán ở Sài Gòn cho thấy người Việt đã sinh sống, giao lưu mua bán hàng hoá khá đông ở khu vực Đồng Nai và đồng bằng sông Cửu Long. Từ một vùng “Đồng Nai xứ sở lạ lùng. Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp um” để trở thành vùng đất trù phú, mời gọi mọi người đến chung tay xây dựng “Nhà Bè nước chảy chia hai. Ai về Gia Định Đổng Nai thì về”, là một quá trình lao động gian khổ, thể hiện sức sống và tinh thần đoàn kết chặt chẽ của các dân tộc sinh sống trên địa bàn.

Đồng Nai trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, có nhiều thay đổi về địa lý hành chính, hiện nay có diện tích 5.864 km2, với nhiều dạng địa hình: rừng núi, đồng bằng và khu vực ven sông biển. Đồng Nai có nhiều sông suối, các sông chính có Đồng Nai, La Ngà. Trong đó sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, với nhiều bậc thềm có thể xây dựng những nhà máy thủy điện lớn, trong đó có thủy điện Trị An. Rừng giồng, rừng Sác ở Đồng Nai từng là những khu căn cứ của cách mạng trong hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong đó rừng Nam Cát Tiên đã được công nhận rừng Quốc gia từ năm 1978 và ngày 10/11/2001 được Ủy ban Unesco của Liên Hiệp quốc công nhận là khu dự trữ sinh quyển thứ 411 của thế giới với 51 loài thú, chim, bò sát có tên trong sách đỏ của Việt Nam. Đồng Nai còn nhiều khu rừng bảo tồn thiên nhiên khác (như Mã Đà, Hiếu Liêm, Vĩnh An).

Về thổ nhưỡng, Đồng Nai gồm khu vực đất đỏ bazanlt như ở Xuân Lộc, Long Khánh, Định Quán, Tân Phú; khu vực đất đen như ở huyện Thống Nhất, Vĩnh Cửu và khu vực đất phù sa, đất xám bạc màu như ở thành phố Biên Hòa, Long Thành, Nhơn Trạch… Đồng Nai thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Khí hậu và thổ nhưỡng ở Đồng Nai rất thuận lợi cho việc phát triển về nông nghiệp, các loại cây lương thực, cây ăn trái và cây công nghiệp dài ngày phục vụ cho chế biến, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

Đồng Nai trong thời kỳ đổi mới (từ sau 1986) là tỉnh nằm trong khu vực trọng điểm kinh tế phía Nam, với hệ thống giao thông thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt, đường thủy. Sông Đồng Nai có thể xây dựng những bến cảng lớn, đã trở thành một khu vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển nhanh về công nghiệp. Hiện tỉnh quy hoạch 20 khu công nghiệp, trong đó có 15 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động, thu hút trên 470 dự án sản xuất với tổng vốn trên 6,3 tỷ USD. Đi lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Đồng Nai thu hút nguồn lao động trên 200.000 từ các nơi về sinh sống lao động, đang đặt ra nhiều vấn đề về an sinh cả vật chất và tinh thần, văn hóa.

          II. NGUỒN GỐC CƯ DÂN VÀ TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT

          1. Đặc điểm dân cư

Đồng Nai là vùng đất hội tụ nhiều tộc người: Thế kỷ 17 người Việt đã có mặt ở vùng đất Đồng Nai. Đó là những người lẩn tránh cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn; những tội đồ dưới chế độ phong kiến; những người nông dân bị địa chủ phong kiến bóc lột… Họ đi bằng đường bộ, hoặc đường biển, có khi đi lẻ tẻ, khi đi cả gia đình vào định cư ở những khu vực hạ lưu sông Đồng Nai như Bến Gỗ, Hiệp Hòa, Bến Cá…, sống chan hòa cùng những cộng đồng dân tộc bản địa Ch’ro, S’tiêng, Mạ, từng bước biến một vùng đất rừng rậm hoang vu thành xóm làng trù phú. Cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn càng ác liệt, mâu thuẫn giai cấp xã hội giữa chính quyền phong kiến, giai cấp địa chủ với giai cấp nông dân càng gay gắt, thì lưu dân Việt từ Ngũ Quảng vào Đồng Nai - Gia Định càng đông. Tiến trình nhập cư của người Việt diễn ra trong suốt thế kỷ 17. Đại đa số họ là những nông dân nghèo, sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau như buôn bán nhỏ, đánh bắt cá, khai thác gỗ, làm các nghề thủ công như dệt cửi, làm đồ gốm…, nhưng tuyệt đại bộ phận sống về nông nghiệp, trồng lúa nước, các loại cây ăn quả, hoa màu.

Năm 1679, nhóm người Hoa “phản Thanh phục Minh” do Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình dẫn đầu trên 50 chiến thuyền với 3.000 quan binh cùng gia đình xin tỵ nạn trên đất Việt được chúa Nguyễn Phúc Tần cho vào định cư ở Bàn Lân, xứ Đồng Nai.

Nhóm người Hoa tiếp tục khai hoang và từng bước sống tập trung ở khu vực Cù lao phố cùng với người Việt, phát triển nghề buôn bán, làm thủ công. Cuối thế kỷ 17, Cù lao phố phát triển kinh tế mạnh mẽ hình thành một trung tâm mua bán lớn, một thương cảng phát triển bậc nhất ở Nam bộ trong thế kỷ 18, là một biểu trưng của tinh thần đoàn kết dân tộc.

Năm 1698, vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phía Nam, lấy xứ Đồng Nai lập phủ Gia Định với hai huyện Tân Bình có Dinh Phiên Trấn và huyện Phước Long với Dinh Trấn Biên. Khi ông vào, khu vực Nam bộ đã có khoảng 40 vạn hộ. Nếu tính mỗi hộ 5 người thì số dân đến 200.000 người. Nguyễn Hữu Cảnh đã kêu gọi nhiều người từ vùng ngũ Quảng[2] vào xây dựng vùng đất mới. Chính sách khẩn hoang, lập dinh điền của Chúa Nguyễn với nhiều ưu đãi đã làm cho vùng đất mới Đồng Nai phát triển nhanh.

Mỗi dân tộc sống trên vùng đất Đồng Nai đều có một nền văn hóa riêng đặc sắc. Sự giao lưu văn hóa Việt - Hoa - dân tộc bản địa tạo nên tính cách đặc sắc của người Việt, trong đó yếu tố đoàn kết dân tộc giữ một vị trí quan trọng để có thể khai khẩn mở rộng việc khai thác tự nhiên và xây dựng cuộc sống.

2. Truyền thống đoàn kết

Việc tổ chức hành chính của nhà Nguyễn, chính sách khẩn hoang, chiêu mộ dân từ ngũ Quảng vào vùng đất mới, là điều kiện xây dựng cộng đồng ở vùng đất mới. Nông nghiệp, thủ công nghiệp phát triển với một mức độ nhất định đã mang tính chất sản xuất hàng hóa. Việc chung sức khai hoang, mở mang vùng đất mới, đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn tạo nên truyền thống đoàn kết của các cộng đồng dân tộc ở vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.

Tháng 12-1861; thực dân Pháp nổ súng chiếm thành Biên Hòa. Nhân dân Biên Hòa căm thù giặc, thực hiện “vườn không nhà trống”, bất hợp tác với thực dân cướp nước. Sách Đại Nam thực lục chính biên, tập XXIV viết: “Dân cư ba huyện Nghĩa An, Bình An, Long Thành gần chỗ giặc Pháp đóng, bỏ trốn đến 74 thôn”[3].

Trước vận mệnh đất nước lâm nguy, tuy quan binh do triều đình Nguyễn cử vào án binh bất động ở Bình Thuận, nhân dân Biên Hòa đã đi theo ngọn cờ lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước kháng chiến của Trương Định, Nguyễn Thành Ý, Phan Trung… Nhiều căn cứ kháng chiến được xây dựng ở Giao Loan (Rừng Lá, Xuân Lộc), Bàu Cá (nay thuộc huyện Thống Nhất). Đặc biệt trong thành phần nghĩa quân có nhiều đồng bào dân tộc Ch’ro, S’tiêng tham gia, liên tục tấn công các đồn giặc gây cho chúng nhiều thiệt hại, khó khăn. Thực dân Pháp thú nhận: “Quân khởi nghĩa đã thành công trong việc lôi kéo những bộ lạc người Thượng ở ven biên giới Biên Hòa - Bà Rịa; trước đó những bộ lạc này vẫn đứng ngoài cuộc chiến. Việc tham gia của những bộ lạc này chứng tỏ cuộc khởi nghĩa ở Biên Hòa đã có một trợ lực quan trọng[4]. Thực dân Pháp phải đối phó hết sức vất vả mới bình định được những vùng chúng chiếm đóng, bởi tinh thần đoàn kết, ý chí bất khuất giữa đồng bào Kinh với đồng bào dân tộc trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

Tiếp theo phong trào kháng chiến dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ở Biên Hòa nổi lên nhiều phong trào Hội kín do những người yêu nước lãnh đạo, như các tổ chức Thiên địa hội, Hội kín Đoàn Văn Cự (1905), Trại Lâm Trung (1916), nhiều lần tấn công giặc Pháp ở các khu vực Long Thành, tham gia tấn công ở Sài Gòn, Tòa bố Biên Hòa giải thoát những thanh niên bị thực dân Pháp bắt đi lính trong thế chiến lần thứ I…

          Đồng Nai là vùng đất tiếp nhận nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Tín ngưỡng dân gian truyền thống của người Việt từ vùng châu thổ sông Hồng, vùng ngũ Quảng là hành trang mang theo của người Kinh, hòa hợp với truyền thống tín ngưỡng của các dân tộc; sự phát triển sớm của Phật giáo - tôn giáo du nhập và phát triển sớm nhất ở Việt Nam và Biên Hòa, Thiên Chúa giáo và các tôn giáo khác được du nhập vào đàng Trong và Đồng Nai, thể hiện sự hòa hợp và tôn trọng tâm linh, tín ngưỡng, trong đó truyền thống thờ cúng ông bà tổ tiên, tôn thờ những người có công với dân với nước theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn” là yếu tố để tạo nên sự hòa đồng, sự cố kết các thành phần dân tộc trong cuộc sống lao động và văn hóa.

          Tỉnh Đồng Nai hiện nay có trên 1.200 ngôi đình, chùa, am miếu, nhà thờ, thể hiện được sự dung hợp về tín ngưỡng, nhiều ngôi đình, chùa cổ không chỉ thể hiện truyền thống tín ngưỡng dân tộc, mà còn minh chứng cho quá trình mở đất của cha ông ta, có giá trị văn hóa, mỹ thuật, kiến trúc, lịch sử. Điểm đặc biệt, Cù Lao phố, xã Hiệp Hòa không lớn nhưng có đến 11 ngôi đình[5], 8 ngôi chùa. Ngôi đình là dấu tích văn hóa làng xã còn lại của người Việt. Đình chính là nơi mọi người tụ họp, cấu kết dân làng với nhau suốt chiều dài lịch sử của làng. Đình làng thể hiện nhu cầu văn hóa tâm linh cao của người Việt khi khai mở vùng đất mới.

Đặc biệt nhiều tu sĩ Phật giáo trước cảnh mất nước, nhà tan cũng tham gia nghĩa quân kháng chiến. Tháng 2-1885, nhóm nghĩa quân Hội kín do nhà sư Trần Văn Tấn (pháp hiệu Huyền Vi) trụ trì chùa Giác Lâm tìm cách đột nhập vào phủ đường Long Thành, giết chết tri phủ tay sai Trần Bá Hựu. Chính quyền tay sai ở Biên Hòa truy lùng bắt các lãnh tụ xử ở tòa đại hình Bình Hòa (Gia Định) tuyên: tử hình nhà sư Trần Văn Tấn, khổ sai chung thân nhà sư Phạm Trung Báo (tức Huỳnh Tấn Thanh), Nguyễn Văn Thượng, Lâm Văn Tôn và nhiều bản án khổ sai 20 năm cho các nghĩa quân khác.

          Đoàn kết đấu tranh với thiên nhiên, khai mở vùng đất mới; đoàn kết dân tộc, tôn giáo đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, là truyền thống tốt đẹp, thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh bất khuất vì độc lập dân tộc của nhân dân các cộng đồng dân tộc ở Biên Hòa - Đồng Nai. Đó là cơ sở, tiền đề để nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai xác lập niềm tin vào ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì lý tưởng độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội.  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phần thứ nhất

SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA NHỮNG TỔ CHỨC QUẦN CHÚNG

 DO ĐẢNG LÃNH ĐẠO (1930 – 1945)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG I

CÁC TỔ CHỨC QUẦN CHÚNG TRONG

CAO TRÀO 1930 - 1931 VÀ 1936 - 1939

          I. NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN RA ĐỜI

  Từ cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh vì muốn khôi phục và xây dựng Vương triều nhà Nguyễn đã dựa vào giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) ký hiệp ước Vec-xay (Versailles) cầu viện chính phủ Pháp giúp binh lính, súng đạn, tàu chiến để chống lại phong trào Tây Sơn tạo điều kiện mở đường cho tư bản Pháp thực hiện lâu dài âm mưu, kế hoạch xâm lược Việt Nam. Nước ta đứng trước hiểm họa mất chủ quyền.

Nhưng thực tế không phải chờ khi Nguyễn Ánh cầu viện thì thực dân Pháp mới nảy sinh ý đồ xâm lược nước ta, mà trước đó, thông qua tin tức và gợi ý của các giáo sĩ truyền giáo ở Đàng Trong, ý đồ xâm lược đó đã bộc lộ. Năm 1749, giáo sĩ (kiêm nhà buôn) Pháp Pi-e Poa-vrơ (Pierre Poivre) truyền đạo ở Đàng Trong, khi về Pháp đã báo cáo: “Một công ty muốn đứng được ở Đàng Trong và có thiết bị chắc chắn để buôn bán có lợi thì cần có phương tiện để khiến người ta kiêng nể và kính trọng. Ta có thể chuyển người Đàng Trong sang các thuộc địa của ta để làm thợ sản xuất đường, tơ lụa. Ta có thể chuyển sang cả thợ cày, thợ mộc[6].

Ngày 22/4/1857, Na-pô-lê-ông đệ III (Napoléon III) dựa vào văn kiện hiệp ước Vec-xay ký năm 1787 (do Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh - con Nguyễn Ánh ký), mặt khác lấy cớ “bảo vệ đạo” để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận công giáo Pháp, tư bản Pháp quyết tâm xâm lược nước ta.

Ngày 1/9/1858 Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng. Ngày 10/2/1859 chúng quay vào Nam kỳ, hạ pháo đài Phước Thắng (Vũng Tàu). Ngày 16/2/1859 chúng hạ thành Gia Định sau khi vất vả đánh chiếm hàng loạt đồn của quân triều đình từ cửa Cần Giờ ngược sông Lòng Tàu trở lên.

Ngày 17/12/1861 thực dân Pháp đánh chiếm thành Biên Hòa rồi Định Tường …, mở rộng xâm lược cả nước ta. Năm 1884, triều đình Nguyễn ký với Pháp hòa ước Nhâm Tuất. Từ chế độ phong kiến, Việt Nam thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là bù nhìn.

          Chiếm được Việt Nam, thực dân thực hiện chính sách chia để trị (về chính trị thực hiện chia ba kỳ: Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ), chính sách ngu dân (về văn hóa: xóa bỏ dần cách học truyền thống, đầu độc nhân dân bằng thuốc phiện rượu, mở trường chủ yếu đào tạo thông ngôn, tay sai) và chính sách bóc lột tài nguyên và lao động thuộc địa (về kinh tế: thực hiện chính sách độc quyền khai thác tài nguyên, độc quyền xuất nhập khẩu).

          Ngay khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân cả nước liên tục nổi lên chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương, Văn thân do các sĩ phu yêu nước cầm đầu. Tại Biên Hòa, nhân dân dưới cờ Trương Định, các sĩ phu yêu nước (Nguyễn Đức Ứng), các Hội kín (Đoàn Văn Cự, Trại Lâm Trung) liên tục nổi dậy nhưng tất cả đều không thành công.

          Những năm đầu thế kỷ 20, đặc biệt sau khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ I (1914-1918), nước Pháp đối đầu với nhiều khó khăn do kinh tế lụn bại trong chiến tranh, càng đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa (thường gọi là khai thác thuộc địa lần thứ II). Tại Biên Hòa, thực dân mở đường giao thông, xây dựng đường sắt, mở mang kỹ nghệ, khai thác cao su… là một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự ra đời của đội ngũ giai cấp công nhân ở địa phương. Ngoài cơ sở công nghiệp BIF (khánh thành năm 1912), đề pô xe lửa Dĩ An với số lượng công nhân khoảng vài trăm người, đại đa số đội ngũ công nhân địa phương là những người phu làm trong các đồn điền cao su.

          Những người công nhân ở Biên Hòa vốn xuất thân từ nông dân ở miền Trung, miền Bắc bị địa chủ phong kiến bóc lột nặng nề, phải ký hợp đồng đi phu vào Nam lao động trong các “địa ngục trần gian” (đồn điền cao su)[7], trong những điều kiện khí hậu khắc nghiệt, dưới đòn roi của bọn cai, xu, thiếu thốn tất cả mọi phương tiện sinh sống, bị bóc lột thậm tệ. Nhưng họ lại lao động trong môi trường tập thể, có kỷ luật, nên nhanh chóng đoàn kết nhau lại để chống áp bức của tư bản thực dân. Từ những hình thức đấu tranh tiêu cực như bỏ trốn, tự sát, họ tiến lên một bước chống trả bằng bạo lực (chém Tây), rồi đấu tranh tập thể để đòi quyền dân sinh dân chủ.

          Tháng 12/1926, hơn 500 công nhân cao su đồn điền Cam Tiêm đã đấu tranh đòi tăng lương, đòi ngày làm 8 giờ, cùng với hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn, Thủ Dầu Một.

          Trong thời điểm này, năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã về Quảng Châu (Trung Quốc) xây dựng tổ chức Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam (Thanh niên cách mạng Đồng chí hội); mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ, tung những cán bộ này trở về Việt Nam hoạt động, tuyên truyền tập hợp quần chúng công nhân lao động. Phong trào “Vô sản hoá” trong các đoàn viên Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam đã tạo ra một bước chuyển mạnh mẽ trong phong trào công nhân và nhân dân về nhận thức.

          Ở Biên Hòa, theo chỉ đạo của đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Nguyễn Xuân Cừ đã vào làm ở đồn điền cao su Phú Riềng, xây dựng được cơ sở Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam năm 1928. Tháng 9/1928, nhân việc tên sếp đánh bị thương một công nhân, toàn thể công nhân Phú Riềng đã tiến hành đình công đấu tranh với khẩu hiệu “cấm đánh đập, bỏ lối cúp phạt lương”.

Tiếp đó ngày 20/9/1928, 500 công nhân đồn điền cao su Cam Tiêm đồng loạt bãi công, đấu tranh. Chính quyền thực dân cho binh lính lên đàn áp, làm nhiều công nhân chết và bị thương, nhiều người phải trốn vào rừng. Cuộc đấu tranh này gây tiếng vang lớn. Tổng Liên đoàn Pháp đã lên tiếng phản đối hành động đàn áp dã man của thực dân và ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam nói chung và công nhân ở Cam Tiêm nói riêng. Đồng chí B.Bernardoni, Ủy viên Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Pháp viết:

Hỡi các người công nhân cao su! Anh có biết chăng rằng giá cao su bây giờ hạ lắm, thế mà bọn nghiệp chủ ngày càng giàu không? Anh làm việc vất vả suốt ngày như thế mà tiền công có đủ ăn không? Anh ơi anh bị bóc lột thậm tệ! Những sự nghiệp tiền của lớn lao hãi hùng kia, chính là mồ hôi và nước mắt của hàng nghìn người lao động như anh vậy... Anh em hãy đoàn kết nhau lại! Chưa muộn đâu!”[8].

Liên tục tháng 8 và tháng 10-1929, công nhân Phú Riềng đã bãi công, đấu tranh. Thực dân Pháp đàn áp, bắt người và mở phiên tòa xét xử ở tỉnh lỵ Biên Hòa. Trong phiên tòa ấy, đồng chí Trần Tử Bình và nhiều công nhân đã đấu tranh kiên cường, vạch trần tội ác của tư bản thực dân Pháp, gây tiếng vang lớn.

Những cuộc đấu tranh trên thể hiện được tinh thần đấu tranh bền bỉ của đội ngũ công nhân ở Biên Hòa chống kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp, với quy mô lớn và bước đầu có tính tự giác, mục tiêu đấu tranh vừa mang tính chất kinh tế, vừa mang tính chất chính trị.

Sự chuyển biến của phong trào đấu tranh của công nhân đã làm cho thực dân Pháp đánh giá vào năm 1929: “…mỗi sự sai sót hoặc sai lầm nhỏ mọn nào của chủ đều lập tức bị bọn tuyên truyền được đào tạo trong trường phá rối trị an lợi dụng và sẵn sàng chớp lấy mọi cơ hội để khêu gợi căm thù chủng tộc và giai cấp[9].

II. NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH DO ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO.     

          Giữa năm 1929, tổ chức Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam bị phân hóa từ Tổng bộ với xu hướng có nên thành lập Đảng Cộng sản hay không. Từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930, ở Việt Nam đã hình thành 3 tổ chức Cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (miền Bắc), An Nam Cộng sản Đảng (miền Nam) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (miền Trung). Cả 3 tổ chức Đảng đều có hệ thống tổ chức, điều lệ, tôn chỉ mục đích riêng.

Từ ngày 3-2 đến 7-2-1930, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Quốc tế Cộng sản triệu tập hội nghị tại Hương Cảng, thống nhất các tổ chức cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt của cách mạng Việt Nam.

II.1. Công nhân cao su Phú Riềng đấu tranh (30-1 đến 6-2-1930)

Đồn điền cao su Phú Riềng thuộc tỉnh Biên Hòa, từ năm 1928 đã hình thành tổ chức Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam. Đến tháng 10-1929, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Ngô Gia Tự (Đông Dương Cộng sản Đảng) đã hình thành chi bộ Cộng sản do đồng chí Trần Tử Bình làm Bí thư.  

Sáng mồng một Tết Canh Ngọ (tức ngày 30-1-1930), cuộc đấu tranh đã nổ ra bằng hình thức công nhân kéo lên nhà chủ sở Soumagnac để chúc tết, nhưng thực chất là biểu tình đưa yêu sách.

Khi tên chủ sở Soumagnac xuất hiện trước thềm nhà, đồng chí Trần Tử Bình bí thư chi bộ cùng hai đồng chí Hồng, Tạ đưa yêu sách: bỏ đánh đập, bỏ cúp phạt lương, bỏ thuế thân, cho những người hết hạn công tra trở về quê, phát gạo tốt cho nữ công nhân thời kỳ sinh đẻ, bồi thường cho công nhân khi bị tai nạn trong khi lao động, thực hiện ngày làm 8 giờ, công nhân ốm đau phải được trị bệnh và hưởng lương…

Trước khí thế của hàng ngàn công nhân tên chủ sở phải nhận yêu sách và hứa giải quyết. Thắng lợi bước đầu làm cho công nhân rất phấn khởi. Trong 3 ngày nghỉ Tết, công nhân được chi bộ hướng dẫn thăm hỏi nhau, tổ chức múa lân, diễn văn nghệ, nghe diễn thuyết của đại diện nghiệp đoàn kêu gọi đoàn kết giai cấp, nêu cao tinh thần đấu tranh…

Sáng 3-2-1930, nhân việc một công nhân bị đánh chết, cuộc đấu tranh bùng nổ. Hàng ngàn công nhân cao su kéo lên nhà tên chủ nhất đòi bồi thường nhân mạng cho anh Cảo (công nhân làng 9) bị đánh chết; đồng thời những yêu sách của công nhân hôm trước được đưa ra một cách kiên quyết hơn. Ban chỉ đạo huy động công nhân tất cả 10 làng đều vây chặt nhà tên chủ sở đến sáng ngày 4-2. Khoảng 10 giờ sáng, tên đội Tây Morère chỉ huy 25 lính khố đỏ từ đồn Phú Riềng kéo lên đàn áp cuộc đấu tranh. Đội Xích vệ cùng với công nhân bao vây tấn công, buộc bọn lính bỏ chạy để lại 7 khẩu súng và 5 tên bị bắt.

Trước áp lực của công nhân, tên chủ Soumagnac phải mở cửa ký biên bản chấp nhận yêu sách đấu tranh của công nhân. Quá phấn khích hàng ngàn công nhân thực hiện cuộc biểu tình tuần hành chiếm các kho bãi, nhà để xe, máy nước, kho gạo, sau đó chiếm cả văn phòng sở, tịch thu mọi giấy tờ, sổ sách, các bản giao kèo lao động và đốt sạch. Tên chủ sở và tay chân đều bỏ chạy. Từ cuộc đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, cuộc biểu tình biến thành cuộc nổi dậy giành quyền làm chủ toàn bộ đồn điền Phú Riềng. Đây là lần đầu tiên, công nhân làm chủ một đồn điền, cờ đỏ búa liềm xuất hiện công khai. Cuộc đấu tranh của công nhân cao su đồn điền Phú Riềng do Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng lãnh đạo từ 30-1 đến 6-2-1930, mở đầu cho phong trào đấu tranh của công nhân đồn điền cao su ở miền Đông và Nam bộ.

Trước tình hình trên, Xứ ủy Nam kỳ của Đông Dương Cộng sản Đảng đã chỉ đạo chi bộ Phú Riềng phải chuyển hướng đấu tranh: Thực hiện cuộc đấu tranh với những yêu sách như ban đầu, bỏ những khẩu hiệu quá tả, công nhân làng nào trở về làng ấy, đem súng tịch thu được để trước văn phòng sở. Sự chuyển hướng đấu tranh này nhằm tránh những tổn thất không cần thiết khi địch thực hiện đàn áp.

Sáng ngày 6-2-1930, Thống đốc Nam kỳ, Công sứ và phó Công sứ Biên Hòa, Chánh mật thám Đông Dương mang theo 20 xe ô tô với 300 lính lê dương, 500 lính khố đỏ kéo lên Phú Riềng đàn áp cuộc đấu tranh của công nhân[10]. Sau đó do kinh nghiệm lãnh đạo chỉ đạo còn non kém, bọn chỉ điểm dò ra những người lãnh đạo đấu tranh, các đảng viên trong chi bộ và hơn 100 công nhân đồn điền đã bị bắt.

Tại tòa án Biên Hòa, các đồng chí Trần Tử Bình, Nguyễn Mạnh Hồng… đã dũng cảm đấu tranh vạch trần chế độ đồn điền của thực dân Pháp, khiến tòa án kẻ thù phải vội vàng tuyên án cho xong.

Mặc dù có tổn thất nhưng cuộc đấu tranh của công nhân Phú Riềng ngày 3-2-1930 đã thắng lợi. Đây là cuộc đấu tranh lớn nhất của công nhân cao su lúc bấy giờ, thể hiện được tinh thần đoàn kết và ý chí đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, đội ngũ công nhân cao su nói riêng. Cuộc đấu tranh gây tiếng vang cả nước, thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân ở miền Đông Nam bộ.

II.2. Phong trào đấu tranh của quần chúng, tiến tới thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Bình Phước-Tân Triều

 Từ thắng lợi của “Phú Riềng đỏ”, phong trào đấu tranh đòi dân sinh, cải thiện đời sống và lao động của đội ngũ công nhân Biên Hòa đã liên tục diễn ra trong suốt năm 1930 và cả năm 1931: Công nhân xe lửa Dĩ An đình công ngày 27-4-1930; đấu tranh của công nhân cao su các đồn điền Dầy Giây, An Lộc, Bình Lộc, Ông Quế… thuộc Công ty cao su SIPH.

Tại nhà máy cưa BIF Biên Hòa, năm 1929, anh Nguyễn Văn Hợp, dân Nghệ Tĩnh, xin vào làm thư ký cho hãng cưa. Anh đánh máy một số truyền đơn, anh Ba Hạt (Nguyễn Văn Hạt) là thủ kho in thêm bằng xu xoa (thạch trắng) và rải khắp con đường từ nhà máy cưa vào xóm Tân Mai, kêu gọi thợ thuyền và dân cày đoàn kết  đòi thực dân Pháp bãi bỏ chế độ bắt dân đi xâu, giảm sưu cao thuế nặng …

Ngày 28/4/1930 nhiều truyền đơn được rải tại khu vực nhà máy cưa và một số nơi ở tỉnh lỵ, kêu gọi thợ thuyền và các giới đồng bào ủng hộ đảng Cộng sản Việt Nam và chào mừng ngày Quốc tế lao động 1/5 sắp tới, kêu gọi công nông binh liên hiệp đấu tranh.

Ngày 1/5/1930, thợ máy cưa đình công, đưa ra các đòi hỏi: ngày làm 8 giờ, không được đánh đập cúp phạt thợ, không bắt thợ làm việc ngày chủ nhật (nếu làm, phải trả công gấp đôi)… Bọn quản lý nhà máy người Pháp hứa không để cai, xu đánh thợ, hạn chế làm việc chủ nhật; còn các điều khác chúng lờ đi. Cuộc đấu tranh này mới thu kết quả hạn chế, nhưng địch không dám đàn áp. Cho đến tháng 9/1930, cơ sở cách mạng ở nhà máy cưa Biên Hòa nhiều lần rải truyền đơn kêu gọi thợ đấu tranh, ủng hộ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Những năm 1930-1931, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra và bị thực dân Pháp đàn áp một cách khốc liệt, cộng với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, nên cuộc sống của nhân dân ta càng thêm khó khăn túng quẫn. Phong trào cách mạng bị dìm trong máu, tuy nhiên những cuộc đấu tranh, đặc biệt của công nhân vẫn diễn ra mặc dù mang tính tự phát nhiều hơn. Năm 1932, tại đồn điền cao su Bình Sơn đã nổ ra cuộc đấu tranh của công nhân chống đánh đập, cúp phạt. Đến tháng 5-1934, hàng loạt các đồn điền cao su ở Biên Hòa bãi công hai ngày chống chủ sở hạ thấp tiền lương.

Từ năm 1934, đồng chí Lưu Văn Viết, sau thời gian hoạt động ở Sài Gòn đã trở về Biên Hòa. Đồng chí cải trang, đi nhiều nơi tuyên truyền về cộng sản, kết nạp một số đảng viên cộng sản như Lưu Văn Văn, Huỳnh Văn Phan, Huỳnh Dân Sanh...

Đầu năm 1935, đồng chí Hoàng Minh Châu được Xứ ủy Nam kỳ cử về Biên Hòa vào làm công nhân trong sở Trường Tiền Biên Hòa, ra sức tuyên truyền lòng yêu nước, tập hợp công nhân; đồng thời liên lạc được với nhóm cộng sản của đồng chí Lưu Văn Viết. Tháng 2-1935, chi bộ đảng Bình Phước - Tân Triều được thành lập. Đồng chí Hoàng Minh Châu, Bí thư; đồng chí Huỳnh Văn Phan phó Bí thư. Đây là chi bộ Đảng thành lập đầu tiên ở Biên Hòa (sau Phú Riềng). Hầu hết đảng viên là người địa phương hai xã Bình Phước, Tân Triều. Sự hình thành chi bộ đảng đánh dấu một bước chuyển biến mạnh của phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa. Những đảng viên trong chi bộ là những hạt nhân cho phong trào Mặt trận Dân chủ sau này và hình thành Tỉnh ủy lâm thời năm 1937. 

          Để tập hợp thanh niên, chi bộ Bình Phước - Tân Triều chỉ đạo thành lập tổ chức Liên đoàn học sinh tập hợp nhiều học sinh các trường tiểu học Bình Hòa, Tân Triều, Bình Phước, Bình Hoà, Bình Ý, Tân Phong, Bửu Long quận Châu Thành. Thông qua các hoạt động như du khảo, cắm trại, viết báo tường…chi bộ tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản; đồng thời phát triển đảng (như đồng chí Phạm Văn Thuận, người xã Bình Ý).

          Ngày 1-5-1930, Liên đoàn học sinh đã tổ chức in và rải truyền đơn ở các xã thuộc quận Châu Thành, kêu gọi tất cả lao động đoàn kết đấu tranh đòi quyền sống. Sau cuộc rải truyền đơn thực dân Pháp ráo riết truy lùng, hơn nữa do chưa có kinh nghiệm hoạt động, các đoàn viên đều thêu trên ngực áo bốn chữ Liên đoàn học sinh, do vậy địch phát hiện. Tổ chức Liên đoàn học sinh tan rã.

III. TẬP HỢP QUẦN CHÚNG TRONG PHONG TRÀO MẶT TRẬN DÂN CHỦ ĐÔNG DƯƠNG

Những năm 1929-1933 cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra gay gắt. Thực dân Pháp càng tăng cường bóc lột sức lao động, vơ vét tài nguyên ở các nước thuộc địa. Đời sống nhân dân ta đã đói nghèo càng thêm cơ cực. Hàng hóa phục vụ cuộc sống như vải, gạo, dầu lửa, diêm quẹt… đều khan hiếm. Công nhân, nông dân ở Biên Hòa cuộc sống điêu đứng, tối tăm.

Mặc khác, từ năm 1934-1935, những hoạt động chính trị công khai của các đảng viên cộng sản như Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai… tờ báo Chuông rè (La cloche félée) của nhà yêu nước Nguyễn An Ninh và sau đó các báo A-văng Gác (Avant Garde: Tiền phong), Lơ Pớp (Le Peuple: Dân chúng), Lao động, Bạn dân, Nhành lúa, Tin tức, Thời thế của Đảng kế tiếp xuất hiện, đòi tự do dân chủ, cải tiến thể chế ở thuộc địa… gây tiếng vang lớn, thu hút hàng ngàn bạn đọc nhiều nơi trong tỉnh Biên Hòa. Xu hướng dân chủ trong xã hội ngày một cao hơn.

Tại Pháp, tháng 4-1936, Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp, trong đó Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt được thành lập. Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp đã đề ra một số chủ trương tiến bộ có liên quan đến người lao động thuộc địa. Tình hình chính trị ở nước Pháp đã ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào cách mạng ở Việt Nam.

Trước tình hình thuận lợi mới, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) ngày 26-7-1936 đã quyết định: Tạm thời không nêu khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp” và “Tịch thu ruộng đất của địa chủ cho dân cày”; đồng thời chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tập hợp mọi lực lượng dân chủ tiến bộ đấu tranh chống kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn phát xít Pháp và bọn phản động thuộc địa; đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào quần chúng phát triển mạnh, mở đầu bằng cuộc vận động lấy chữ ký tổ chức Đông Dương đại hội. Ngày 13-8-1936, Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội được thành lập ở Sài Gòn, chỉ đạo thành lập các Ủy ban hành động ở các tỉnh. Trong một thời gian ngắn các tỉnh Nam kỳ đã xây dựng trên 600 Ủy ban hành động.

Đầu tháng 9-1936, Xứ ủy Nam kỳ cử hai đồng chí Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Nghĩa về Biên Hòa chỉ đạo và vận động phong trào. Đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa đã nối liên lạc với các đồng chí Huỳnh Văn Lũy, Phạm Văn Khoai, Phạm Văn Thuận, Hồ Văn Đại… các đồng chí trong chi bộ Bình Phước - Tân Triều, tổ chức ra Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa do đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa làm Chủ tịch. Các đồng chí phân công nhau đi Long Thành, Xuân Lộc để xây dựng các Ủy ban hành động tập hợp quần chúng.

Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa đặt văn phòng tại khách sạn Thanh Phong (Bình Trước, quận Châu Thành, Biên Hòa), tổ chức thư viện Bình Dân ở dốc Bà Bành (Bình Ý) làm nơi phát hành báo chí công khai của Đảng và các báo tiến bộ khác; đồng thời tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết, mít tinh, tuyên truyền dân chủ, tuyên truyền cộng sản, thu hút đông đảo quần chúng tham gia.

Để đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, cuối năm 1936, Liên tỉnh ủy miền Đông cử đồng chí Trương Văn Bang, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam kỳ 1933-1935 về Biên Hòa liên lạc với chi bộ Bình Phước - Tân Triều và các đảng viên, chuẩn bị xây dựng Đảng bộ. Tháng 2-1937, Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa hình thành. Ban chấp hành lâm thời gồm các đồng chí Trương Văn Bang, Bì thư, Trần Minh Triết, Nguyễn Hồng Kỳ, Lê Văn Tôn, Huỳnh Liễng, Huỳnh Văn Phan… Nhiều chi bộ đảng ở các xã được xây dựng[11], trong đó nhà máy cưa BIF Biên Hòa có hai chi bộ[12].

Nhiều tổ chức quần chúng hợp pháp, bán hợp pháp như Công hội (nhà máy BIF, ga Biên Hòa, các đồn điền cao su ở Long Thành, Xuân Lộc), Nông hội (quận Châu Thành, Tân Uyên) được thành lập. Hàng loạt các Hội Ái hữu hình thành như Hội Tương tế, Hội Chùa, Miễu, Hội đá bóng, Hội lân, hội cày, hội cấy, Hội “nhà vàng” tập hợp đông đảo quần chúng.

Ủy ban hành động chỉ đạo kết hợp hình thức công khai, bán công khai hợp pháp, tổ chức nhiều cuộc đấu tranh, mít tinh của nông dân, công nhân với mục tiêu đòi cải thiên đời sống, đòi dân chủ[13]. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân cao su, công nhân lâm nghiệp đã diễn ra và thu đạt kết quả khả quan[14].

Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân Biên Hòa thời kỳ 1936-1939 là một bước phát triển lớn của cách mạng địa phương. Qua phong trào, cán bộ trưởng thành với kinh nghiệm trong việc tổ chức các hình thức đa dạng để tập hợp quần chúng. Hầu hết các cuộc đấu tranh đều tập trung vào vấn đề bảo vệ quyền lợi người lao động nên được nhân dân hưởng ứng đông đảo. Thông qua công tác tuyên truyền, đấu tranh, nâng cao nhận thức chính trị của quần chúng nhân dân về chủ nghĩa cộng sản, về Đảng Cộng sản. Đặc biệt những cuộc đấu tranh thể hiện rất rõ tinh thần đoàn kết của quần chúng lao động thông qua nhiều tổ chức tập hợp nghề nghiệp, ngành, giới, là bước tập dượt quần chúng với phương thức đấu tranh tập thể mang tính tổ chức cao.

 

 

CHƯƠNG II

TẬP HỢP ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN

TIẾN TỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

(1940 - 1945)

          I. NHÂN DÂN BIÊN HÒA LÀ CHỖ DỰA VỮNG CHẮC ĐỂ GIỮ VỮNG PHONG TRÀO, KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, XÂY DỰNG CƠ SỞ ĐẢNG

          Tháng 9-1939, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra. Thực dân Pháp nhân cơ hội đẩy mạnh việc khủng bố phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo; đồng thời tăng cường bóc lột, vơ vét tài nguyên để phục vụ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa của đế quốc.

          Ngày 28-9-1939, Phủ Toàn quyền Đông Dương ra nghị định giải tán và ra lệnh tịch thu tài sản của các hội ái hữu, các nghiệp đoàn, mở đầu cuộc khủng bố ác liệt phong trào cách mạng của quần chúng. Ngày 4-1-1940, viên Toàn quyền Ca-tru (Catroux) công khai tuyên bố: “Chúng ta đánh toàn diện và mau lẹ vào các tổ chức cộng sản. Trong cuộc đấu tranh này phải tiêu diệt cộng sản thì xứ Đông Dương mới được yên ổn và mới trung thành với nước Pháp. Chúng ta không có quyền không thắng, tình thế chiến tranh buộc chúng ta hành động không một chút thương tiếc”[15].

          Trước tình hình thực dân Pháp khủng bố, Trung ương Đảng chỉ đạo cho các cơ quan, cán bộ hoạt động hợp pháp phải nhanh chóng rút vào bí mật, chuyển về xây dựng cơ sở ở nông thôn, thay đổi hình thức phương pháp công tác ở đô thị để phù hợp với tình hình mới tránh tổn thất. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VI ở Bà Điểm, Gia Định trên cơ sở phân tích chính xác tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ: Đảng ta phải thay đổi chính sách…, hình thức dân chủ thích hợp với hoàn cảnh trước mắt, ngày nay không còn thích hợp nữa. Ngày nay phải thành lập mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tính đến chống đế quốc chiến tranh, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”[16].

          Hội nghị nhấn mạnh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cải cách ruộng đất, chỉ đề ra khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và đia chủ, nhằm tập trung chống đế quốc và bè lũ tay sai.

          Tại Biên Hòa, thực dân Pháp tăng cường vơ vét bằng cách tăng thuế, đặc biệt thuế “đảm phụ quốc phòng”, “quốc trái”; ra lệnh xung công, trưng dụng các phương tiện vận tải của tư nhân để phục vụ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa; chúng tăng cường bắt nhân đi lao động, đi xâu xây cầu cống, mở rộng sân bay Tân Phong, trường bắn Bình Ý, lập xưởng sửa chữa máy bay…

Trước tình hình địch tiến hành khủng bố, Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa chỉ đạo các đảng viên rút vào bí mật hoặc chuyển vùng công tác. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động công khai nhiều đồng chí đã bị địch phát hiện, bị bắt đày đi các nhà tù Bà Rá, Tà Lài. Nhiều vùng dân có truyền thống như Bình Ý, địch bắt cùng lúc trên 200 người đã từng tham gia các cuộc mít tinh, biểu tình trước đây. Các đồng chí trong Tỉnh ủy lâm thời rút vào hoạt động bí mật ở rừng Tân Uyên. Nhiều đồng chí lánh về hoạt động vùng cao su (như Hồ Văn Đại, Nguyễn Văn Long).

Ở rừng Tân Uyên, Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa đã xây dựng đội vũ trang gồm 35 người do đồng chí Huỳnh Liễng, Tỉnh ủy viên phụ trách, đồng chí Trần Văn Quỳ làm đội trưởng.

Trong thời gian này, phát xít Nhật tràn vào Đông Dương. Ở Bắc kỳ, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (Lạng Sơn) nổ ra cuối tháng 9/1940. Cuộc chiến tranh biên giới Thái Lan-Campuchia bùng phát. Thực dân Pháp ráo riết bắt thanh niên ta đi lính bảo vệ biên giới.

Trước tình hình thực dân Pháp phải đối phó với chiến tranh ở biên giới Thái Lan - Camphuchia, từ tháng 7-1940 (Hội nghị Tân Lương, Mỹ Tho), Hội nghị Tân Xuân, Hóc Môn (tháng 9-1940), Xứ ủy Nam kỳ quyết định chuẩn bị tiến hành cuộc khởi nghĩa, lấy mẫu cờ nền màu đỏ, giữa có ngôi sao năm cánh.

Tại nhà máy cưa BIF Biên Hòa công nhân treo cờ búa liềm trên dây điện của palăng điện trục gỗ trên đường vào nhà máy cưa. Tuy Pháp phát hiện từ sớm nhưng mãi đến 9 giờ sáng, các sếp mới cho thợ điện trèo lên gỡ cờ. Một lá cờ đỏ khác cũng được treo trên cây cao ở ngã ba nhà máy khiến anh chị em thợ xôn xao bàn tán. Hàng trăm truyền đơn kêu gọi ủng hộ Liên bang Xô Viết, phản đối cuộc chiến tranh Pháp-Xiêm, phản đối sự tàn bạo dã man của bọn thực dân phản động... rải ở nhiều nơi tại tỉnh lỵ Biên Hòa.  

Ngày 23-10-1940, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ nổ ra. Nhưng do kế hoạch bị lộ, nên cuộc khởi nghĩa không thành công. Thực dân Pháp tiến hành khủng bố rất ác liệt gây cho cách mạng nhiều tổn thất. Tại Biên Hòa, ngày 24-10-1940, thực dân Pháp tấn công vào Tân Uyên. Đồng chí Huỳnh Liễng bị hi sinh ở Lạc An; hai đồng chí Nguyễn Hồng Kỳ và Lê Văn Tôn bị bắt đày đi Côn Đảo. Nhiều cán bộ, đảng viên, người yêu nước bị đày ở Bà Rá, Tài Lài.

 Phong trào cách mạng bị địch đàn áp mạnh nhưng nhân dân Biên Hòa, đặc biệt công nhân các đồn điền cao su luôn luôn bảo vệ đội ngũ tiên phong của mình. Nhiều cán bộ, đảng viên đã tạm lánh vào các đồn điền cao su tiếp tục hoạt động xây dựng phong trào. Nửa cuối năm 1940, đồng chí Hồ Văn Đại (Sáu Đại) về làng Cấp Rang sở cao su An Lộc; đồng chí Nguyễn Văn Long về sở Dầu Giây, Bình Lộc; đồng chí Trần Văn Trà về sở Cuộc-tơ-nay (Cẩm Mỹ). Đảng viên chi bộ Xuân Lộc rút vào hoạt động bí mật ở các sở An Lộc và Hàng Gòn. Được công nhân bảo vệ, các đảng viên từng bước tuyên truyền giáo dục, tâp hợp và  gây dựng cơ sở. Do vậy, phong trào chung trong tỉnh có giảm sút, nhưng ở khu vực đồn điền những cuộc đấu tranh của công nhân vẫn diễn ra, nhiều cuộc quy mô lớn, tập trung đông công nhân. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh vẫn là dân sinh và dân chủ.

Tháng 9/1940, hơn 400 công nhân Suối Tre, An Lộc do hai đồng chí Nguyễn Văn Bát và Lê Qui lãnh đạo đã đình công đấu tranh, chống mức khoán đào rễ cây đơn hùng tính 7 kílô là quá nặng. Viên quản trị sở cao su gọi điện kêu hiến binh về đàn áp. Chúng bắt giam hơn 40 người; hai đồng chí cầm đầu bị tòa xử đày ra Côn Đảo.

Tháng 12/1940, hàng ngàn công nhân các sở Dầu Giây, An Lộc, Bình Lộc, Túc Trưng, Cây Gáo... đồng loạt đòi chủ sở: không được đánh đập cúp phạt, trả số mãn hạn công-tra về xứ, không phát gạo mục, cá ươn. Ngày 29/12/1940 hàng ngàn công nhân các sở Cuộc-tơ-nay, Cam Tiêm đình công đòi ngày làm 8 giờ, chủ nhật được nghỉ, bỏ lệ làm cỏ-vê (corvée: lao dịch không công) chiều thứ bảy hàng tuần... Thanh tra công ty Đất Đỏ (Sociéte des Plantations des Terre rouges, SPTR) là tên Tây đầu đỏ dẫn một trung đội lính về, ra lệnh xả súng vào đoàn người tay không, làm chết và bị thương một số, đồng thời bắt bỏ tù một số, tổng cộng hơn 100 người. Viên giám đốc - quản trị  sở không giải quyết yêu sách, công nhân kéo về An Lộc, trung tâm công ty SIPH, đòi chủ giải quyết. Trước khí thế đằng đằng quyết liệt của anh chị em, chúng buộc phải nhân nhượng một số đòi hỏi.

Ngày 27-3-1941, được đồng bào dân tộc Ch’ro Bù Cháp, Lý Lịch giúp đỡ, các đồng chí Trần Văn Giàu, Tạ Tỵ, Tô Ký, Dương Quang Đông, Châu Văn Giác, Trương Văn Nhàn, Nguyễn Công Trung…đã tổ chức vượt ngục Tà Lài thành công. Các đồng chí đã trở về Sài Gòn, các tỉnh miền Đông, miền Tây gây dựng cơ sở, từng bước khôi phục phong trào và hình thành lại Xứ ủy Nam bộ.

Giữa năm 1941, phát xít Nhật đưa quân vào Nam kỳ, trong đó có Biên Hoà. Nhật ra lệnh cho chính quyền thực dân bắt nhân dân ta đi xâu, đào tuyến phòng thủ một số đoạn từ Biên Hoà đến Long Thành, làm kho tàng trong rừng ở Biên Hòa, Mỹ Xuân, làm sân bay dã chiến Long Thành. Chúng bắt nông dân nhổ lúa trồng đay, cưỡng ép nông dân bán lúa gạo với giá rẻ mạt. Do chiến tranh và bị bóc lột tàn tệ nên đời sống đại bộ phận nhân dân Biên Hoà ngày càng cùng cực: không có vải, nhiều người phải mặc quần áo bao bố, không có diêm quẹt và dầu lửa thắp đèn, bà con phải dùng các viên đá lửa đập vào nhau để có lửa nấu ăn, tối thường ngủ sớm vì không dầu thắp đèn...

Phát xít Nhật lừa mị nhân dân ta bằng thuyết “Đại Đông Á”, “đồng văn đồng chủng” (cùng văn hóa, cùng giống da vàng) … lôi kéo một số viên chức và người cầm đầu tôn giáo ra làm tay sai cho chúng.

Thực dân Pháp cũng ra sức tuyên truyền cho chủ trương “Pháp-Việt phục hưng”, đề cao thống chế Pê-te (Pétain, đầu hàng Hit-le). Chúng khởi xướng “phong trào Đuy-cu-roa” (Ducouroy) hoạt động thể dục thể thao rầm rộ: đá bóng, đua xe đạp … với mục đích thu hút và làm thanh niên quên lãng cái nhục mất nước...

Thời gian tư năm 1941 đến năm 1943, đảng bộ Nam kỳ trong đó có đảng bộ tỉnh Biên Hoà gặp nhiều khó khăn. Xứ ủy, Liên tỉnh ủy và các Tỉnh ủy bị phá vỡ nhiều lần. Phần lớn cán bộ đảng viên và cơ sở bị bắt, bị giam cầm, tù đày. Số ít còn lại phải liên tục lẩn tránh, ít liên hệ được với nhau nhưng đều chủ động âm thầm xây dựng cơ sở, nếu có điều kiện thì tổ chức đấu tranh.

Tháng 11/1941, khoảng 600 công nhân các làng A và B sở cao su Bình Lộc bãi công. Khoảng 7 giờ tối, anh em bắt tên sếp Ký ác ôn. Vợ sếp Ký ra xin tha chết cho chồng. Anh em chỉ bắt y quì, viết giấy cam đoan không gây tội ác nữa. Sáng hôm sau, anh chị em bãi công đòi: không bắt phu cạo đi điểm danh quá sớm, không đánh đập cúp phạt, phát gạo trắng và khô cá tốt (không mục), trả về xứ những người mãn hạn công-tra... Tên sếp Pháp vừa ra sân điểm, anh em ùa bao vây, y sợ qúa phải chấp nhận các đòi hỏi lập tức. Sau đó, chúng cho tay sai dò tìm người cầm đầu. Một tháng sau, chánh tham biện tỉnh Biên Hòa mang 20 lính về bắt gần 30 người tình nghi, giam tại khám lớn Biên Hòa.

Sáng sớm ngày 23/11/1941, công nhân Lê Đình Cúc quá uất ức trước sự bóc lột tàn ác của chủ Tây sở, bất ngờ dùng dao cạo mủ đâm chết tên sếp Tây Lu-pi khi hắn xuống sân điểm sở Ông Quế.  Ri-vi-e (Rivière) chánh tham biện mang lính về đàn áp, bắt đi hàng trăm anh em. Y báo cáo lên thống đốc Nam kỳ: “Những sự kiện này mang tính chất phong trào cách mạng… đã bắt hàng trăm du đãng”. 

Tháng 1/1942, Hơn 700 công nhân An Lộc, Bình Lộc đồng loạt bãi công hai ngày, công nhân sở Dầu Giây được tin đã hưởng ứng đấu tranh chống định mức khoán cao, chống đánh đập, cúp phạt. Tên quản lý đồn điền phải hạ mức khoán và nhận lại số bị đuổi hôm trước. Nhưng sau chúng kêu lính bót Xuân Lộc bắt 7 người tình nghi cầm đầu. Anh em tiếp tục đấu tranh, chúng phải thả hết.

Tháng 9/1942, 200 công nhân sở cao su Bình Sơn (Long Thành) đấu tranh chống sếp Tây bắt làm thêm giờ. Họ vác xạc-lai (cào cỏ) ra quận Long Thành. Sếp Tây chạy ra gặp quận trưởng Ngãi xin lính vào đàn áp. Hai xe lính chặn đoàn tuần hành ngang đường; chúng quăng còng, roi xuống hăm dọa. Anh em thẳng tiến, sếp Tây phải nhượng bộ. Quận trưởng hứa mời thanh tra lao động xuống điều tra, anh em mới về.

Những cuộc đấu tranh của công nhân đều tự phát, bức xúc từ quyền lợi của mình bị chèn ép. Những cuộc đấu tranh đó cho thấy tinh thần đấu tranh của đội ngũ công nhân ở Biên Hoà rất cao, nếu được lãnh đạo thì phong trào còn sẽ phát triển mạnh hơn và quy mô hơn. Công nhân và phong trào công nhân vẫn là một trong những lực lượng nòng cốt cho cách mạng.

Đầu năm 1943 chiến thắng Xtalingrat của Hồng quân Liên Xô gây niềm tin tất thắng chủ nghĩa phát xít Đức cho cán bộ đảng viên và nhân dân ta. Ở Đông Dương, nội bộ thực dân Pháp phân hóa: phái theo Pê-te và phái Đờ Gôn (De Gaulle). Ở Biên Hoà, số đảng viên trước đây né tránh các nơi, nay lần lượt trở về địa phương hoạt động. Một số mãn hạn tù hoặc vượt ngục tìm cách móc nối với nhau để vận động gây dựng cơ sở, khôi phục phong trào. Các đồng chí ra sức vạch trần bộ mặt xâm lược tàn bạo của phát xít Nhật, thực dân Pháp, ra sức tuyên truyền cho thắng lợi của Liên Xô và phe Đồng minh, thức tỉnh tinh thần yêu nước, cách mạng của nhân dân Biên Hòa.   

Đồng chí Lê Nguyên Đạt đảng viên cộng sản làm cặp-rằng (caporal: cai) sở củi Trảng Bom, đã xây dựng được một số cơ sở. Tháng 7/1943, sở cao su Trảng Bom phát gạo mục cho phu và không phát kí ninh phòng sốt rét cho anh em như thường lệ. Khoảng 400 công nhân đình công 1 ngày, đòi gạo tốt và thuốc ngừa; bọn chủ nhân nhượng. Qua phong trào đấu tranh, một số quần chúng tích cực nhất được kết nạp Đảng. Chi bộ sở củi Trảng Bom ra đời, do anh làm Bí thư.

Ga Biên Hòa có quan hệ chặt chẽ với đề pô Dĩ An, ga Hoà Hưng, có sự chỉ đạo của tổ chức Đảng ở Sài Gòn. Chi bộ ga Biên Hoà do đồng chí Ngô Văn Tư làm Bí thư. 

Đồng chí Đặng Nguyên về làm thợ máy cưa từ giữa năm 1940, dần dần gây dựng lại chi bộ máy cưa BIF. Cuối năm 1943, chi bộ có 5 đảng viên: Đặng Nguyên (Bí thư), Đáo, Ngàn, Hoàng Đình Cận, Hoàng Bá Bích.

Đồng chí Trịnh Văn Dục[17] được ban cán sự Đảng miền Đông cử về hoạt động ở vùng cao su Long Thành. Thông qua cải trang (như người nuôi ngựa, bán thuốc lào), đồng chí bám vào công nhân để tuyên truyền, giáo dục, xây dựng cơ sở trong đồn điền. Tháng 10/1943, tên sếp sở Tân Lộc (tức sở cao su Siph Long Thành) đánh chết một công nhân. Đồng chí lãnh đạo 500 phu cạo đình công 1 ngày phản đối tên ác ôn này đòi bồi thường cho gia đình nạn nhân và đổi y đi. Viên giám đốc chấp thuận, làm đúng yêu cầu của anh em.

Cuối năm 1944, đồng chí Dục và một vài đảng viên nữa (như Vũ Hồng Phô, Mai Hiển Thái…) tổ chức được quận bộ Việt Minh quận Long Thành, tổ chức Mặt trận cấp quận đầu tiên trong toàn tỉnh. Đồng thời, đồng chí còn lần lượt xây dựng một số cơ sở ở các đồn điền cao su Bình Sơn, An Viễn, thị trấn Long Thành.

Cuối năm 1943, đồng chí Hoàng Minh Châu về làm lại ở sở Trường tiền (sở Công chánh), đồng chí tuyên truyền, giáo dục kết nạp bốn đảng viên, lập chi bộ sở Trường tiền. Đồng chí còn xây dựng được cơ sở ở Bửu Hoà, ga Biên Hoà, Tân Phong, Hoá An, Tân Hạnh...  Giữa năm 1944, chi bộ máy cưa BIF phối hợp với chi bộ sở củi Trảng Bom vận động công nhân khai thác, vận chuyển và xẻ gỗ lãn công làm chậm kế hoạch giao 15.000 tấn gỗ cho Nhật đóng tàu.  

Các cuộc đấu tranh của công nhân cao su nửa đầu những năm 40 thế kỷ XX có cuộc thắng lợi, có cuộc thất bại và hầu hết bị đàn áp đẫm máu. Được cán bộ đảng viên giáo dục nên đội ngũ công nhân giác ngộ ý thức nhận thức được sức mạnh to lớn của giai cấp, bất chấp súng đạn, nhà tù, đồng lòng đứng lên đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, buộc bọn tư bản phải giải quyết những yêu sách chính đáng. Đội ngũ công nhân cao su không chỉ chở che cho cách mạng, mà trở thành lực lượng nòng cốt trong đấu tranh.

Đến cuối năm 1944 chung quanh tỉnh lỵ Biên Hoà tập trung hàng chục đảng viên của hai chi bộ máy cưa BIF và sở Trường tiền.

Đến đầu năm 1945, Tỉnh ủy Biên Hoà chưa được tổ chức lại; Mặt trận Việt Minh mới chỉ có quận bộ Long Thành. Nhưng các đồn điền cao su, nhà máy, các làng xã đã có đông đảo cơ sở quần chúng cách mạng, được giáo dục gắn kết đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc. Điều kiện quan trọng để Đảng phát động nổi dậy khi có thời cơ.

II. THANH NIÊN TIỀN PHONG, NÒNG CỐT TẬP HỢP LỰC LƯỢNG THỰC HIỆN KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN

Tư đầu năm 1945, tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng. Trên chiến trường châu Âu, phát xít Ý đầu hàng. Đầu tháng 5/1945, Hồng quân Liên Xô giải phóng Beclin, chế độ phát xít Hit-le cáo chung. Tại châu Á - Thái Bình dương, phát xít Nhật đứng trước nguy cơ thất bại.

Để đối phó với quân Đồng minh ở châu Á, đêm 9/3/1945 Nhật thực hiện cuộc đảo chính Pháp.

Đêm 9/3/1945, Hội nghị ban Thường vụ trung ương Đảng cộng sản Đông Dương quyết định đẩy mạnh cao trào chống Nhật cứu nước, thay khẩu hiệu cũ “Đánh đuổi Pháp-Nhật” bằng khẩu hiệu mới “Đánh đuổi phát xít Nhật”.

Tại Biên Hoà, đốc phủ sứ Nguyễn Văn Quý được Nhật đưa lên thay tỉnh trưởng La Ri-vi-e (La Rivière). Nhật đưa Cò Phước làm cảnh sát trưởng Biên Hoà. Phát xít Nhật thành lập một số tổ chức: Thanh niên ái quốc đoàn, thanh niên bảo quốc đoàn, nhằm lừa mị để lôi kéo tầng lớp trẻ. Một số đầu tộc Cao Đài thân Nhật tuyên truyền cho thuyết “Đại Đông Á”, “đồng văn, đồng chủng”, loan tin “đức Cường Để sắp về làm vua” ...

Trong khi đó, tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh, cũng như cả nước, suy thoái nghiêm trọng. Nhà giàu thì mua hàng đầu cơ tích trữ sợ giấy bạc mất giá. Đời sống người lao động càng khó khăn gấp bội. Ở các đồn điền cao su, công nhân được trả lương rẻ mạt bằng hiện vật: mỗi ngày hai lon gạo và một lon tương hạt. Lương thực, hàng tiêu dùng đều thiếu, lòng căm thù dâng cao trong mọi người dân ở nông thôn, thành thị.

Tháng 5/1945, phong trào Thanh niên Tiền phong do Xứ ủy Nam bộ lãnh đạo (bên trong) khởi phát từ Sài Gòn, do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lãnh. Phong trào này thực chất là phong trào yêu nước, lan nhanh toàn Nam bộ[18]. Ở  Biên Hoà, phong trào Thanh niên Tiền phong do nhà giáo Huỳnh Thiện Nghệ làm thủ lãnh nhanh chóng lan từ tỉnh lỵ ra các đồn điền cao su, thôn làng, nhà máy (gọi là Thanh niên Tiền phong Ban xí nghiệp). Tổ chức Thanh niên Tiền phong ban đầu chỉ tập hợp thanh niên, nhưng sau đó phát triển cả nữ thanh, phụ lão, là một hình thức mặt trận đoàn kết các tầng lớp nhân dân yêu nước tham gia tích cực vào cuộc Cách mạng tháng Tám 1945.

Tháng 7/1945, tại chùa Tân Mai (phường Tân Mai bây giờ), đồng chí Hà Huy Giáp thay mặt Xứ ủy Nam bộ triệu tập cuộc họp các đồng chí đảng viên ở Biên Hòa (như Hoàng Minh Châu, Đặng Nguyên, Lê Nguyên Đạt, Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn Búng, Ngô Hà Thành…) để phổ biến chỉ thị của Xứ ủy: Gấp rút xây dựng lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Các đảng viên ở Biên Hoà tập trung bàn 3 vấn đề lớn:

1. Nắm lực lượng Thanh niên Tiền phong và thủ lãnh Huỳnh Thiện Nghệ.

2. Nhanh chóng phát triển lực lượng cách mạng, đặc biệt công nhân BIF ở quận Châu Thành (Biên Hoà), công nhân các đồn điền cao su, nông dân các huyện, mua sắm vũ khí, tổ chức Việt Minh.

3. Vận động thanh niên không đi lính cho Nhật, không để Nhật sung công tài sản, không đi xâu, chống bọn phản động thân Nhật, đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên.

Đến cuối tháng 7/1945, một số viên chức, tiểu chủ ở Biên Hòa tham gia cách mạng[19]. Ngày 9/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đạo quân Quan Đông hơn 1 triệu tên ở Mãn Châu (Đông Bắc Trung Quốc) chỉ trong một tuần. Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Ở Biên Hòa, lính Nhật hoang mang cực độ, chúng án binh bất động trong các vị trí đóng quân. Thanh niên Tiền phong tổ chức các hoạt động tuyên truyền, dán truyền đơn, tập đội ngũ…bọn lính Nhất không can thiệp. Nhiều viên chức và binh lính ngả theo cách mạng, giao súng đạn cho ta.

Hội nghị Tân Trào quyết định tổng khởi nghĩa trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước:

Hiện nay quân đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nơi … Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta …”

Ngày 19/8 tổng khởi nghĩa ở thủ đô Hà Nội thắng lợi rực rỡ.

Ngày 20/8 Xứ ủy Nam bộ họp hội nghị chợ Đệm (Chợ Lớn) phổ biến kế hoạch tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở Nam bộ.

Để chuẩn bị cướp chính quyền ở tỉnh lỵ Biên Hoà, các đồng chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn chỉ đạo lực lượng Thanh niên Tiền phong tỉnh lỵ tổ chức mít tinh ngày 20/8/1945 tại trường nam tiểu học (trường Nguyễn Du bây giờ) nhằm thăm dò thái độ của quân Nhật. Các đoàn Thanh niên Tiền phong trong nội ô, Thanh niên Tiền phong nhà máy BIF và các xã ven kéo về, khoảng vài ngàn người. Lính Nhật và bảo an đứng gác công sở lặng lẽ nhìn dòng người ùn ùn kéo qua. Anh Hồ Thế, cán bộ đoàn Thanh niên cứu quốc, được cử lên nói chuyện. Anh khơi gợi ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước của thanh niên Biên Hòa, hô hào anh chị em chờ đợi giờ hành động sắp đến; đất nước đang có những biến chuyển cực kỳ to lớn …  

Ngày 23/8 tại căn nhà số 2 dãy phố Sáu Sử[20], đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì cuộc họp thành lập Ủy ban khởi nghĩa ở Biên Hòa. Tham gia có các đồng chí Huỳnh Văn Hớn, Nguyễn Văn Ký, Ngô Hà Thành, Hồ Văn Giàu, Hồ Văn Đại, Lê Nguyên Đạt, Đặng Nguyên... Ủy ban quyết định phát động quần chúng khởi nghĩa trước hết ở tỉnh lỵ, rồi sau đó phát triển ra vùng ven và các địa phương. Ủy ban khởi nghĩa cử đồng chí Hoàng Minh Châu (Bí thư chi bộ sở Trường Tiền Biên Hòa) làm chủ tịch, dự kiến nhân sự ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh. Hội nghị phân công đảng viên huy động lực lượng ở các quận về tham gia cướp chính quyền tỉnh, phân công đại biểu gặp tỉnh trưởng Nguyễn Văn Qúy yêu cầu ông ta bàn giao chính quyền cho cách mạng. Đồng chí Hồ Văn Đại và vài đồng chí khác vận động lính bảo an, lính thủ hộ … nộp súng cho ta. Theo chỉ đạo của Xứ ủy, hội nghị phân công hai đồng chí Lê Ngọc Liệu (công nhân chi bộ ga Biên Hòa) và Nguyễn Đình Ưu tổ chức khoảng 500 quần chúng thanh niên đi xe lửa về Sài Gòn tham gia cướp chính quyền ngày 25/8/1945. Nhân dân được vận động may cờ đỏ sao vàng, kẻ khẩu hiệu, tự trang bị dáo mác, tầm vông vạt nhọn … chuẩn bị sẵn sàng hành động khi có lệnh khởi nghĩa.

Sáng 24/8 lực lượng công nhân chiếm nhà máy cưa BIF, ga Biên Hoà, nhà dây thép (ở cạnh tòa bố). Cờ búa liềm và cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc trụ sở ủy ban khởi nghĩa. Ta phát hàng trăm truyền đơn kêu gọi nhân dân chuẩn bị nổi dậy cướp chính quyền.

Chiều 24/8, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Trịnh Văn Dục và các chi bộ Bình Sơn, thị trấn Long Thành, quận bộ Mặt trận Việt Minh Long Thành, huy động công nhân các đồn điền cao su và nông dân lao động trong quận nổi dậy cướp chính quyền. Quận Long Thành là địa phương khởi nghĩa thắng lợi đầu tiên trong toàn tỉnh Biên Hoà.

Sáng 25/8, Sài Gòn tổng khởi nghĩa thành công làm nức lòng nhân dân Biên Hoà. Lực lượng cách mạng hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ Biên Hoà. Ngày 26/8, hàng trăm quần chúng, công nhân lao động kéo đến bao vây tòa bố. Đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa (Xược) dẫn đầu đoàn người xông vào buộc tỉnh trưởng Nguyễn Văn Qúy nộp chính quyền cho cách mạng. Cờ đỏ sao vàng treo trên nóc tòa bố trong tiếng reo hò vang dậy của quần chúng.

Sáng 27/8, một cuộc mít tinh lớn diễn ra ở quảng trường Sông Phố. Khoảng một vạn đồng bào các giới từ các xã, đồn điền cao su, nhà máy kéo về dự. Đồng chí Dương Bạch Mai diễn thuyết, rồi đồng chí Hoàng Minh Châu tuyên bố: chính quyền đã về tay nhân dân, công bố danh sách Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hoà do đồng chí Hoàng Minh Châu làm Chủ tịch. Kết thúc mít tinh là cuộc tuần hành biểu dương lực lượng qua các phố rồi về thôn, ấp, đồn điền, nhà máy.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công ở Biên Hòa. Các ngày sau chính quyền các quận, xã lần lượt thành lập.

          Cách mạng thắng Tám 1945 thành công là một quá trình vận động, tập hợp và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, nâng cao và thống nhất nhận thức cho quần chúng nhân dân từ tự phát lên tự gíác với những hình thức, tổ chức, biện pháp thích hợp. Trong đó vai trò của các tổ chức quần chúng, tổ chức Thanh niên Tiền phong do Đảng lãnh đạo đã phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết, thực sự là một mặt trận rộng rãi của nhân dân Biên Hoà – Đồng Nai.

          Cách mạng tháng Tám 1945, một bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam trở thành một nước độc lập, dân chủ. Nhân dân cả nước, nhân dân Biên Hoà từ những người mang thân phận nô lệ, nay trở thành công dân được hưởng quyền độc lập, tự do và hạnh phúc.

 

 

 

 


CHƯƠNG III

MẶT TRẬN VIỆT MINH TỈNH BIÊN HÒA

TRONG GIAI ĐOẠN 1945 - 1951

 

I. THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN NHỮNG NGÀY ĐẦU ĐỘC LẬP (8/1945 – 12/1946)

 

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đại diện cho Tổng bộ Việt Minh, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đọc lời hiệu triệu đồng bào cả nước. Hoạt động của Mặt trận Việt Minh trong giai đoạn mới được xác định: củng cố, phát triển tổ chức, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, làm chỗ dựa cho chính quyền cách mạng và động viên quần chúng tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước.

Sau những ngày sôi sục khí thế cách mạng giành chính quyền, Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hoà được thành lập1. Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hoà tuyên bố chính quyền về tay nhân dân, đồng thời kêu gọi đồng bào cùng tham gia, chung sức với với Mặt trận Việt Minh thành lập chính quyền cách mạng cơ sở  tại các địa phương trên toàn tỉnh.

Tại các địa bàn quận, xã số cán bộ Việt Minh, đảng viên và một số nhân sĩ, công chức yêu nước tham gia thành lập bộ máy lâm thời. Hầu hết, những trọng trách trong bộ máy chính quyền đều do những đảng viên, cán bộ Việt Minh, nhân sĩ yêu nước tham gia hoạt động trong Cách mạng tháng Tám đảm nhiệm.

Ủy ban cách mạng lâm thời quận Châu Thành1, Tân Uyên2 được thành lập. Đồng thời, các tổ chức Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc được củng cố. Ở quận Long Thành, ngay từ ngày 24/8/1945, Ủy ban cách mạng lâm thời quận hình thành3. Ở quận Xuân Lộc, Ủy ban khởi nghĩa nhanh chóng thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời quận1. Cán bộ Việt Minh trở thành hạt nhân nòng cốt để xây dựng chính quyền cách mạng, vận động nhân dân xây dựng, ổn định cuộc sống mới.

Dựa theo chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh, chính quyền cách mạng lâm thời các quận tuyên bố chính quyền về tay nhân dân, triệt phá toàn bộ hệ thống chính quyền cũ; thực hiện quyền bình đẳng các dân tộc, bình đẳng nam nữ; bãi bỏ các chính sách sưu thuế trước đây; tịch thu ruộng đất của phong kiến, tư bản, thực dân Pháp, để phục vụ lợi ích của nhân dân. Khí thế cách mạng trong quần chúng lên cao, người dân hồ hởi tham gia các công việc do chính quyền cách mạng và Việt Minh kêu gọi.

Những ngày đầu thành lập chính quyền ở Nam bộ, Thanh niên Tiền phong là lực lượng nòng cốt bảo vệ chính quyền. Ở tỉnh lỵ Biên Hoà, lực lượng Thanh niên Tiền phong với với vũ khí thô sơ và một ít súng đạn thu được trong những ngày khởi nghĩa tham gia tập luyện đội ngũ, tuần tra sẵn sàng trấn áp bọn phản cách mạng. Tại các quận, nhiều thanh niên nam, nữ tự trang bị vũ khí, hăng hái gia nhập đội ngũ để giữ an ninh trật tự. Ở các đồn điền cao su Xuân Lộc, Châu Thành, Long Thành, thanh niên gia nhập các Ban tự quản bảo vệ, ổn định đời sống công nhân. Hầu hết các địa bàn quận, xã bộ máy chính quyền được thành lập với cơ cấu gồm đầy đủ các ban ngành theo mô hình của tỉnh.

Nền kinh tế tài chánh của Việt Nam những ngày đầu độc lập lâm vào tình trạng kiệt quệ. Nạn đói đe doạ đến sinh mạng của nhân dân trong cả nước. Đây là một trong những khó khăn lớn mà bất cứ địa phương nào cũng phải cần phải giải quyết ngay. Để khắc phục ngay tình trạng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân tích cực tham gia “Tăng gia sản xuất và tiết kiệm lương thực diệt giặc đói; phát triển bình dân học vụ, trừ giặc dốt”. Tại tỉnh Biên Hòa, đặc biệt tại các vùng nông thôn, nhiều hộ dân thiếu đói, đời sống người công nhân cao su đồn điền đã khổ cực lại lâm vào tình trạng không có việc làm. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa đã phát động quần chúng nhân dân tích cực tăng gia sản xuất. Hội Nông dân cứu quốc đã cử nhiều cán bộ xuống xã ấp vận động nhân dân khai phá nhiều vùng đất hoang hóa gieo trồng lương thực, hoa màu. Trong buổi đầu khó khăn của chính quyền cách mạng, truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc được phát huy cao. Với tinh thần “nhường cơm sẻ áo”, quần chúng nhân dân đã đóng góp tiền, giúp đỡ chính quyền cách mạng, vừa tăng cường lao động, giúp nhau  trong việc ổn định đời sống của người dân.

Một trong những công tác được cán bộ mặt trận Việt Minh Biên Hoà tham gia đông đảo là phong trào “Bình dân học vụ” hưởng ứng lời kêu gọi “diệt giặc dốt”, “biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” do chủ tịch Hồ Chí Minh phát động trên toàn quốc. Ở Biên Hòa, do chính sách “ngu dân” của thực dân Pháp, số lượng người dân mù chữ rất cao. Phong trào học chữ Quốc ngữ, diệt giặc dốt do Mặt trận Việt Minh tỉnh phát động, các đoàn thể làm nòng cốt được nhân dân hưởng ứng sôi nổi. Ban Tuyên truyền tỉnh Biên Hòa tổ chức các lớp học xoá mù tại Cù lao Bạch Đằng (nay thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Cán bộ Việt Minh, đảng viên và những người biết chữ đều tham gia dạy chữ cho người chưa biết. Tại các làng, thôn, xã, ấp sau những ngày lao động, người dân không quản mệt nhọc tập trung đến lớp học chữ. Phong trào khuyến học phát triển rộng, khắp nơi đều ghi khẩu hiệu “Toàn dân biết chữ”, “Toàn dân tham gia diệt giặc dốt”.

Song song với việc chống giặc dốt, công việc xây dựng nếp sống mới, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn trong xã hội được nhân dân tham gia tích cực. Quyền bình đẳng giữa con người, bình đẳng nam nữ, ai ai cũng đều có trách nhiệm học tập, lao động bảo vệ chính quyền là nội dung tuyên truyền chính; tuyên truyền xoá bỏ những hiềm khích, chia rẽ do thực dân Pháp xuyên tạc trước đây. Ý thức trách nhiệm người dân thể hiện ở chỗ cung cấp thông tin, phản ánh các tệ nạn với chính quyền cách mạng mà còn khuyên nhủ, động viên nhiều người tự giác từ bỏ những hủ tục lạc hậu (như rượu chè, cờ bạc…).

Việc tham gia phong trào “Ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc”, phong trào “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng” của nhân dân Biên Hoà thể hiện lòng yêu nước và quyết tâm của toàn Đảng bộ và nhân dân bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Trong phong trào nổi lên vai trò của tổ chức Phụ nữ cứu quốc. Các mẹ, các chị không chỉ tuyên truyền người trong tổ chức, đoàn thể mình mà còn xuống các địa bàn dân cư, vận động quần chúng đóng góp. Có nhiều gia đình, nhiều bà mẹ, nhiều chị đã đem những vật kỷ niệm quí giá như dây chuyền, khuyên tai, nhẫn cưới, đồ thờ cúng, gia bảo... ủng hộ cách mạng với tinh thần tự nguyện. Nhiều hộ công nhân cao su đời sống còn thiếu thốn vẫn tiết kiệm tiền lương vốn ít ỏi, tích lũy trước đây ủng hộ cách mạng. Phong trào còn thể hiện niềm tin của nhân dân Biên Hoà vào đường lối của chính quyền cách mạng, của Việt Minh.

Những ngày độc lập của nhân dân Nam bộ nói chung, nhân dân Biên Hoà nói riêng thật ngắn ngủ, bởi thực dân Pháp tiến hành khởi sự gây chiến để âm mưu xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Đêm ngày 22 rạng sáng ngày 23/9/1945, với sự hỗ trợ của quân Anh, Nhật, quân Pháp khởi sự đánh chiếm Sài Gòn, mưu toan chiếm Nam bộ trong thời gian ngắn.

Trước tình thế quân Pháp âm mưu tái xâm lược, Xứ ủy và Ủy ban Nhân dân Nam bộ tổ chức hội nghị tại phố Cây Mai, Chợ Lớn1. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Kháng chiến Nam bộ và phát động nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến với lời kêu gọi: “Tất cả đồng bào, già trẻ gái trai hãy cầm vũ khí xông lên đánh đuổi quân giặc xâm lược”.

          Tối ngày 23/9/1945, tại địa điểm Nhà hội xã Bình Trước, quận Châu Thành (nay nhà truyền thống của thành phố Biên Hoà, đường 30 tháng 4, phường Quyết Thắng, thành phố Biên Hoà), đồng chí Hà Huy Giáp thay mặt Xứ ủy Nam bộ triệu tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hoà. Tham dự hội nghị có khoảng 40 đảng viên, cán bộ Việt Minh từng hoạt động tại Biên Hoà trước năm 1945 và một số đồng chí từ nhà tù Côn Đảo, từ Sài Gòn được Xứ ủy giới thiệu đến. Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời Biên Hoà gồm 11 đồng chí 2. Tại hội nghị này, Ban Chấp hành lâm thời Tỉnh ủy đã đề ra những nhiệm vụ cấp thiết trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, lực lượng vũ trang của tỉnh để tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, huy động sức người sức của chuẩn bị kháng chiến 3.

Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hoà được thành lập do đồng chí Hồ Hoà làm chủ nhiệm; đồng chí Huỳnh Văn Lũy làm phó chủ nhiệm kiêm phụ trách tổ chức Nông Dân cứu quốc; đồng chí Trịnh Trọng Tráng phụ trách tổ chức Công đoàn tỉnh, củng cố các Ủy ban tự quản vùng đồn điền cao su. Theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, ngày 25/9, tổ chức Thanh niên Tiền phong và Thanh niên cứu quốc hợp nhất, lấy tên Thanh niên Cứu quốc do đồng chí  Hoàng Bá Bích làm Đoàn trưởng. Các tổ chức đoàn thể khác như: Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Công đoàn, Phật giáo cứu quốc...tiếp tục củng cố và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của mặt trận Việt Minh.

Sau Hội nghị Bình Trước, Tỉnh ủy Biên Hoà triển khai công tác thành lập các quận ủy để nhanh chóng lãnh đạo phong trào cách mạng trên từng địa bàn. Trên cơ sở đó, các quận bộ Việt Minh nhanh chóng được thành lập và lãnh đạo các đoàn thể địa phương.

Quận bộ Việt Minh Châu Thành và các đoàn thể được tổ chức đưa vào hoạt động ngay do đồng chí Trịnh Trọng Tráng (Trịnh Văn Bối) làm chủ nhiệm. Quận bộ Việt Minh ở Long Thành do đồng chí Vũ Hồng Phô làm chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Sanh Thành – phó chủ nhiệm, Lê Trân Châu – ủy viên. Địa bàn Xuân Lộc rất rộng (bao gồm cả một phần huyện Thống Nhất, Định Quán, Xuân Lộc hiện nay) nhưng ít đảng viên. Tỉnh ủy cử đoàn cán bộ gồm: Lê Ngọc Liệu, Nguyễn Văn Mục, Hồ Tấn Trai  (Phạm Văn Sĩ) và các chị Dung, Ngọc, Nhạn, Thịnh... do đồng chí Lê Ngọc Liệu phụ trách lên kiện toàn bộ máy chính quyền tại Xuân Lộc. Việc thành lập các Quận ủy và Quận bộ Việt Minh, kiện toàn các tổ chức đoàn thể yêu nước của Tỉnh ủy Biên Hoà là một chủ trương kịp thời để lãnh đạo phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp tái xâm lược.

Nhân dân Biên Hoà dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, hiệu triệu của Việt Minh, quyết tâm bảo vệ cuộc sống mới, sẵn sàng tham gia kháng chiến bảo vệ độc lập. Lực lượng thanh niên, công nhân hăng hái gia nhập các tổ chức vũ trang của Vệ quốc đoàn Biên Hoà, Châu Thành, Long Thành. Trên địa bàn các xã, chính quyền nhân dân nhanh chóng tập hợp lực lượng yêu nước, hình thành các đội tự vệ làm nhiệm vụ bảo vệ chính quyền và sẵn sàng chiến đấu. Sôi nổi và đầy nhiệt tình là những thanh niên, công nhân của tỉnh Biên Hoà gia nhập ngay từ dầu các đoàn quân chiến đấu, tiếp tế, cứu thương... trên mặt trận phía Đông Sài Gòn, góp phần trong việc chặn địch ngay từ khi chúng nổ súng gây hấn, bắt đầu thực hiện âm mưu tái xâm lược nước ta.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hoà, tháng 9/1945, Trại Du kích Vĩnh Cửu được thành lập, đóng tại vùng căn cứ Bình Đa thuộc địa bàn quận Châu Thành1. Trại tập trung huấn luyện quân sự, chính trị cho cán bộ, chiến sĩ của tỉnh. Học viên của trại gồm nhiều thanh niên, nông dân ở quận Châu Thành, công nhân Nhà máy cưa BIF, thanh niên Sài Gòn, tham dự khá đông. Phụ nữ các xã Tân Phong, Hiệp Hoà, Bình Đa, An Hòa, Long Hưng... đi vận động lúa gạo, lương thực trong dân để phục vu Trại huấn luyện du kích Vĩnh Cửu.

Cuối tháng 10/1945, được tăng thêm viện binh, quân Pháp phá vỡ vòng vây của lực lượng cách mạng yêu nước xung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn, bắt đầu kế hoạch đánh chiếm toàn bộ Nam bộ. Ngày 24/10/1945, quân Pháp với sự yểm trợ của quân Anh, Ấn dùng chiến xa vượt cầu Gành đánh chiếm tỉnh lỵ Biên Hoà. Sau hơn hai tháng hưởng độc lập, nhân dân Biên Hoà lại bước vào cuộc đối đầu trực tiếp với kẻ thù xâm lược.

Theo tiếng gọi của Mặt trận Việt minh, thanh niên Biên Hoà tham gia vào các đội vũ trang tổ chức những trận mai phục đánh địch. Ở nội ô Biên Hoà, công nhân nhà máy BIF tháo gỡ, chuyển máy móc, nhiên liệu ra vùng rừng Bình Đa để xây dựng công binh xưỡng. Nhân dân các địa bàn vùng ven thị xã Biên Hoà đào phá cầu, cống; bang phá và đắp ụ chướng ngại trên các đường quốc lộ 1, 15, tỉnh lộ 16, 17, 19, 24 để ngăn bước tiến của giặc. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng không có lợi, ta chủ trương rút khỏi các thị trấn, thị xã để xây dựng căn cứ bảo toàn lực lượng. Tỉnh ủy Biên Hoà rút về Bến Gỗ, sau đó về Tân Uyên xây dựng căn cứ. Ủy ban kháng chiến miền Đông rút khỏi tỉnh lỵ Biên Hoà đến vùng rừng núi Tân Uyên, Xuân Lộc. Trong tình hình đó, những đoàn thể cứu quốc tuỳ vào tình hình cụ thể chia làm nhiều đoàn rút về vùng nông thôn. Tỉnh lỵ Biên Hoà, quận Châu Thành rơi vào tay quân Pháp xâm lược.

Khi đánh chiếm Biên Hoà, quân Pháp gặp rất nhiều khó khăn nhưng chúng nhanh chóng tập trung xây dựng bộ máy chính quyền tay sai. Cuối tháng 10/1945, quân Pháp mở hàng loạt các cuộc càn quét lấn chiếm bình định trên phạm vi toàn tỉnh Biên Hoà. Thực hiện lời kêu gọi của Việt Minh, nhân dân Biên Hoà thực hiện tiêu thổ kháng chiến, phá hủy nhà cửa, thực hiện vườn không nhà trống, thoát ly theo cách mạng kháng chiến, kiên quyết không ở vùng địch.

Khi quân Pháp tiến đánh Xuân Lộc, công nhân các đồn điền cao su theo lời kêu gọi của cách mạng tham gia chặt cây, đắp ụ tạo chướng ngại vật, phục kích chặn đánh địch trên các đường giao thông. Đặc biệt, thanh niên công nhân các đồn điền cao su ở Xuân Lộc tham gia đông đảo vào lực lượng tự vệ chiến đấu. Tại trận đánh địch ở Núi Tung, Núi Thị 1, quân Pháp bị phục kích, đánh trả buộc phải rút về Trảng Bom. Hàng trăm thanh niên, công nhân chiến đấu đã hy sinh anh dũng, nhưng việc chận bước tiến của giặc đã khích lệ tinh thần yêu nước, lòng tin tưởng của người dân vào cách mạng, tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược.

Đến tháng 11/1945, trên địa bàn quận Châu Thành, quân Pháp chỉ kiểm soát nội ô thị xã Biên Hoà. Chúng rải quân đóng giữ Toà bố, khám Biên Hoà, nhà hội Bình Trước...và các công sở trước đây. Hàng ngày, từ Sài Gòn, địch đưa quân lên, tổ chức những cuộc tuần tra, thám sát tình hình ra vùng ven thị xã, khu vực hữu ngạn sông Đồng Nai. Lúc bấy giờ, về phía cách mạng, các cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, quận đều rút về đứng chân tại các vùng căn cứ. Nhiều cơ quan, đoàn thể quận Châu Thành rút về đứng chân vùng Bình Đa. Một bộ phận Việt Minh quận bám trụ vùng Hiệp Hoà. Tại quận Châu Thành, lực lượng thiếu niên cũng hăng hái tham gia vào các đội vũ trang chiến đấu như đội Xung phong cảm tử, đội du kích Hồ Hoà1. Hai tổ chức tự vệ chiến đấu này đã nhiều lần đột nhập thị xã Biên Hòa, diệt nhiều tên tề tay sai gian ác.

Trong nội ô thị xã Biên Hoà chỉ còn Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Việt Minh xã Bình Trước bám trụ hoạt động tại các khu vực giặc chưa kiểm soát hoàn toàn như Bàu Hang, Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị nhưng phải di chuyển liên tục tránh sự ruồng bố của kẻ thù. Chủ tịch xã Bình Trước là Nguyễn Thế Phương (còn có tên là Bảy Phệ, Xã Vệ, nguyên là xã trưởng Bình Trước, là nhân sĩ yêu nước), chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh xã là Hà Xuân  Phấn (sau này đổi tên là Phan Thu Hà) bám lại địa phương, tích cực củng cố  mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc, gây dựng cơ sở để phối hợp điều hành công việc, chú trọng tuyên truyền tinh thần bất hợp tác đến các tầng lớp nhân dân.

          Nhân dân các xã Bình Ý, Tân Triều, Bình Phước, Thiện Tân, Bình Long, Tân Phú, Bình Thạnh, Tân Định, Đại An, Tân Phong...tham gia kháng chiến bằng nhiều hình thức phong phú: nuôi dưỡng, tiếp tế cho cán bộ, bộ đội, tiếp tế cho Việt Minh, động viên con em vào du kích, bộ đội, tham gia phá hoại giao thông địch, làm liên lạc...Chính từ sự giúp đỡ của đồng bào đã tạo điều kiện cho Việt Minh, các lực lượng vũ trang vượt qua những khó khăn trong ngày đầu kháng chiến.

Tại quận Long Thành, ngày 11/11/1945, quân Nhật theo lệnh của thực dân Anh - Pháp bắt giữ hai đồng chí: Trịnh Văn Dục (Chủ tịch quận), Đỗ Hữu Phú (phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc quận). Đồng chí Vũ Hồng Phô (Phó bí thư, kiêm chủ nhiệm quận bộ Việt Minh) tổ chức họp khẩn cấp và cử cán bộ xuống các địa bàn xã phát động nhân dân biểu tình đấu tranh đòi Nhật thả người.

Qua sự vận động của các đoàn thể như Hội Phụ nữ, Nông dân, Thanh niên, Phật giáo ...buổi sáng ngày 13/11, một cuộc biểu tình của hàng ngàn đồng bào Long Thành đã diễn ra rầm rộ. Hơn một vạn công nhân, nông dân, tiểu thương, viên chức, phật tử, linh mục, giáo dân, thanh niên, phụ nữ ...từ các ngả đường đổ về thị trấn Long Thành. Mỗi đoàn người đi biểu tình đều có cán bộ xã tổ chức, hướng dẫn. Cả biển người với khí thế đấu tranh mạnh mẽ, hô vang khẩu hiệu đả đão Nhật đòi thả hai cán bộ cách mạng khiến bọn địch rúng động.

Đến trưa, đoàn biểu tình đến sở SIPH. Đồng chí Vũ Hồng Phô dẫn đầu đoàn vào đòi bọn Nhật thả đồng chí Trịnh Văn Dục, Đỗ Hữu Phú.  Nhưng bọn Nhật đã bí mật đưa đồng chí Trịnh Văn Dục, Đỗ Hữu Phú về Biên Hòa giao cho Pháp. Khi biết hành động xảo trá của địch, nhân dân tràn lên tấn công khiến lính Nhật phải tháo lui. Từ trong công sở, bọn Nhật nổ súng uy hiếp, chống trả. Để tránh đổ máu cho đồng bào, Ban chỉ huy biểu tình ra lệnh cho đoàn rút về. Mặc dầu không đạt được kết quả nhưng cuộc biểu tình đã biểu dương được sức mạnh đoàn kết to lớn của quần chúng yêu nước trước kẻ thù. Đây là cuộc đấu tranh chính trị  đầu tiên ở Biên Hoà sau Cách mạng tháng Tám, trong đó Mặt trận Việt Minh đã tập hợp đông đão lực lượng quần chúng gồm nhiều thành phần của giới, ngành, hội, đoàn... thể hiện sự thống nhất trong ý chí và hành động.

Tháng 12/1945, Tỉnh uỷ lâm thời Biên Hoà nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng “Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán”, thực chất là rút vào bí mật để lãnh đạo kháng chiến. Do nhận thức không đầy đủ, Tỉnh ủy lâm thời Biên Hoà đã giải tán thật sự. Nhiều cán bộ, đảng viên cốt cán rời Biên Hoà. Trên địa bàn tỉnh, chỉ còn những đảng viên địa phương bám trụ hoạt động. Đây là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng phong trào kháng chiến ở tỉnh Biên Hoà thiếu sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Trong điều kiện đó, các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hoà vẫn duy trì hoạt động, xây dựng lực lượng cơ sở, vận động nhân dân tiếp tục tham gia kháng chiến. Lúc bấy giờ, đồng chí Hồ Hoà - Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa chuyển công tác về Bà Rịa. Đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa được cử giữ chức Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh Biên Hoà, đồng chí Huỳnh Văn Lũy giữ chức Phó chủ nhiệm.

Vùng rừng núi Tân Uyên là địa bàn đứng chân của lực lượng kháng chiến cách mạng tỉnh Biên Hoà, của Khu 7. Cuối năm 1945, nơi đây chính thức được xây dựng thành căn cứ địa cách mạng của khu 7. Cùng với Ủy ban Kháng chiến, Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hoà đã vận động nhân dân, phát động các đoàn thể góp phần vào công việc xây dựng căn cứ. Song song với vận động kháng chiến, Mặt trận Việt Minh Biên Hoà tiến hành công tác chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của đất nước ở địa phương. Ngay từ tháng 12/1945, tất cả cán bộ Mặt trận Việt Minh tỉnh đều được phân công đến các địa bàn cơ sở nắm danh sách cử tri, xúc tiến chọn lựa và đề cử đại biểu tham gia Quốc hội.

Công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử ở Biên Hoà diễn ra trong bối cảnh thực dân Pháp đã mở rộng chiếm đóng ở Nam bộ. Tỉnh lỵ Biên Hoà đã rơi vào tay giặc. Tuy nhiên, toàn bộ vùng nông thôn trong đó có các đồn điền cao su là vùng độc lập. Ban Tuyên truyền của tỉnh Biên Hoà phối hợp chặt chẽ cùng các cấp chính quyền quận, xã; các ủy ban tự quản triển khai lập danh sách cử tri, tuyên truyền rộng rãi về mục đích, ý nghĩa của cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên, vận động cử tri đi bỏ phiếu.

Trong khi địch không ngừng rêu rao “sẽ nhanh chóng thanh toán xong lực lượng kháng chiến“, Bộ Tư lệnh Khu 7 1 quyết định tổ chức tập kích địch tại thị xã Biên Hoà. Đêm 1 rạng sáng ngày 2/1/1946, lực lượng Vệ quốc đoàn Biên Hoà, Châu Thành, liên quân Hóc Môn - Gia Định, liên chi 2, 3 bộ đội Bình Xuyên  tổ chức tấn công vào các công sở, đồn bốt địch. Tiếng vang của trận tấn công đã động viên rất lớn tinh thần kháng chiến của nhân dân trong tỉnh; cổ vũ mạnh mẽ cho người dân Biên Hoà hăng hái tham gia cuộc bầu cử Quốc hội. Tại một số địa bàn, lực lượng dân quân tự vệ, thanh niên tích cực tham gia công tác phá hoại cầu đường không cho địch càn, bố trí canh gác nghiêm ngặt, bảo vệ nhân dân. Ở địa bàn thị xã Biên Hoà (ngoại trừ xã Bình Trước do quân Pháp kiểm soát chặt chẽ), Mặt trận thành lập các thùng phiếu lưu động, phân công cán bộ phối hợp với các cơ sở cách mạng luồn vào các khu dân cư tuyên truyền người dân thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ công dân. Vùng nội ô thị xã Biên Hoà, đội tự vệ chiến đấu của quận Châu Thành do Đỗ Văn Thi chỉ huy đã yểm trợ cho cán bộ Việt Minh, đột nhập ấp, xóm vào ban đêm để tạo điều kiện cho nhân dân tham gia thực hiện quyền bầu cử.

Tại các khu vực do cách mạng kiểm soát, các địa điểm bỏ phiếu đều được trang trí trang trọng, có cổng chào với cờ đỏ sao vàng cùng nhiều khẩu hiệu như: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm”, “Bầu người xứng đáng vào Quốc hội”, ”Quyết giữ độc lập”, ”Không làm nô lệ cho thực dân Pháp”... biểu lộ nguyện vọng và lòng quyết tâm của người dân đối với đất nước, cách mạng. Tại các đồn điền ở Xuân Lộc, chính quyền vận động công nhân tham gia bỏ phiếu không chỉ tại nơi cư trú mà còn đến nơi làm việc tại các lô cao su.

Địa bàn quận Long Thành những ngày chuẩn bị bầu cử diễn ra không khí khẩn trương, náo nhiệt. Việt Minh huyện, tổ chức đoàn thể thanh niên, nông hội và phụ nữ tổ chức các buổi học tập cho các hội viên, quần chúng hiểu rõ ý nghĩa chính trị to lớn của cuộc bầu cử Quốc hội. Tại các xã, đội thiếu niên - nhi đồng nhi cứu quốc vác loa đi khắp các ngả đường trong làng, ấp thông báo thời gian, địa điểm nơi bỏ phiếu. Đội Thiếu niên - nhi đồng cứu quốc xã Bình Thạnh, quận Long Thành hoạt động rất sôi nổi 1. Các đội viên chia nhau đi khắp các ấp tuyên truyền chủ trương, đường lối của chính quyền cách mạng, đồng thời vừa tập luyện quân sự và biểu diễn văn nghệ phục vụ trong các ngày lễ. Nội dung tuyên truyền bầu cử kéo dài suốt từ tháng 12/1945 cho đến ngày bầu cử 1. Cách tuyên truyền với nội dung mộc mạc làm cho người dân dễ hiểu chủ trương, chính sách của cách mạng,  được nhân dân  tích cực hưởng ứng. Vùng quận Tân Uyên, người dân bất chấp hành động ruồng bố, ngăn cản của địch, nô nức tham gia đi bầu. Đây là địa phương có số lượng cử tri đi bầu chiếm tỉ lệ cao nhất tỉnh Biên Hoà.

Bằng lá phiếu và sự tín nhiệm, người dân Biên Hoà đã cử ba đại biểu của tỉnh là các đồng chí: Phạm Văn Búng, Hoàng Minh Châu, Điểu Xiển vào Quốc hội khoá đầu tiên. Đây là một sinh hoạt chính trị có ý nghĩa to lớn đối với người dân, lần đầu tiên họ được thực hiện quyền tự do dân chủ của công dân một nước độc lập, thể hiện lòng tin của nhân dân vào chính quyền cách mạng, vào đường lối kháng chiến của Đảng, của Bác Hồ.

Từ tháng 1/1946, quân Pháp đẩy mạnh thực hiện chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” trên chiến trường Nam bộ nói chung, miền Đông Nam bộ nói riêng. Ở Biên Hoà, thực dân Pháp mở những cuôc hành quân nhằm mở rộng lấn chiếm ra các quận Châu Thành, Long Thành, Tân Uyên, Xuân Lộc. Nhưng đến đâu quân Pháp cũng đều vấp phải sự kháng cự quyết liệt của lực lượng cách mạng. Mặt trận Việt Minh cùng các đoàn thể như Phụ nữ, Nông dân các xã, ấp vận động quần chúng đắp mô, làm chướng ngại vật trên đường giao thông để ngăn địch; nắm tình hình, lấy tin tức phục vụ cho cách mạng. Các đội viên của Thanh niên cứu quốc, dân quân tự vệ, công nhân phối hợp với các đơn vị vũ trang tổ chức các trận phục kích quân Pháp. Nhân dân các quận, xã tiếp tục thực hiện bất hợp tác với giặc, tiêu thổ kháng chiến.

Ngày 20/1/1946, ba tàu chiến Pháp theo đường sông Đồng Nai tiến lên vùng Tân Uyên. Ngày 25/1/1946, quân Pháp tổ chức tấn công quận Long Thành sau đó đánh lấn lên chiếm vùng cao su Trảng Bom, Xuân Lộc. Trên mặt trận quân Phap đều gắp sức chống trả của lực lượng tự vệ, công nhân. Quân Pháp càn quét, thẳng tay cướp phá, bắn giết dân lành vô tội, gây nên những tội ác dã man. Ở các vùng chiếm đóng, thực dân xây dựng hệ thống đồn bót và thành lập bộ máy chính quyền tay sai[21]. Đây là một thời kỳ đầy khó khăn, thử thách và tổn thất của phong trào cách mang Biên Hoà.

Trước sức tấn công mạnh của giặc, phong trào cách mạng Biên Hoà gánh chịu những tổn thất khá nặng nề. Khoảng tháng 9-1946, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa – Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hoà trong một chuyến công tác bị địch bắt. Địch biết đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa là đảng viên, trí thức có uy tín nên dùng mọi thủ đoạn từ mua chuộc, lôi kéo làm việc cho chúng đến tra tấn dã man. Không khuất phục được tinh thần của người cộng sản yêu nước, tháng 11-1946, địch xử bắn đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa tại Cầu Gành. Đồng chí Điểu Xiển đại biểu Quốc hội tỉnh Biên Hoà trên đường công tác 2 bị quân Pháp bắt đưa về Xuân Lộc. Bất khuất, kiên cường, hiên ngang như ngọn núi Chứa Chan, một lòng một dạ theo cách mạng, đồng chí dõng dạc trước khi bị kẻ thù xử bắn: “Tao không đầu Tây. Tao thà chết tại đây“. Thực dân Pháp trói ông vào xe Jeep, kéo lê khắp vùng. Máu của đồng chí Điểu Xiển nhuộm đỏ các con đường vùng quê Xuân Lộc. Người dân Ch’ro ở Xuân Lộc cảm khái về sự hy sinh anh dũng của đồng chí, nguyện một lòng đoàn kết đến cùng đánh đuổi quân Pháp bạo tàn.

Thực dân Pháp thực hiện nhiều hành động khủng bố bắn giêt đồng bào rất dã man[22].

Súng đạn của thực dân Pháp và sự bạo tàn của bọn tay sai bán nước cũng không thể nào khuất phục được ý chí, lòng yêu nước của nhân dân Biên Hoà. Sự hy sinh của cán bộ, đảng viên, người yêu nước càng làm tăng thêm lòng căm thù, tình đoàn kết của người dân. Tại khu vực Bàu Sao, quân Pháp càn quét bắt đồng chí Lê Hữu Quang, cán bộ Việt Minh tại địa phương cùng sáu công nhân khác giải về sân banh, tập trung công nhân xem chúng xử bắn để trấn áp tinh thần đấu tranh của công nhân. Trước họng súng quân thù các anh không hề run sợ mà hùng hồn, đanh thép tố cáo tội ác của chúng và nhắn nhủ bà con công nhân đừng chùn bước đấu tranh. Anh Phạm Văn Phú – một trí thức có đạo, tham gia Mặt trận Việt Minh bị địch bắt trong một cuộc bố ráp. Tên chủ sở Đơ-vi-ê tìm cách mua chuộc, dụ dỗ anh làm việc cho chúng nhưng anh khẳng khái: “Tao thà chết chớ không bao giờ phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân“. Trước lúc bị địch xử bắn, anh hô vang khẩu hiệu “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm“, “Mặt trận Việt Minh muôn năm“, thể hiện lòng tin tưởng vào cách mạng, ý chí bất khuất của mình. Sự hy sinh của anh làm xúc động và cổ vũ nhiều thanh niên, công nhân thoát ly đi kháng chiến. Tại đồn điền Bình Lộc, giặc Pháp bắt được ông Hồ, nguyên là giám đốc Sở thí nghiệm nông lâm ở Trảng Bom. Không mua chuộc, dụ dỗ được ông trở lại hợp tác làm việc, chúng thẳng tay đánh dập ông dã man. Ông không khuất phục, thẳng thắng từ chối làm việc cho bọn xâm lược: “Dù có chết, tao vẫn không bao giờ tiếp tục làm thuê cho bọn Tây“, nêu cao phẩm chất của người trí thức, công nhân yêu nước.

Qua những tấm gương hy sinh anh dũng đó, hơn ai hết, nhân dân Biên Hoà càng nung nấu ý chí giành giữ độc lập, tin tưởng vào chính quyền cách mạng. Từ trong cuộc sống còn cơ cực, khổ đau, họ vẫn một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, bao bọc chở che cho cán bộ, chiến sĩ hoạt động.

*

*   *

Để có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến và thể hiện thiện chí hòa bình, ngày 6/3/1946, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ1. Nhưng thực dân Pháp lật lọng tuyên bố: Bản Hiệp định sơ bộ không hề ràng buộc Nam bộ. Chúng thành lập chính phủ tay sai “Nam kỳ tự trị“ do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu âm mưu tách rời  Nam bộ ra khỏi Việt Nam; đồng thời tổ chức nhiều đợt càn bố tiêu diệt lực lượng cách mạng, truy bắt sát hại, thủ tiêu cán bộ Việt Minh.

Trên mặt trận quận Long Thành, các đơn vị vũ trang đóng trên địa bàn cùng nhân dân tổ chức nhiều trận đánh chống càn. Tháng 3/1946, trung đội số 2 của Mai Văn Vĩnh phối hợp du kích tự vệ địa phương huy động hàng trăm người với giáo mác, gậy tầm vông đánh đuổi bọn lính Pháp đi càn tại khu vực Lò Rèn trên trục lộ số 19 2. Hai ngày sau bị ta chặn đánh, để trả thù trước những tổn thất, quân Pháp tập trung một lực lượng quân khá đông, có sự yểm trợ của máy bay, pháo binh càn quét vào các thôn ấp, làm chết nhiều người dân.

Ở Tân Uyên, tin tưởng vào hiệp ước ký kết, ta cử Trương Văn Xanh (uỷ viên Kinh tế huyện) ra hoạt động công khai. Bọn Pháp bắt và dùng thủ đoạn dụ dỗ ông kiên quyết một lòng với kháng chiến. Kẻ thù dùng đủ thủ đoạn tra tấn Trương Văn Xanh để khai thác tin tức cơ sở của ta nhưng không kết quả. Địch đã sát hại ông một cách dã man bằng cách buộc đá vào người thả xuống sông Đông Nai.

Căn cứ kháng chiến ở Tân Uyên liên tục bị quân Pháp tấn công, càn quét với quy mô lớn. Các lực lượng vũ trang vừa chống địch vừa giúp dân sơ tán vào vào rừng. Cuộc càn đã gây cho ta nhiều tổn thất, căn cứ bị tàn phá nặng nề, khu vực binh công xưởng bị đánh phá, những khu dân cư tiêu điều1. Lúc bấy giờ, cơ quan Khu bộ khu 7 rút về chiến khu Đông Thành (Đức Huệ – Long An). Cơ quan lãnh đạo kháng chiến Biên Hoà bám trụ lại Lạc An và tiếp tục xây dựng căn cứ của tỉnh.

Đến giữa năm 1946, trên địa bàn tỉnh Biên Hòa, hình thành hai khu căn cứ lớn: chiến khu Đ (quận Tân Uyên), chiến khu Rừng Sác (quận Long Thành). Tại Chiến khu Đ, cơ quan khámg chiến, lực lượng Vệ quốc đoàn Biên Hoà đứng chân trên vùng rừng 5 xã: Tân Hoà, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An. Nhiều căn cứ du kích được hình thành như Bình Đa, Hố Cạn (quận Châu Thành); Phước Can, Bàu Bông (quận Long Thành) tạo địa bàn đứng chân cho các lực lượng kháng chiến địa phương của quận, xã.

Nhằm khắc phục những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng ở Biên Hoà, cuối tháng 4/1946, đồng chí Nguyễn Đức Thuận (Bí thư Khu ủy khu 7) triệu tập hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hoà tại Cù Lao Vịt (nay thuộc xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu). Khu ủy chỉ định thành lập Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hoà do đồng chí Trần Minh Trí làm Bí thư Tỉnh ủy

Hội nghị đã xác định vai trò quan trọng của Đảng trong công cuộc kháng chiến lâu dài đồng thời củng cố bộ máy lãnh đạo. Đồng chí Huỳnh Văn Lũy giữ chức Phó bí thư kiêm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh; đồng chí Trịnh Trọng Tráng – phó chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh kiêm phụ trách Công đoàn; Phạm Văn Khoai – hội trưởng Nông dân cứu quốc; phụ trách Công an có Phạm Văn Thuận, Nguyễn Văn Ký, Hồ Văn Đại, Hoàng Đình Thương...

Bộ máy lãnh đạo kháng chiến của tỉnh Biên Hoà được củng cố 2. Hội nghị đã đề ra các công tác quan trọng như: xây dựng hệ thống lãnh đạo Đảng các cấp, đặc biệt đối với lực lượng vũ trang, củng cố Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể. Ngay sau đó, vào tháng 5/1946, Hội nghị quân sự tỉnh được tổ chức tại Xóm Đèn, xã Tân Hoà (Chiến khu Đ) quyết nghị việc sát nhập các lực lượng Vệ quốc đoàn trên địa bàn Biên Hoà để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất, xây dựng Chiến khu Đ thành căn cứ của tỉnh.

Hai hội nghị trên có ý nghĩa quan trọng đến phong trào kháng chiến, nhất là việc phát triển lực lượng vũ trang, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ. Tháng 6/1946, lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hoà được thống nhất với tên gọi Chi đội 10 1. Ban chỉ huy chi đội đã tổ chức các quận quân sự để làm chân rết cho bộ đội hoạt động.

Nhằm liện toàn tổ chức, cán bộ, tỉnh bộ Việt Minh Biên Hoà tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động quận chúng, củng cố các đoàn thể. Công tác vận động quần chúng phải tiến hành với 5 bước cơ bản: điều tra, tuyên truyền, giáo dục, tổ chức và giao nhiệm vụ. Cán bộ Việt Minh phải “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” để gây dựng cơ sở trong quần chúng nhân dân. Huyện Tân Uyên cử 70 cán bộ học lớp bồi dưỡng cán bộ Việt Minh do tỉnh mở. Các đồng chí trở thành những cán bộ mặt trận cốt cán ở các xã để xây dựng cơ sở, vận động quần chúng, củng cố Ủy ban hành chánh cơ sở. Tỉnh bộ Mặt trận Việt Minh Biên Hoà chủ trương vận động đồng bào vùng tạm chiếm lần lượt trở về để ổn định đời sống, kêu gọi công nhân các xí nghiệp, nhà máy, đồn điền xưởng bám trụ làm việc, hoạt động, gây dựng cơ sở cho công cuộc kháng chiến lâu dài.

Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, các quận bộ Việt Minh được kiện toàn. Vào tháng 5/1946, hội nghị Mặt trận quận Tân Uyên tổ chức tại nhà ông Tư Bộ ở xã Mỹ Quới. Ông Lê Kỳ Ngoại được bầu làm Chủ nhiệm, Nguyễn Đức Huệ làm trưởng ban Nhân dân cứu quốc, anh Đông phụ trách Thanh niên cứu quốc, chị Phấn phụ trách hội phụ nữ. Hội nghị đã đề ra nhiều biện pháp xây dựng rộng rãi Mặt trận Việt Minh, đoàn kết đẩy mạnh phong trào kháng chiến. Sự kiện toàn, củng cố Mặt trận quận Tân Uyên góp phần thuận lợi cho các cán bộ đoàn thể hoạt động có hiệu quả trong công tác tuyên truyền. Mỗi đoàn thể tuỳ theo tính chất của mình tổ chức, vận động nhân dân tin tưởng vào đường lối kháng chiến, ủng hộ cách mạng, đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù trên các mặt trận.

Địa bàn quận Châu Thành, Tỉnh ủy chỉ thị thành lập quận ủy2. Quận uỷ nhanh chóng củng cố lại vai trò lãnh đạo, phân công cán bộ xuống các xã củng cố lại các Ủy ban hành chánh kháng chiến và Mặt trận Việt Minh. Quận bộ Việt Minh Châu Thành do đồng chí Lê Văn Tiến làm chủ nhiệm. Một số cán bộ Quận bộ Việt Minh Châu Thành đưa cán bộ về hoạt động hợp pháp trong thị xã Biên Hoà. Bộ máy kháng chiến xã Bình Trước được kiện toàn nhưng vẫn đóng tại Bình Đa. Đồng chí Nguyễn Thế Phương giữ chức Chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến; Mặt trận Việt Minh3 do đồng chí Đinh Quang Dữa làm chủ nhiệm. Trụ sở hoạt động của Mặt trận Việt Minh xã Bình Trước ban đầu đặt tại tiệm may Hiếu Nghĩa, sát đường xe lửa; sau đó chuyển đến nhà đồng chí Đinh Quang Dữa tại đầu khu vực Dốc Sỏi. Từ căn cứ Bình Đa, ban đêm, cán bộ Việt Minh thâm nhập vào thị xã để tuyên truyền bằng hai ngã từ Hiệp Hoà hoặc Tân Mai. Qua công tác tuyên truyền, cán bộ Việt Minh gây dựng được những cơ sở địch vận đầu tiên trong xã Bình Trước.

Trên địa bàn quận Xuân Lộc Tỉnh ủy Biên Hòa cử đoàn cán bộ gồm các đồng chí Lê Thái, Nguyễn Văn Lai, Lê Văn Vận về Xuân Lộc xây dựng cơ sở Đảng để tiến đến thành lập quận ủy. Đoàn bắt liên lạc với các đồng chí Huỳnh Văn Huấn, Nguyễn Văn Tạo ở khu vực Rừng Lá để gây dựng lại phong trào kháng chiến.

Trong thời gian nầy, Liên hiệp Công đoàn Nam bộ ra chủ trương: đưa các cán bộ công đoàn về cơ sở vùng tạm chiếm để tập hợp tổ chức công nhân, tuyên truyền vận động công nhân giữ niềm tin vào cách mạng, tham gia phục vụ và trực tiếp kháng chiến tại cơ sở; vận động thanh niên gia nhập vệ quốc đoàn, củng cố phát triển tổ chức công nhân kháng chiến, xây dựng hệ thống công đoàn rộng rãi trên toàn Nam bộ. Xuân Lộc là địa phương có nhiều đồn điền, số lượng công nhân đông, Liên đoàn cao su Nam bộ cử đồng chí Nguyễn Văn Tấn, Trần Việt Trung đến hoạt động và gầy dựng phát triển phong trào. Chỉ một thời gian ngắn, các đồng chí đã bắt liên lạc với cơ sở Đảng, cách mạng trước đây đưa phong trào đấu tranh lên một bước mới. Ở các xã vùng ven thị trấn Xuân Lộc, cơ sở cách mạng nhanh chóng được móc nối, hình thành một hệ thống công đoàn bí mật. Đến cuối tháng 8/1946, hầu hết ở các sở cao su như Hàng Gòn, Bình Lộc, An Lộc đều có những cơ sở cách mạng bám trụ và chỉ đạo trực tiếp phong trào công nhân. Nhiều công nhân ưu tú được phát triển thành những cán bộ nòng cốt cho phong trào đấu tranh.

Ở quận Long Thành, từ tháng 2/1946, tổ chức bộ máy kháng chiến địa phương bị đứt liên lạc với tỉnh Biên Hoà. Một số Ủy ban kháng chiến xã và thị trấn Long Thành bị tan rã. Các cơ quan quận rút về các xã dọc lộ 19 từ Phước Lai đến Phước An và chưa có nơi làm việc ổn định. Để kịp thời nắm tình hình và lãnh đạo, Quận ủy chia chiến trường thành bốn khu, mỗi khu tổi chức “khu ủy” để lãnh đạo. Mặt trận Việt Minh quận tổ chức những khoá bồi dưỡng (thời gian 7 ngày) cho cán bộ xã và bộ đội. Trong một thời gian ngắn, chính quyền kháng chiến các xã trước đây bị tan rã được củng cố; lực lượng tự vệ chiến đấu xã được hình thành. Quân dân Long Thành đã tổ chức nhiều cuộc tấn công, đánh địch càn, cướp đồn giặc lấy vũ khí khá táo bạo.

Ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Tạm ước với Pháp nhằm tạm thời hòa hoãn, tranh thủ thời gian củng cố lực lượng trong nước. Nhân cơ hội nầy, Mặt trận tỉnh Biên Hoà chủ trương mở một đợt tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về thiện chí hoà bình của cách mạng, vạch trần bản chất xâm lược của thực dân Pháp. Cán bộ Mặt trận tỉnh và các đoàn thể bám trụ các khu dân cư tuyên truyền đường lối kháng chiến của cách mạng và gây dựng cơ sở, tiến hành công tác địch nguỵ vận.

Tỉnh ủy Biên Hoà phát động diệt ác trừ gian, phá hoại kinh tế và giao thông địch. Hưởng ứng đợt phát động, công tác diệt tề trừ gian, phá hoại kinh tế, giao thông địch diễn ra sôi nổi ở các địa bàn từ Tân Uyên, Châu Thành, Xuân Lộc, Long Thành. Tại quận Long Thành, chỉ trong một đêm, ta phá rã hoàn toàn 28 ban tề xã. Tại Xuân Lộc và Châu Thành, nhân dân nổi dậy trừng trị một số cai tổng, hương quản ác ôn. Vùng giải phóng ở Xuân Lộc được mở rộng và căn cứ huyện Xuân Lộc được thành lập tại khu vực núi Chứa Chan. Ở các đồn điền cao su, công nhân tháo gỡ máy móc làm cho hoạt động các nhà máy bị đình đốn, gây thiệt hại nặng cho tư bản Pháp.

Cuối năm 1946, thực dân Pháp mở rộng chiến tranh trên phạm vi cả nước. Ở Biên Hoà, địch phải rút một số đồn bót, rút quân, vũ khí tăng viện chiến trường phía Bắc. Từ các căn cứ, lực lượng cách mạng lấn dần hoạt động ra các vùng tạm chiếm. Phạm vi kiểm soát của quân Pháp bị thu hẹp. Hệ thống giao thông liên lạc giữa tỉnh và các quận được nối thông. Đây cũng là thời kỳ mà các Ban công tác liên thôn hoạt động hiệu quả trên các địa bàn quận. Dựa vào tổ chức liên thôn, Mặt trận Việt Minh tỉnh tổ chức các liên thôn Việt Minh phối hợp với du kích thâm nhập sâu vào các khu dân cư, vùng địch chiếm để tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia, ủng hộ kháng chiến.

Từ tháng 11/1946, thực dân Pháp gây ra hàng loạt vụ xung đột khiêu khích ở miền Bắc nhằm mở rộng chiến tranh thực hiện âm mưu thống trị nước ta. Chúng ngang nhiên gởi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát cho chúng. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị (trong 2 ngày18,19/12/ 194) quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào đứng lên kháng chiến chống Pháp. Ngày 20/12/1946, lời kêu gọi của Bác được truyền đi khắp nước:

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào !

 Chúng ta phải đứng lên !

 Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến ! Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”.

Đáp lời kêu gọi của Đảng, Bác Hồ, quân dân Biên Hòa tiếp tục tỏ rõ lòng yêu nước, cùng đoàn kết nhau trong Mặt trận Việt Minh, quyết tâm kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc.

***

Ngay từ buổi đầu chính quyền về tay nhân dân, Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hoà đã tập hợp được lực lượng yêu nước tham gia bảo vệ cách mạng. Nhiều nhân sĩ, công chức yêu nước đã tham gia vào bộ máy nhà nước. Các tổ chức đoàn thể cứu quốc được kiện toàn, củng cố và hăng hái thực hiện những chủ trương chính sách của Đảng, góp phần quan trọng trong công tác ổn định đời sống nhân dân trong tình hình mới.

Do điều kiện lịch sử, chưa đầy một tháng sau ngày Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành công, quân dân Biên Hoà cùng Nam bộ đi trước trong kháng chiến chống Pháp khi chúng bắt đầu gây hấn ở Sài Gòn ngày 23/9/1945. Trong năm đầu kháng chiến, có những lúc phong trào đấu tranh các địa bàn cơ sở trong tỉnh lâm vào hoàn cảnh khó khăn, nhưng Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hoà đã tập hợp đoàn kết được các tầng lớp nhân dân yêu nước, cùng nhau đứng lên kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

II. MẶT TRẬN VIỆT MINH VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN (1947- 1951)

Nghị quyết của Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ 2 (tháng 4/1947), đã chỉ rõ phương hướng, cách thức hoạt động và công tác của Mặt trận Việt Minh cùng các đoàn thể: Mặt trận Việt Minh phát triển ở những nơi xung yếu, củng cố tổ chức tại vùng địch kiểm soát và lập những tổ chức phù hợp với hoàn cảnh mới để tập hợp sức mạnh của các tầng lớp quần chúng. Những tổ chức tại các vùng bị chiếm chuyển qua hình thức hoạt động bí mật, các vùng tự do phải chuẩn bị mọi mặt trong mọi tình huống. Đồng thời, những công tác vận động như dân vận, công vận, nông vận, thanh vận, phụ vận, đồng bào có đạo, thiểu số, người Hoa, đich vận của Mặt trận, đoàn thể phải cần duy trì thường xuyên đến mọi đối tượng.

Ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, tình hình Nam bộ nói chung và Biên Hoà nói riêng có nhiều biến động lớn; đã hình thành rõ ba vùng: vùng căn cứ, vùng du kích và vùng tạm chiếm. Thị xã Biên Hoà là trọng điểm kiểm soát của địch.

Với cách mạng, từ năm 1947, ở Biên Hoà đã xây dựng nhiều căn cứ cách mạng và phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Xứ uỷ: ”Nhiệm vụ của Nam bộ là không để Pháp đem tài sản chiếm được ra đánh Trung, Bắc”; phải phá hoại kho tàng, phương tiện vận chuyển của địch, đẩy mạnh công tác binh vận, đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo...Tỉnh ủy Biên Hoà tiến hành kiện toàn bộ máy tổ chức và phát động phong trào tấn công địch trên các mặt trận. Các Huyện ủy được được củng cố, thống nhất lãnh đạo phong trào đấu tranh của địa phương.

Năm 1947, Tỉnh ủy Biên Hoà triệu tập Hội nghị tại Mỹ Lộc (Tân Uyên)1. Tổ chức Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa được củng cố. Đồng chí Huỳnh Văn Luỹ – phó bí thư kiêm chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh Biên Hoà, đồng chí Thanh Sơn giữ chức Tổng thư ký. Các đoàn thể cứu quốc của tỉnh: đồng chí Nguyễn Văn Trị phụ trách Đoàn Thanh niên cứu quốc, Nguyễn Thanh Vân phụ trách Phụ nữ cứu quốc, Phạm Văn Khoai phụ trách Nông dân cứu quốc. Mặt trận Việt Minh tỉnh đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công tác tuyên truyền đoàn kết trong toàn dân, kêu gọi dân chúng ủng hộ và tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Quận Long Thành sau một thời gian gián đoạn liên lạc với Tỉnh ủy Biên Hoà đã được nối lại. Vùng đất Phước An phía Nam của huyện dọc theo lộ 19 trở thành căn cứ chính của huyện. Theo sự chỉ đạo của Tỉnh, các “khu ủy” tại Long Thành lần lượt giải thể để tập trung cán bộ, thống nhất lãnh đạo phong trào đấu tranh của địa phương. Quận Long Thành đổi thành đơn vị hành chánh huyện, các đội tự vệ chiến đấu đổi thành du kích xã. Mặt trận Việt Minh huyện do đồng chí Trương Văn Kỷ làm chủ nhiệm. Ban chấp hành phụ nữ huyện Long Thành được thành lập1. Các cơ quan lãnh đạo huyện và mặt trận, các đoàn thể đã chuyển đến làm việc ở chiến khu Phước An. Các căn cứ Thái Thiện, Phước Thọ, Phước Khánh, Phú Hữu, Phước Cang; các lõm căn cứ như Tam Phước, Tam An, Long Tân, Mỹ Hội... được hình thành, tạo thành địa bàn đứng chân và bàn đạp tác chiến của nhiều đơn vị vũ trang.

Phong trào dời làng kháng chiến được nhân dân Long Thành hưởng ứng tích cực và diễn ra sôi nổi. Mở đầu cho phong trào dời vào làng kháng chiến hơn 200 hộ gia đình với gần 100 già, trẻ, gái Xóm Trầu (xã Long An) dỡ bỏ nhà cửa vào cánh đồng Bàu Lùng ở khu rừng già đông lộ 15, lập làng mới, sản xuất sinh sống và đóng góp cho kháng chiến. Tại xã Tam Phước, gần 400 hộ dân bỏ vào vùng bưng ven sông Đồng Nai lập ấp. Hơn 100 hộ dân ở xã Tam An đi ra vùng đồng ruộng Long Điền, An Địch. Ở Phước An, Phước Thọ (trừ ấp chợ địch kiểm soát), hầu hết quần chúng đều chuyển đến các khu vực như đồng Ông Trúc, Mu Rùa, Rạch Lá để ở, không hợp tác với địch. Ở xã Long Tân, má Lý Thị Lan tự tay châm lửa đốt nhà, động viên mọi người cùng lên rừng Giồng sinh sống. Bà con giáo dân và vị linh mục Hậu phá bỏ gác chuông và dãy nhà tạm của nhà thờ để địch không có nơi đóng bót. Ở xã Phước Khánh, bà Đặng Thị Quyền vận động 200 hộ gia đình chuyển ra vùng Chà Là, Tắc Kéo xây xóm ấp mới, vận chuyển thu mua lương thực ở vùng Rạch Bàng. Tại xã Phú Hữu mẹ Phan Thị Nho cùng nhiều hộ gia đình chuyển đến Bình Quới, Phước An. Xã Phú Hội, mẹ Đào Thi Phấn vận động hơn 100 hộ gia đình về rừng Bàu Lòng, góp phần lập nên xã Bình Thạnh, nằm trong vùng Lòng chảo Chiến khu Phước An.

Trên địa bàn huyện Xuân Lộc, từ năm 1947, hệ thống các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể được củng cố và phát triển. Tỉnh ủy Biên Hoà cử đồng chí Hoàng Đình Thương về thành lập Ban vận động để xây dựng huyện ủy Xuân Lộc. Ban vận động gồm các đồng chí Ngô Tiến, Lê Ngọc Liệu, Tôn Quang Hảo đã xây dựng được các chi bộ đảng ở Mặt trận, Công an, Nghiệp đoàn cao su của huyện Xuân Lộc và tại các xã Bảo Chánh, Rừng Lá, Bình Hòa. Tỉnh ủy Biên Hoà quyết định thành lập huyện ủy Xuân Lộc1. Mặt trận Việt Minh huyện Xuân Lộc do đồng chí Tôn Quang Hảo làm chủ nhiệm, đồng chí Khuê – phó chủ nhiệm. Tổ chức Phụ nữ Xuân Lộc được thành lập2, vận động giới nữ tại địa phương tham gia công tác phục vụ kháng chiến, giúp đỡ tiếp tế cho bộ đội. Việc kiện toàn tổ chức Đảng, Mặt trận, đoàn thể cách mạng trong huyện là nhân tố đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và phát triển phong trào kháng chiến địa phương.

Nghiệp đoàn công nhân cao su ở Xuân Lộc được thành lập do đồng chí Đặng Vũ Thúy làm thư ký. Đây là tổ chức quần chúng cách mạng trong ngành cao su được hình thành sớm nhất ở Đông Nam bộ. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nghiệp đoàn là phát động rộng rãi trong đội ngũ công nhân cao su một phong trào kháng chiến, còn gọi là “cao su chiến”: “Biến đồn điền thành chiến trường diệt địch”, và “phá hoại kinh tế địch”, nhằm làm suy yếu và không cho địch lấy của cải chiếm được ở Nam bộ ra đánh miền Trung, miền Bắc. Lực lượng dân quân, du kích, công nhân huyện Xuân Lộc phối hợp với bộ đội chi đội 10 tổ chức nhiều trận tấn công giao thông ở Trảng Táo, Bảo Chánh, Bàu Cá thu được nhiều thắng lợi, gây cho địch nhiều tổn thất.

 Tại các đồn điền cao su, cán bộ các đoàn thể thực hiện vận động công nhân bằng nhiều hình thức: từ tuyên truyền qua cơ sở hay trực tiếp tập hợp công nhân tại các lô cao su diễn thuyết. Đồn điền An Lộc, Bình Lộc là hai nơi tổ chức công đoàn phát triển mạnh, thu hút nhiều công nhân tham gia. Nổi bật là các cơ sở nòng cốt: đồng chí Nguyễn Thị Điều (Năm Minh), Nhuận, Cao, Lê Thể, Bình; ở Suối Tre có các anh Phụng, Lâm, Đức, Hậu, Huyến; ở Núi Đỏ có anh chị công nhân Lý, Tân, Tình, Sửu; ở Núi Tung có Lê Huế, Ba Chuẩn… Chính từ những hạt nhân cơ sở nầy mà hoạt động tuyên truyền, tập họp công nhân được duy trì thường xuyên. Phong trào đấu tranh chính trị, đòi cải thiện dân sinh ở Xuân Lộc, đặc biệt vùng đồn điền diễn ra quyết liệt. Tiêu biểu là các cuộc đấu tranh: Ngày Quốc tế lao động (1/5/1947), hàng loạt công nhân các đồn điền nổi dậy đấu tranh, đưa yêu sách cải thiện đời sống, việc làm. Tại sở Cốc Rang, Suối Tre, đồn điền An Lộc, công nhân đấu tranh kiên quyết với giới chủ không đi làm ngày 1/5. Công nhân đồn điền Cẩm Mỹ đình công đưa yêu sách đòi tăng lương, giảm giờ làm. Thực dân Pháp điều lính đàn áp dã man: chúng chặt đầu 3 công nhân cắm ở sân điểm đồn điền để trấn áp và bắn chết 15 người khác đem chôn tập thể. Công nhân tại Sở 97,  tổ chức đình công, rải truyền đơn, dán biểu ngữ, treo cờ đỏ sao vàng, ủng hộ Việt Minh. Tên chủ sở Siroux (Si-ru) cấp báo cho lính xuống đàn áp, giết chết ba công nhân tại nhà điểm. Công nhân tiếp tục đình công và tổ chức đám tang những công nhân bị hại. Địch đưa 4 xe bọc thép xuống khủng bố nhưng công nhân gây sức ép buộc bọn lính phải rút đi.  Ngày 19/8/1947, công nhân sở 97 phản đối chủ sở, không đi cạo mủ và đưa yêu sách cải thiện việc làm, tăng lương, treo khẩu hiệu chào mừng kỷ niệm Cách mạng tháng Tám. Lính Pháp từ Suối Tre đưa quân đàn áp, làm bị thương và chết một số công nhân.

Công nhân Xuân Lộc bằng các hình thức phá hoại đa dạng: từ chặt phá cây cao su, đập chén, phá kiềng đổ mủ đơn thuần đến thành lập các đội chuyên trách phá hoại cây cao su, làm giảm tốc độ sản xuất, thu hoạch thành phẩm và lợi nhuận của tư bản Pháp (đốt mủ, phá nhà máy, kho tàng, phục kích các đoàn xe chở mủ..), gây cho địch nhiều tổn thất. Đội ngũ công nhân Xuân Lộc đã xuất sắc góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cả tỉnh Biên Hòa trên mặt trận “cao su chiến”1.

Tổ chức công giáo kháng chiến trong các đồn điền cao su phát triển mạnh, thu hút nhiều tín hữu, công chức có đạo tham gia, ủng hộ cho cách mạng. Ở Bình Lộc, linh mục Nguyễn Đình Khuê (giáo xứ Bình Lộc) đã vận động nhiều giáo dân ủng hộ lương thực cho lực lượng kháng chiến và tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội ta thâm nhập, điều nghiên tình hình địch. Đại đội B (gồm trung đội 4,6) của chi đội 10 đứng chân trên địa bàn Xuân Lộc được công nhân, cơ sở cách mạng giúp đỡ đã tiến công địch đạt kết quả lớn. Ta diệt nhiều tên địch, thu nhiều vũ khí và qua đó vận động được nhiều công nhân tham gia thoát ly kháng chiến. Sau mỗi trận đánh, lực lượng vũ trang đều được đồng bào, giáo dân ủng hộ lương thực, thực phẩm.

Quận Châu Thành là địa bàn quân Pháp kiểm soát gắt gao. Chúng tổ chức nhiều cuộc càn quét, ruồng bố cán bộ Việt Minh, tổ chức yêu nước. Bộ máy lãnh đạo kháng chiến của xã Bình Trước từ Bình Đa chuyển về căn cứ Hố Cạn (Tân Phong). Từ đây, cán bộ đoàn thể thâm nhập nội ô Biên Hoà, phát triển công tác tuyên truyền và địch nguỵ vận. Một số cán bộ Việt Minh xã Bình Trước về nằm hẳn trong nội ô để hoạt động. Hoạt động của cán bộ nằm vùng rất đa dạng, vừa tuyên truyền đường lối cách mạng trong nhân dân vừa vận động công nhân tham gia kháng chiến và vũ trang đánh giặc khi có cơ hội. Nhiều trí thức ở Biên Hoà như thầy giáo Hoàng Minh Viễn, thầy Võ Kim Đôi, ông Hoàng Đình Lâm (nhân viên kỹ thuật hãng BIF) được ta tổ chức đưa ra chiến khu.

          Công tác vận động nhân dân góp công, góp của cho kháng chiến trở thành một phong trào rộng rãi được nhân dân Biên Hoà hưởng ứng. Dựa vào các cở sở nòng cốt, bằng tình cảm, mối quan hệ thân thuộc, cán bộ Mặt trận vận động tuyên truyền theo kiểu dây chuyền tới mọi thành phần trong quần chúng: từ người buôn bán nhỏ đến chủ hàng, người làm thuê đến chủ hãng, công chức, công nhân... Bằng nhiều hình thức giao nhận, các cơ sở nòng cốt vượt qua sự kiểm soát của địch, chuyển lương thực, thực phẩm, về chiến khu. Các ông thầu Hai Lân, bác sĩ Cao, bác sĩ Bá, thầy ký Hiệp, anh Trịnh Văn Phước, Phạm Văn Đăng…lợi dụng sự quen biết của mình để mua thuốc dự trữ, chờ cán bộ từ căn cứ đột nhập về chuyển đi. Bà giáo Mỹ xây dựng mạng lưới cơ sở nhiều lần đưa hàng vượt qua sự kiểm soát của giặc, chuyển ra Bình Đa. Chị Phạm Thị Chừng ở xóm Ga Biên Hoà là cơ sở của Ban công tác thành, vừa thu thập tin tức, gom góp hàng hoá, vừa là giao liên có nhiệm vụ chuyển biên nhận, thư cảm ơn của kháng chiến đến những cá nhân, gia đình đóng góp của cải cho kháng chiến, khuyến khích động viên họ tiếp tục phục vụ cho cách mạng. Tại chợ Biên Hoà, tiệm sửa chữa cơ khí Trần Bùi được xây dựng thành hòm thư liên lạc của cách mạng. Chị em y sĩ, nhân viên nhà thương điên Biên Hòa (nay là Bệnh viện Tâm thần Biên Hoà, hàng tuần  góp tiền bạc, thuốc men cho cơ sở chuyển ra chiến khu Bình Đa, nêu gương tốt về lòng yêu nước, tinh thần tận tụy với kháng chiến. Tại kho thuốc của bệnh viện, có cơ sở nội ứng do Mặt trận ấp Bàu Hang xây dựng, trung đội 5 chi đội 10 đã đột nhập lấy toàn bộ số thuốc và dụng cụ y tế chuyển về chiến khu Đ an toàn để giải quyết những nhu cầu điều trị bệnh cho thương bệnh binh.

Tại Cù lao Phố, bộ máy kháng chiến xã Hiệp Hòa được thành lập1. Công tác vận động nhân dân ủng hộ, tiếp tế cho cách mạng tại địa phương được cán bộ hội phụ nữ thực hiện rất hiệu quả. Đoàn phụ nữ xã vận động được nhiều các má, các chị như Ngô Thị Bê, Nguyễn Thị Hoa, Sáu Mùi, Hạnh, Hương, Tâm... tham gia công tác rải truyền đơn tuyên truyền, dán khẩu hiệu, mua lương thực, thực phẩm tiếp tế cho căn cứ Bình Đa. Thông qua một số hộ dân buôn bán hợp pháp, cơ sở ta mua được một số lượng hàng hóa lớn mà không bị địch nghi ngờ, gây khó khăn. Tại Tân Mai, bà Nguyễn Thị Châu (Hai Trang) hàng tháng đến gặp các tổ trưởng công đoàn bí mật nhà máy BIF nhận tiền của công nhân ủng hộ kháng chiến dưới hình thức thu tiền “hụi” tránh được sự theo dõi, dò xét của bọn địch. Chồng bà Trang vận động một người quen là ông Bá Tính, nhân viên kỹ thuật sân bay Biên Hòa ủng hộ thuốc men (đặc biệt là thuốc chống sốt rét, vải, tiền...) để gởi ra căn cứ. Ở ấp Vĩnh Thị, các bà: Sáu Phải, Bảy Hóa được cơ sở cách mạng vận động thu tiền ủng hộ kháng chiến ở chợ cá Biên Hòa. Qua những đầu mối này, một số bạn hàng buôn bán tại chợ đã đóng góp được tiền, ủng hộ cách mạng.

Xã Bửu Hòa trở thành đầu cầu tiếp tế đắc lực cho các cơ quan của khu, tỉnh và huyện. Đoàn phụ nữ xã Bửu Hòa1 cùng cán bộ, du kích hàng đêm gặp bà con tuyên truyền vận động gạo, tiền cho cách mạng. Các thứ hàng hoá: thực phẩm, đồ dùng văn phòng, thuốc đặc chế, dụng cụ, đèn, pin, dây điện... được mua trữ và giao các bến trạm, cơ sở tiếp liệu như bà Lê Thị Lương, Trần Thị Nữ, Lê Thị Khánh... chuyển đến Bình Đa, chiến khu Đ. Đoàn phụ nữ xã Tân Hạnh2 vận động các má, các chị Mai Thị Gia, Bảy Nghễ, Nguyễn Thị Duyên, Huỳnh Thị Ba, Ba Long đã nhiều lần khéo léo vượt qua sự kiểm soát của địch, mua hàng hoá từ Biên Hòa bí mật chuyển lên Tân Triều, Bình Phước cung cấp cho các cơ quan, đơn vị bộ đội. Nhiều cơ sở cách mạng trung kiên như các mẹ, các chị: Tư Như, Hai Rành, bà Hiên, Tám Thoàn, Năm Thiệp, Phạm Thị Tư, Mai Thị Lẫy, Dương Thị Liễng, Dương Thị Thông, Huỳnh Thị Nói trở thành chỗ dựa cho cán bộ phụ nữ xã hoạt động hiệu quả. Đoàn phụ nữ cứu quốc Tân Vạn3 tích cực vận động chị em gom nhặt từng quả chuông, đồng xu đỏ... gửi về xưởng quân giới ở chiến khu Đất Cuốc chế tạo vũ khí.

Tại nhà máy cưa BIF, đồng chí Trần Đại Thiện (thư ký công đoàn bí mật) và đồng chí Quách Xu (cán bộ Công vận tỉnh) xây dựng hơn 40 tổ công đoàn mật, chiếm 2/3 số công nhân nhà máy. Các đoàn viên công đoàn đóng tiền hàng tháng ủng hộ kháng chiến, cung cấp tin tức của địch cho ta. Bên cạnh đó, đoàn viên công đoàn đã thực hiện nhiều lần phá hoại cơ sở sản xuất, kỹ thuật của bọn chủ Pháp, lấy nguyên vật liệu, dụng cụ gởi cho binh công xưởng. Công đoàn tổ chức những cuộc lãn công, bãi công đòi cải thiện dân sinh, dân chủ. Một số anh em thợ lò nung của Trường Mỹ nghệ Biên Hoà được ta xây dựng thành tổ trinh sát theo dõi, thu thập tin tức địch đồng thời tổ chức rải truyền đơn tuyên truyền trong trong nội ô Biên Hoà4.

Các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh tỉnh đẩy mạnh công tác địch nguỵ vận trong vùng tạm chiếm. Nhiều cơ sở nội tuyến được xây dựng trong các bộ máy, đồn bót, lực lượng lính địch. Tại Tân Uyên, đồng chí Lê Văn Bạch (Chín Hồng) được bố trí làm thông ngôn vận động 12 lính đồn Lợi Hoà, làm nội ứng cho cách mạng bắt gọn một tiểu đội lính, thu nhiều vũ khí, chiến lợi phẩm chuyển về chiến khu.

Chị Năm Cánh ở xã Hiệp Hoà được chi bộ Đảng xã Hiệp Hoà vận động làm công tác giao liên nắm tình hình địch. Chị đã vận động, cảm hoá được Ba Chánh1 lấy đạn dược, thuốc men và thông báo nhiều tin tức quan trọng cho cơ sở cách mạng. Bà Năm Hơn vận động người em rể là đội Điển nắm nhiều tin tức địch. Một số người dân Cù lao Phố bị địch bắt, đội Điển viện cớ là người thân để thả, không bắt giam. Chị Khôn là người biết tiếng Pháp, đã tuyên truyền giáo dục thuyết phục một lính Pháp (vốn theo đuổi chị), mỗi khi dẫn lính đi càn hướng nào thì bắn súng báo hiệu. Nhờ vậy, nhiều chị em đi mua hàng tiếp tế cho cách mạng biết được để tránh hướng giặc càn. Tại xã Tân Hạnh, các mẹ, các chị cảm hoá nhiều thanh niên địa phương tham gia binh lính Cao Đài trả súng, bỏ ngũ trở về với gia đình làm ăn sinh sống. Chị Mai Thị Gia xây dựng được anh Kiệt làm cơ sở nội tuyến trong đồn lính, nắm và cung cấp cho cách mạng sơ đồ bố phòng của đồn giặc. Sau nầy, ta vận động anh Kiệt lấy súng bỏ đồn thoát ly ra căn cứ kháng chiến.

Tháng 11/1947, thực hiện chỉ thị của Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ, tỉnh Biên Hoà thành lập Tỉnh đội dân quân2. Các huyện lần lượt thành lập cơ quan huyện đội trên cơ sở sát nhập các ban công tác liên thôn. Từ cấp tỉnh đến cấp xã, Ban chỉ huy dân quân đều có cơ cấu cán bộ phụ nữ tham gia, làm công tác huấn luyện quân sự. Thị đội Biên Hòa có đồng chí Nguyễn Thị Hường từ cán bộ Ban chấp hành Hội phụ nữ tỉnh chuyển sang làm thị đội phó. Chị Triệu Thị Phi Khanh được Ban Chỉ huy Tỉnh đội rút về Ban huấn luyện Quân sự phụ trách du kích chiến. Các chị phối hợp với các huyện đội, xã đội đã mở nhiều lớp huấn luyện nữ dân quân. Hầu hết các xã đều thành lập được các đội dân quân nữ canh gác bảo vệ xóm làng, làm trinh sát cho bộ đội. Khi có giặc càn, nữ dân quân bám sát địch, báo động bằng mõ tre cho nhân dân tránh địch, đồng thời báo tin cho bộ dội, du kích phục kích đánh địch. Ngoài nhiệm vụ tập luyện quân sự, canh gác, tuần tra bảo vệ xã, ấp những đội nữ dân quân còn làm nhiệm vu sản xuất đóng góp lương thực, ủng hộ cho bộ đội trên địa bàn.

Năm 1948, sau thất bại ở chiến trường Việt Bắc (Thu Đông 1947), thực dân Pháp chuyển hướng chiến lược chiến tranh, tập trung bình định nhằm biến Nam bộ thành hậu phương dự trữ chiến lược, mở rộng phạm vi chiếm đóng, củng cố các vùng tạm chiếm.

Ở Nam bộ, tướng De Latour (Đờ La-tua) chỉ huy quân viễn chinh Pháp sử dụng chiến thuật càn quét đi đôi với việc đóng quân, xây dựng từng hệ thống “cứ điểm nhỏ và đội ứng chiến nhỏ”. Chúng xây dựng hệ thống tháp canh De Latour để bảo vệ giao thông của chúng, kiểm soát giao thông, phong tỏa kinh tế của lực lượng kháng chiến, lấn chiếm vào các vùng căn cứ theo kiểu vết dầu loang. Đối với các làng xã, địch thực hiện chính sách tam hoang “đốt sạch, giết sạch, phá sạch” gây nên bao cảnh đau thương cho quần chúng nhân dân. Bên cạnh các hoạt động quân sự, quân Pháp thực hiện nhiều thủ đọan tình báo, cài gián điệp, dùng kinh tế vật chất thực hiện tâm lý chiến nhắm vào lực lượng cách mạng.

Hoạt động của thực dân Pháp từ năm 1948 đã gây cho phong trào cách mạng nhiều khó khăn. Đầu năm 1948, Tỉnh ủy Biên Hòa tổ chức Hội nghị Đảng bộ tỉnh tại khu vực Cây Cầy, chiến khu Đ. Hội nghị củng cố lại Ban chấp hành Tỉnh uỷ1 và đề ra những nhiệm vụ cơ bản trong tình hình mới nhằm: “phát triển du kích chiến tranh, kết hợp ba thứ quân để phát huy sức mạnh của lực lượng vũ trang bảo vệ căn cứ, tăng cường hoạt động vùng du kích, đánh giao thông và phá hoại cơ sở kinh tế địch, xây dựng kinh tế kháng chiến...”.

Nhằm ngăn chặn bước tiến của địch, Tỉnh ủy Biên Hoà phát động phong trào đánh phá giao thông địch trên địa bàn toàn tỉnh. Nhân dân  các xã Tân Phong, Bình Ý, Bình Hoà ...quận Châu Thành liên tục nhiều đêm đi phá lộ 24 và đắp mô trên các ngả đường lên Bến Cá. Bà Mười Qui, dù đã hơn tám mươi tuổi vẫn tham gia với thanh niên đào đường, phá cống Bà Bành. Ở Bình Đa, mỗi đêm có hàng trăm thanh niên nam nữ với tay xẻng cuốc, xà beng... phá bứt nhiều đoạn đường, làm hư hại các cầu Ông Tửu, cầu Suối Chùa, Cầu Quan. Tại Tân Vạn, du kích hỗ trợ cho quần chúng phá hủy các tuyến đường bộ, đường xe lửa, đánh sập cầu Phước Tân, cầu Mương Sao hạn chế các cuộc hành quân của lính Pháp và bọn lính Cao Đài.

Ở Vĩnh Cửu, các đoàn thể huy động nhân dân liên tục đào đất, phá đường ngăn cản địch. Trên quốc lộ 1 gần Dưỡng trí viện Biên Hoà, quần chúng chất củi thành từng đống đốt cháy cả một đoạn đường dài. Từ tiểu khu Biên Hoà, địch bắn pháo phản kích đến vì lầm tưởng du kích hoạt động. Chính pháo của địch đã tự phá những đoạn đường giao thông. Đây chính là một sáng kiến của quân dân huyện Vĩnh Cửu được cấp trên khen ngợi và phổ biến cho các địa phương khác học tập.

Ở quận Long Thành1, phong trào phá hoại giao thông địch diễn ra sôi nổi. Các trục lộ giao thông 15, 17 và 19 đều bị đào xẻ ngang, dọc với các đường hào rộng sâu hơn một mét. Cầu Phước Thiền, cầu sắt Mỹ Hội, cầu Mít, cầu Nít, cầu Vẹo, cầu Hào, cầu bắc qua Sông Buông bị nhân dân phá nhiều lần. Nhân dân Phước Long, Phước Thọ thường xuyên tổ chức lực lượng từ tiểu đội, trung đội, có phụ nữ lo công tác hậu cần, tiếp tế thực hiện phá giao thông từ 5 đến 7 ngày trên lộ 15.

Trên địa bàn quận Xuân Lộc, Ban Chỉ huy Chi đội 10 hạ quyết tâm cắt đứt trục lộ giao thông Quốc lộ I (từ Ngã ba Tân Phong đến cầu Song Ôi) đường ra Phan Thiết. Ban đêm, nhân dân các thôn, ấp khu vực căn cứ Rừng Lá và Tân Phong, Hàng Gòn, Bảo Định, Bảo Chánh tích cực cùng lực lượng võ trang, nữ dân quân, Ban công tác liên thôn tham gia phá hoại đường, khiến thực dân Pháp không dám sử dụng đoạn đường dài khoảng 50 cây số. Phá hoại giao thông là cuộc chiến đấu thầm lặng, liên tục mà trong đó mặt trận, đoàn thể tại cơ sở là nòng cốt của phong trào. 

Trong năm 1947, công nhân, nông dân, phụ nữ... ở Xuân Lộc đã tạo điều kiện cho các lực lượng Chi đội 10 Biên Hoà đánh giao thông đường sắt ở Gia Huynh, Bảo Chánh, Trảng Táo, Bàu Cá. Đặc biệt, trong chiến thắng giao thông La Ngà trên quốc lộ 20 (1-3-1948) nhân dân, đồng bào dân tộc Bình Lộc, Bù Cháp, Lý Lịch cùng các các đoàn thể mặt trận Châu Thành, Xuân Lộc đã đảm bảo phần lớn công tác hậu cần, giúp cho Chi đội 10 cùng liên quân 17 giành thắng lợi vang dội.

Trận đánh đã gây được tiếng vang lớn cả về quân sự lẫn chính trị, tác động thuận lợi cho công tác địch ngụy vận, dân vận trong các vùng tạm chiếm. Tại Đồng Lách (Thiện Tân), Rạch Đông, sau các cuộc tấn công của ta, 13 tên lính Âu Phi đem vũ khí xin hàng. Những binh lính trong đội quân viễn chinh Pháp cho biết, qua trận tấn công của ta tại La Ngà, họ hiểu được chính nghĩa kháng chiến của quân đội Việt Minh và đó là động cơ họ rời bỏ hàng ngũ.

Đến giữa năm 1948, tỉnh đội dân quân Biên Hoà xây dựng được lực lượng gồm 12.000 đội viên làm nòng cốt phát triển chiến tranh toàn dân, đặc biệt các xã ven sông Đồng Nai, trong Chiến khu Đ. Ngày 27/3/948, Trung đoàn 310 được thành lập1 trên cơ sở Chi đội 10. Một số đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh được điều động phối hợp, hỗ trợ với bộ đội, dân quân du kích các huyện, thị đẩy mạnh công tác diệt tề, trừ gian, đánh giao thông địch, bảo vệ các khu căn cứ. Phong trào đầu quân cứu nước ở huyện Long Thành diễn ra sôi nổi. Hầu hết các đoàn thể từ Hội Phụ nữ, hội mẹ, hội phụ lão, đoàn thanh niên...đều tham gia, cử cán bộ đến từng nhà dân tuyên truyền, vận động. Trong hai năm 1948 – 1949, số thanh niên tòng quân của huyện Long Thành lên đến 1.000 người 2. Nhiều gia đình có 2 – 3 người con đến tuổi đều cho đi bộ đội.

Tại Chiến khu Đ, chính quyền cách mạng mở trường tiểu học dạy văn hoá đồng thời phát động phong trào “bình dân học vụ” xoá mù chữ cho cán bộ, chiến sỹ, nhân dân. Những buổi biểu diễn văn nghệ, triển lãm tuyên truyền của các đoàn thể đã khích lệ, cổ vũ cho nhiều người tham gia học tập. Huyện Tân Uyên mở lớp tại khu Ông Đông dạy văn hoá cho lực lượng thanh thiếu niên, một số học sinh sau này là những cán bộ, trí thức hoạt động cho phong trào cách mạng của tỉnh, huyện. Xã Tân Ba được công nhận là đơn vị xoá mù chữ đầu tiên của tỉnh Biên Hoà và xếp thứ hai toàn Nam bộ (sau địa bàn Quới Xuân - Gia Định). Tại căn cứ huyện Long Thành, nhiều trường học của Khu, Tỉnh, huyện được mở: trường bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, thanh niên đặt tại Rừng Sác; trường Tiểu học Kiêm Bị ở Bàu Bông dạy văn hóa, lý luận chính trị, quân sự cơ bản cho cán bộ xã; Khu mở các trường cứu thương, trường y tá. Các lớp quân chính huấn luyện cán bộ được mở tại Hang Nai, Xóm Ngọn; các lớp đào tạo cán bộ xã, các khóa học về Mặt trận Việt Minh vẫn luôn được duy trì thường xuyên. Mặc dù đời sống vẫn còn gặp nhiều khó khăn nhưng cuộc sống ở Chiến khu Phước An rất nề nếp. Đây là vùng tự do, nhân dân hăng hái, cần cù trong lao động sản xuất, công tác. Bộ đội, cán bộ về hoạt động đều được người dân chiến khu xem như người trong gia đinh, sẵn lòng cưu mang, giúp đỡ. Từ năm 1947 đến năm 1950, tại chiến khu Phước An đã có hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ từ các nơi khác tham dự các lớp học. Cùng với khoảng 9.000 người dân sinh sống tại chỗ, từ các nơi khác đến, với sự phát triển của một đời sống xã hội lành mạnh, chiến khu Phước An được ví như “Thủ đô của Long Thành kháng chiến”.

Ở huyện Châu Thành, sau trận thắng La Ngà nhiều nhà kinh doanh, các hộ mua bán hàng hoá, các chủ sở cao su, chủ lò gạch, lò gốm, hầm đá... thông qua cơ sở chấp thuận đóng thuế để ủng hộ cho cách mạng. Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh đẩy mạnh công tác kêu goi tín hữu lập quỹ cứu quốc, đóng góp tiền của cho kháng chiến. Nhiều tín đồ tự nhận là hội viên danh dự của Mặt trận Việt Minh tham gia đóng góp vào các nguồn quỹ để ủng hộ cách mạng. Trong thị xã Biên Hoà, nhiều hầm bí mật hình thành ở các địa bàn Gò Me, Vĩnh Thị. Chùa Đại Phước do Hoà thượng Thiện Trạch làm trụ trì, đào hầm bí mật cho lực lượng du kích đứng chân, đồng thời là trạm thư bí mật.

Trong năm 1948, phong trào Hội mẹ chiến sĩ phát triển mạnh trong các vùng căn cứ, vùng du kích. Ở Biên Hoà, từ vùng căn cứ, vùng tự do đến vùng tạm chiếm tổ chức hội Mẹ chiến sĩ đều hoạt động rất hiệu quả. Các mẹ, các chị đều có chồng con, anh em...tham gia kháng chiến, vì vậy, họ xem bộ đội như người thân, động viên, giúp đỡ mọi mặt. Lực lượng vũ trang cách mạng đóng quân, tác chiến bất kỳ nơi đâu, hội phụ nữ xã tổ chức các mẹ, các chị  đến động viên, giúp đỡ tận tình tiếp tế lương thực, nhu yếu phẩm... Nhiều nơi, hội Phụ nữ tổ chức kết nghĩa với các đơn vị bộ đội, để làm nhiệm vụ ủy lạo bộ đội, giúp đỡ tận tình bữa ăn, vá từng tấm áo.

Ở ấp Cây Da xã Bình Lộc (huyện Xuân Lộc) có mẹ Mười Thử, vùng Ruộng Tre xã Bảo Chánh có mẹ Hai Lực, tại Hàng Gòn có chị Nguyễn Thị Hạnh (Kiểu), An Lộc có chị Trần Thị Nhạn, xã Bảo Vinh có cô Út Hoa, nội ô thị trấn Xuân Lộc có má Nguyễn Thị Mùi, Nguyễn Thị Mầu, Nguyễn Thị Ba, Nguyễn Thị Xuân, chị Bích Vân đều là những cơ sở tích cực trong việc phục vụ kháng chiến. Má Nguyễn Thị Vỹ bằng nhiều hình thức vận động khéo léo để đồng bào tự nguyện đóng góp tiền bạc, nhu yếu phẩm, lương thực gởi ra căn cứ hàng tháng.

Các hội mẹ chiến sĩ ở huyện Long Thành thực hiện phong trào nuôi quân, chăm sóc chiến sĩ rất tốt. Ở ấp Bà Ký, má Lê Thị Ngưu vận động được 96 chị em tham gia hội Mẹ chiến sĩ, tình nguyện giúp đỡ bộ đội: may vá quần áo, quyên góp gạo, nấu cơm, quyên tiền mua thuốc chữa bệnh trong suốt thời gian dài. Xã Phước Nguyên, với 86 bà má tham gia hội mẹ chiến sĩ; các xã Tuy Long, Thái Thiện, Phước Thọ, Phước An, Phú Hội... có hàng trăm bà má tự nguyện nhập hội. Cả huyện Long Thành có hàng ngàn bà má là Hội viên hội Mẹ chiến sĩ. Các dịp lễ, tết, Hội mẹ và chị chiến sĩ quyên góp được rất nhiều bánh trái, gạo nếp ủng hộ bộ đội. Ở vùng Phước Khánh, hàng tháng các mẹ, các chị tổ chức mua gạo, thuốc men đi thăm thương binh, bộ đội. Nhiều lúc gặp địch càn, chị em phải lội sình, khiêng ghe đi mấy cây số mới chở hàng, tới nơi bộ đội đóng quân. Trong một lần địch càn, có bảy chiến sĩ bị thương không kịp ra căn cứ, các mẹ, các chị đưa các anh vào trong nhà thờ, vận động linh mục của xứ đưa đi chữa trị, sau đó tổ chức đưa các anh về đơn vị. Tại xã Phước Thiền, một đơn vị bộ đội về đóng quân đột xuất ở rừng Giồng, Bến Cam, bà Mười Hoàng nhanh chóng vận động nhân dân trong vòng hai tiếng đồng hồ lo bữa cơm tươm tất, kịp thời cho 70 chiến sĩ. Nhiều cán bộ của huyện về địa phương công tác, các mẹ cho mượn nhà, mượn ghe, mượn xe ngựa để hoạt động.

Hội Mẹ, Hội chị chiến sĩ huyện Long Thành còn tuyên truyền, vận động nhiều người tham gia mua công trái kháng chiến hàng trăm nghìn đồng để gây quỹ kháng chiến. Chính từ những tấm lòng yêu nước ấy ma cách mạng Long Thành có tiền mua lương thực, thực phẩm, thuốc men, hoá chất, đạn dược...cung cấp cho lực lượng vũ trang chiến đấu, góp phần xây dựng các xưởng quân giới trên địa bàn.

Không chỉ giúp đỡ về mặt vật chất, các mẹ còn cưu mang các chiến sĩ như con của mình, làm ấm lòng các đồng chí bộ đội từ miền Bắc, miền Trung tham gia chiến đấu ở Nam bộ. Hội phụ nữ vận động mỗi mẹ đỡ đầu một chiến sĩ. Ở xã Phú Hội huyện Long Thành, các mẹ tổ chức nuôi giấu, đỡ đầu cho chiến sĩ đại đội Lam Sơn trong quá trình hoạt động tại địa phương. Hội phụ nữ, hội Mẹ vận động được nhiều chị em như chị Giư, chị Hướng xây dựng gia đình với những đồng chí thương binh, tạo chỗ dựa vững chắc, động viên bộ đội chiến đấu. Việc làm nghĩa tình nầy góp phần xóa bỏ những mặc cảm cho cán bộ, chiến sĩ bị thương tật không còn tham gia chiến đấu, đồng thời thể hiện tình thương, nghĩa nặng giữa quân với dân.

Nhiều vùng tranh chấp, các mẹ, các chị tham gia công tác y tế, chăm sóc thương bệnh binh một cách chu đáo trong các đợt chống địch càn quét. Bộ đội bị thương chưa rút kịp về cứ được hội Mẹ đưa về “an dưỡng điều trị“ tại nhà. Hội phụ nữ xã Tam Hiệp huyện Châu Thành do chị Nguyễn Thị Liều (Bạc) phụ trách tổ chức tiếp tế, chăm sóc bộ đội Quang Trung chiến đấu trên địa bàn. Má Tước bón từng muỗng cháo cho bệnh binh, đun nước, lau rửa, băng bó vết thương cho các chiến sĩ  tiểu đoàn Quang Trung, dịu dàng an ủi, đêm đêm ngồi canh gác, quạt mát cho anh em ngủ yên. Má Tám Vân, chị Ba Diệu... tuy nhà khó khăn vẫn dành dụm tiền của, ủng hộ kháng chiến, nuôi giấu anh em bộ đội, đồng thời còn vận động chồng, con hăng hái công tác, chiến đấu. Nhiều mẹ, nhiều chị đi ra khu thăm bộ đội mang theo kim, chỉ giành hàng buổi vá quần áo cho chiến sĩ. Các xã Bửu Hoà, Hiệp Hoà mỗi khi cán bộ về hoạt động, nhiều mẹ chiến sĩ can đảm, tận tụy, bất chấp hiểm nguy để che dấu cán bộ. Những hầm bí mật ở bờ ao, mé sông, góc bếp, dưới bàn thờ, chuồng gia súc... đều được các mẹ đào và giữ gìn bí mật, đón cán bộ hoạt động. Họ đem cả tính mạng của bản thân, gia đình để đảm bảo an toàn cho cán bộ, chiến sĩ an tâm công tác. Xã Bửu Hòa có má Huỳnh Thị Mè là mẹ hai chiến sĩ, bị giặc đốt nhà ba lần và thường xuyên bị địch hăm dọa vẫn không nao núng tinh thần, một lòng tin tưởng vào cách mạng, vào kháng chiến thành công.

Công tác quyên góp ủng hộ kháng chiến bằng hình thức “Hũ gạo nuôi quân” trở thành phổ biến trong nhân dân Biên Hoà nói chung và phụ nữ nói riêng trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ trong căn cứ cách mạng đến vùng du kích, vùng tạm chiếm, tổ chức phụ nữ phát động mỗi gia đình dành mỗi ngày một nắm gạo để giúp đỡ, ủng hộ cách mạng.

Ở các vùng căn cứ, Hội phụ nữ phát động phong trào tiết kiệm, góp phần tạo thêm lương thực để tương trợ, giúp đỡ các cơ quan, đơn vị vũ trang. Trong các vùng địch tạm chiếm, đồn điền cao su địch kiểm soát gắt gao, thậm chí khủng bố dã man nhưng chúng không khuất phục được người dân hướng về cách mạng. Họ chắt chiu dành từng đồng tiền, lon gạo gởi ra căn cứ, tiếp tế cho cán bộ, bộ đội. 300 hộ dân Phú Mỹ, Mỹ Hội, 100% hộ gia đình trong chiến khu Phước An, 250 hộ vùng tự do ở Tam Phước, 150 hộ ở xã Tam An, 148 hộ ở xã Phươc Khánh, 146 hộ ở xã Phú Hữu, 197 gia đình ở Phước Thành, 70% số gia đình ở Phước Thiền, 200 hộ ở làng kháng chiến Long An... là những xã địch kiểm soát gắt gao, nhưng vẫn tham gia phong trào “Hũ gạo nuôi quân“. Suốt trong nhiều năm, từng tháng hội Mẹ chiến sĩ đến từng hộ gia đình thu gom đưa về “kho lương kháng chiến” của xã để chuyển về căn cứ. Tinh thần tự nguyện của đồng bào, trách nhiệm của tổ chức Hội phụ nữ, hội Mẹ chiến sĩ thể hiện niềm tin và quyết tâm kháng chiến của phụ nữ địa phương. Chính từ nguồn lương thực được tiết kiệm này đã góp phần quan trọng cho việc khắc phục nạn đói, duy trì hoạt động cách mạng trong những năm tháng đầy khó khăn trước thiên tai, địch họa. Nghĩa tình của các mẹ, các chị thật cao đẹp, đáng qúi biết bao đã đi vào lời ca mộc mạc chân tình: “Mỗi lần xúc gạo ra vo. Nhớ con tiền tuyến hốt cho nắm đầy. Mong ngày đánh thắng giặc Tây, Nam Bắc sum vầy, con mẹ gặp nhau” hay “Sớm mai hốt gạo ra vo. Nhớ Đoàn vệ quốc hốt cho nắm đầy. Một tháng là ba mươi ngày. Một ngày một nắm, nhớ rày Vệ Quốc quân”. (Ca dao kháng chiến chống Pháp ở Biên Hoà).

Tháng 7/1948, Xứ ủy triệu tập đại hội tại kinh Năm Ngàn (Chiến khu Đồng Tháp). Đại hội đã đánh giá tình hình Nam bộ và xác định nhiệm vụ cách mạng: “Tập trung đánh vào dự trữ chiến lược của địch và bảo vệ dự trữ kháng chiến”. Khu ủy, Bộ chỉ huy khu 7 chỉ đạo các tỉnh thực hiện: “đánh mạnh vào hậu phương địch, gây cơ sở địch hậu, bóp hẹp vùng kiểm soát của chúng; phá hoại trọng tâm kinh tế địch (cao su), cắt đường giao thông địch; mở rộng khu giải phóng, kiến thiết căn cứ địa, dự trữ mùa màng của ta; tích cực phòng địch, tiến hành địch ngụy vận, mở rộng công tác quốc dân thiểu số”.

Trên tinh thần đó, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh Biên Hoà đã thực hiện những biện pháp cụ thể thực hiện tốt các nhiệm vụ. Tỉnh chia lại địa giới một số huyện1: Tân Uyên, Vĩnh Cửu và thị xã Biên Hoà do tỉnh trực tiếp chỉ đạo; thành lập huyện Sông Bé2 để tăng cường lãnh đạo phong trào đấu tranh. Mặt trận Việt Minh tỉnh đã tổ chức nhiều khoá học cho cán bộ cơ sở. Tại huyện Tân Uyên, các lớp học bồi dưỡng chính trị, năng lực công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phát triển đội ngũ cán bộ do Mặt trận Việt Minh phối hợp với cấp uỷ, thu hút nhiều cán bộ các xã tham dự. Mặt trận Việt Minh huyện Vĩnh Cửu tổ chức lớp huấn luyện cán bộ làm công tác Mặt trận cho 30 học viên của huyện, xã. Một số cán bộ Mặt trận huyện Vĩnh Cửu như ông Nguyễn Văn Hai (bí danh Nguyễn Sơn Hoà) được phân công về thị xã Biên Hoà hoạt động hợp pháp.

Về xây dựng phát triển kinh tế vùng căn cứ, Tỉnh ủy chủ trương vừa đánh địch, vừa phải tổ chức sản xuất tự túc, tự cấp và đề ra khẩu hiệu: “Giữ người, giữ của, xây dựng người, xây dựng của, lấy của địch bồi dưỡng ta, không để một tấc đất hoang”. Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh chỉ đạo sản xuất tự túc trong tất cả các cơ quan ở vùng căn cứ. Một số biện pháp kinh tế như: cán bộ chiến sĩ được phát rừng làm rẫy những khu vực được chỉ định, lập hội đồng canh nông điều khiển sản xuất ở xã, lập quỹ dự trữ giống, nông cụ, nâng cao giá mua thóc của dân, lập các nông trường cho nhiều đơn vị, cơ quan tăng gia sản xuất... đã thúc đẩy phong trào sản xuất vùng căn cứ phát triển mạnh.

Trên địa bàn Vĩnh Cửu, dù gặp muôn vàn khó khăn như: phải thường xuyên  dời chòi, làm lán ở trong căn cứ nhưng người dân không xao lãng công việc sản xuất. Các đoàn viên, hội viên đoàn thể thi đua với bộ đội, các cơ quan huyện, xã tăng gia sản xuất, khai phá những vùng đất hoang trồng hoa màu, cải thiện đời sống, gây quỹ kháng chiến. Làng Tân Phong, ban ngày nhân dân từ căn cứ tranh thủ về làng cày cấy, trồng tỉa trong thời gian giặc không đi càn bố. Khi địch ruồng bố, bắn pháo thì dân chuyển sang làm đêm, có lực lượng bộ đội du kích bảo vệ. Đồng thời, lực lượng vũ trang huyện Vĩnh Cửu phối hợp bộ đội tỉnh tổ chức nhiều trận đánh vào bọn lính địch, diệt tề trừ gian gây cho địch nhiều tổn thất. Các căn cứ Bình Đa, Hố Cạn, Bà Bao được giữ vững. Ở huyện Xuân Lộc, trước tình thế giặc Pháp xua quân càn phá hoa màu, tổ chức phụ nữ huyện kết hợp với Liên hiệp công đoàn Cao su tổ chức những buổi hội “gặt tập đoàn” thu hoạch lúa không để giặc đến cướp đi hoặc phá hủy. Khi lúa chín, mì cho củ, bộ đội, du kích thay nhau canh gác cho nhân dân thu hoạch sớm chuyển về các kho dự trữ trong căn cứ.

Tại huyện Long Thành, chính quyền cách mạng thành lập Hội đồng canh nông với nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo việc đẩy mạnh sản xuất. Nhiều xã còn hình thành các Ban quản thủ có nhiệm vụ giữ gìn tài sản của đồng bào khi địch càn quét, quản lý những ruộng đất gia đình bỏ vào vùng tạm chiếm đưa vào sản xuất phục vụ kháng chiến. Những vùng tự do, huyện thi hành chính sách giảm tô, xóa nợ giúp dân tăng gia sản xuất. Nhiều hộ nghèo không đủ ăn ở vùng địch kiểm soát đã thoát khỏi cảnh đói trước đây. Phong trào “con gà kháng chiến”, “rẫy mì kháng chiến”, “giồng lang kháng chiến” đều được phát động ở khắp các xã và nông dân tham gia đông đảo. Nhờ vậy hàng năm, huyện thu thêm được vài ngàn giạ lúa từ phong trào sản xuất, thu thuế của các Ban quản thủ.

Song song với việc đẩy mạnh sản xuất, Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hoà chỉ đạo phá hoại các nguồn lợi kinh tế địch, hình thành phong trào “cao su chiến” trong các đồn điền cao su ở Long Thành, Xuân Lộc với các hình thức đa dạng: từ chặt phá, đổ mủ đơn thuần đến thành lập các đội chuyên trách phá hoại cây cao su, làm giảm tốc độ sản xuất, thu hoạch thành phẩm và lợi nhuận của giới chủ, gây cho địch nhiều tổn thất 1.

Nhằm vận động đồng bào thiểu số trên địa bàn tỉnh tham gia, ủng hộ  cách mạng, Tỉnh uỷ Biên Hoà thành lập Phòng quốc dân thiểu số 2. Đồng chí Ngô Văn Long được cử về vùng Bù Cháp, Lý Lịch khá đông đồng bào Ch’ro, S’tiêng để vận động. Đồng bào thiểu số đã tham gia tích cực vào các công việc phục vụ cho kháng chiến: dẫn đường, giao liên, cung cấp lương thực, bảo vệ căn cứ...Phòng quốc dân thiểu số của tỉnh đã tập hợp được 3.200 người dân tham gia vào các đoàn thể cứu quốc, các đội du kích. Tập hợp được đồng bào thiểu số vào lực lượng Mặt trận Việt Minh là một thắng lợi lớn trong chính sách đoàn kết dân tộc, tham gia kháng chiến của tỉnh Biên Hoà.

Trong năm 1948, thực dân Pháp xây dựng quân đội Cao Đài, dùng lực lượng này để chia rẻ nhân dân, thực hiện càn quét, lùng bố đảng viên, cán bộ Việt Minh; phát hiện các cơ sở cách mạng. Thực hiện chủ trương của Khu miền Đông, Tỉnh ủy Biên Hoà tiến hành kế hoạch “tảo thanh Cao Đài”. Tuy nhiên cách tiến hành chưa phân biệt được giới chức sắc phản động với quần chúng nhân dân có đạo nên không đem lại hiệu quả. Nhận thức được điều đó, Tỉnh uỷ Biên Hoà nhanh chóng sữa chữa, chỉ đạo lấy giáo dục, thuyết phục đối với số đồng bào bị địch ép theo đạo; đồng thời kiên quyết trừng trị, răn đe những tên chức sắc phản động, làm tay sai cho giặc. Các đoàn thể của Mặt trận như  tổ chức Phụ nữ, Nông dân, Thanh niên tại các địa phương hoạt động Cao Đài vận rất hiệu quả. Trên địa bàn các huyện, các mẹ, các chị cảm hóa tuyên truyền cho nhiều thanh niên địa phương không đi lính, nếu ai đã tham gia binh lính Cao Đài thì trả súng, bỏ ngũ trở về với gia đình làm ăn sinh sống hoặc đi càn thì không gây tội ác với đồng bào. Nhiều cơ sở trong lính Cao Đài được ta xây dựng đóng tại các đồn bót đã cung cấp thông tin cho cách mạng, tạo điều kiện cho du kích đột kích đồn, lấy vũ khí. Nhiều cán bộ, đặc biệt là phụ nữ đã xây dựng được những cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ lính Cao Đài, nắm được các sơ đồ bố phòng của đồn giặc, chuyển tin cho các đơn vị vũ trang và vận động nhiều lính Cao Đài bỏ ngũ, thoát ly kháng chiến. Qua công tác Cao Đài vận, ta phân hoá được kẻ thù, giữ được đoàn kết dân tộc, tôn giáo, tập hợp được lực lượng cùng tấn công vào kẻ thù chính là quân Pháp xâm lược.

Bước vào năm 1949, thực dân Pháp đẩy mạnh các hoạt động quân sự trên chiến trường Nam bộ. Tại tỉnh Biên Hoà, địch tăng cường lấn chiếm các vùng căn cứ du kích, bình định vùng tạm chiếm nhằm thiết lập một vành đai trắng giữa căn cứ kháng chiến và vùng tạm chiếm, cô lập, bao vây vùng căn cứ địa cách mạng. Pháp tổ chức nhiều trận tấn công lớn vào căn cứ Chiến khu Đ, Chiến khu Rừng Sác... phá hoại kinh tế, các kho dự trữ trong đồng thời tìm diệt cơ quan chỉ huy kháng chiến. Địch đẩy mạnh hoạt động biệt kích, gián điệp vào vùng căn cứ du kích; tiến hành tuần tiễu, càn quét vào các vùng du kích ven các quốc lộ 1, 20, 15 và liên tỉnh lộ 2, 24 để bảo vệ các nguồn lợi khai thác cao su. Tại các vùng tạm chiếm, địch tăng cường củng cố bộ máy tay sai, kiểm soát gắt gao quần chúng, các trục lộ giao thông, các đầu mối từ đô thị ra vùng căn cứ kháng chiến. Sự gia tăng hoạt động quân sự của địch đã gây cho phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn.

Thực hiện nghị quyết Hội nghị quân sự Xứ ủy Nam bộ, tháng 8/1949, Tỉnh ủy Biên Hòa đã đề ra nhiều biện pháp quân sự, kinh tế, văn hoá phù hợp với tính chất từng vùng căn cứ, du kích, tạm chiếm: Vùng căn cứ địa cách mạng được kiện toàn mọi mặt hoạt động. Vùng du kích, lực lượng võ trang hỗ trợ bộ đội địa phương đánh mạnh vào giao thông, phá hoại kinh tế địch. Vùng tạm chiếm và vùng dân tộc ít người tăng cường hoạt động võ trang tuyên truyền. Tỉnh ủy chủ trương phát hành công trái kháng chiến, phát triển sản xuất để huy động sức dân, trong đó nòng cốt thực hiện chủ trương là Mặt trận Việt minh và các đoàn thể. Về tư tưởng, tất cả đều quán triệt đường lối “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” và vừa kháng chiến vừa kiến quốc.

Trong khi đó, năm 1949, tình hình ở vùng Xuân Lộc và các đồn điền cao su gặp nhiều khó khăn. Quân Pháp và bọn tay sai tổ chức nhiều cuộc càn lớn đốt phá nhà cửa, vườn tược, giết sạch trâu bò, phá hủy các phương tiện sản xuất của nhân dân. Nạn đói xảy ra nghiêm trọng. Một số chi bộ cơ sở ở Xuân Lộc, lực lượng vũ trang sa sút ý chí chiến đấu. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Biên Hoà chủ trương đưa một số đồng bào Xuân Lộc về sinh sống tại các căn cứ để góp phần trong việc: “Kiến thiết nền kinh tế kháng chiến”. Mặt trận Việt Minh tỉnh tổ chức một đoàn cán bộ đến Xuân Lộc hỗ trợ đưa nhân dân về các vùng căn cứ của tỉnh an toàn. Hơn 500 quần chúng ở Xuân Lộc được đưa đến khu vực Hàng Dài trong chiến khu Đ, thành lập xã Cộng Hòa. Hơn 2.000 công nhân đồn điền về sinh sống tại xã Phước An, Phước Thái huyện Long Thành; khoảng 800 người về vùng Cơ Trạch, Bàu Lâm huyện Xuyên Mộc; số công nhân, quần chúng lao động từ Bình Lộc chuyển đến Võ Đắc (nay thuộc địa phận Tánh Linh, Bình Thuận). Tại các vùng lập nghiệp mới, tổ chức phụ nữ tỉnh vận động chị em trong căn cứ góp từng chiếc áo, lon gạo, giúp đỡ nhiều hộ gia đình ổn định chỗ ở, cùng họ phá rẫy trồng hoa màu. Người đến trước giúp người đến sau tăng gia sản xuất, góp phần xây dựng và bảo vệ căn cứ, xây dựng đời sống mới ở vùng độc lập. Kết quả của vụ mùa năm 1948 - 1949 ở vùng căn cứ kháng chiến, sản lượng thu hoạch tăng gấp hai lần năm 1947.

Trên địa bàn huyện Long Thành, nhờ vào sự phát hiện của các đoàn thể huyện ủy Long Thành đã phá rã tổ chức gián điệp phản động trà trộn trong hàng ngũ lãnh đạo kháng chiến Long Thành 1, xây dựng hàng chục cơ sở chống phá cách mạng từ cấp huyện xuống cơ sở, gây tổn thất cho phong trào đấu tranh, phá hoại đường lối kháng chiến của Đảng, gây chia rẻ nội bộ của huyện. Được tỉnh chỉ đạo, hỗ trợ, huyện Long Thành đập tan nhóm phản động, gián điệp này. Vào tháng 3/1949, huyện ủy Long Thành tổ chức đại hội, kiện toàn bộ máy lãnh đạo2. Các cơ quan, đoàn thể xã, huyện nhanh chóng ổn định và hoạt động hiệu quả trong tình hình mới. Phong trào đấu tranh trên các mặt trận của huyện Long Thành phát triển. Tháng 7/1949, tại chiến khu Phước An, huyện Long Thành tổ chức đại hội “Luyện quân lập công” trong một tuần lễ. Hàng trăm thanh niên của huyện đăng ký tòng quân, nhập ngũ. Hội Nông dân, Phụ nữ các xã vận động quần chúng đóng góp hơn 3.000 giạ lúa phục vụ bộ đội, du kích.

Vùng thị xã Biên Hoà, sau những tổn thất, khó khăn năm 1948, Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh thị xã được thành lập1. Tổ chức Mặt trận thị xã và các đoàn thể được củng cố. Thực hiện sự chỉ đạo của Thị ủy Biên Hoà, từ căn cứ Hố Cạn (Tân Phong), cán bộ đoàn thể thâm nhập vào nội ô thị xã Biên Hoà2 tuyên truyền đường lối kháng chiến, đẩy mạnh công tác dân vận, xây dựng nhiều cơ sở trong nội ô. Nhiều nhà tư sản dân tộc như gia đình ông Sáu Sử...cùng các hộ dân hưởng ứng tích cực mua “Công trái kháng chiến”. Từ thị xã, hàng tháng, ta chuyển được những số tiền khá lớn vào căn cứ (tiền xanh, do thực dân Pháp chủ trương đổi, thay thế cho đồng tiền đỏ sử dụng trước đây nhằm đánh vào tài chánh của lực lượng cách mạng) .

Ở ấp Vĩnh Thị (xã Bình Trước), ông Ba Điệu tuyên truyền giác ngộ anh Sáu Lương (lính pactidăng) lấy súng trở về hàng ngũ kháng chiến. Chị Tám Lá vận động một số lính nguỵ mang tin tức và đạn dược cho kháng chiến. Tại Tân Mai, ông Sáu Đặng kết hợp với cơ sở nội tuyến dùng rượu có thuốc ngũ chuốc cả tiểu đội lính Cao Đài canh gác khu vực nhà máy cưa, lấy toàn bộ súng đạn.

Hoạt động công vận của cán bộ công đoàn thị xã được đẩy mạnh ở khu vực Nhà máy cưa Tân Mai. Công đoàn hình thành từng bộ phận trong công nhân để chỉ đạo đấu tranh đòi dân sinh dân chủ. Nhiều đợt đấu tranh của công nhân với bọn chủ hãng đã diễn ra và giành thắng lợi, đảm bảo quyền lợi chính đáng của công nhân. Không chỉ đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, thông qua vận động của công đoàn, công nhân đóng góp vào quỹ ủng hộ kháng chiến, đồng thời thực hiện rút nguyên liệu, dụng cụ máy móc của tư bản chuyển ra căn cứ.

Giữa năm 1949, tại Chiến khu Bình Đa, huyện ủy Vĩnh Cửu tổ chức đại hội1. Tổ chức Mặt trận huyện và các đoàn thể được củng cố. Đồng chí Phạm Văn Bính giữ chức Chủ nhiệm Mặt trận, đồng chí Hồng Dương – Tổng thư ký. Tổ chức Công đoàn do đồng chí Lê Hồng Nghiệp, Bạch, Diệp, Tạo, Khanh phụ trách; Đoàn Thanh niên do Nguyễn Văn Sáu, Lê Văn Tấn phụ trách; Hội Nông dân do đồng chí Nguyễn Văn Quảng phụ trách; tổ chức Phụ nữ gồm các đồng chí Mười Hoa, Cao Bích Hồng, Phi Yến, Bảo Hương. Mặt trận huyện đẩy mạnh công tác phát triển cơ sở đồng thời tổ chức nhiều khoá bồi dưỡng, đào tạo cán bộ Việt Minh không chỉ trong căn cứ Bình Đa mà còn cử các cán bộ xuống cơ sở tuyên truyền, tập huấn thu hút nhiều người tham dự.

Trong năm 1949, dưới sự lãnh đạo của Liên đoàn cao su Biên Hoà công nhân cao su đã đứng lên đấu tranh đòi dân sinh dân chủ khá sôi nổi. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 200 công nhân đồn điền An Lộc đòi tăng khẩu phần và tiền lương vào ngày 30/4. Tiếp ngay sau đó vào ngày 1/5, công nhân đồn điền Cụôc-tơ-nay, Dầu Giây, An Lộc, Núi Đỏ, Sóc Xim phối hợp đấu tranh chào mừng Ngày Quốc tế Lao động, đòi cải thiện chế độ nhà ở, y tế buộc Ban Thanh tra lao động ở Biên Hoà phải lên tiếng can thiệp. Giới chủ sở phải chấp nhận giải quyết những yêu sách của công nhân. Trong công tác phá hoại kinh tế địch, công nhân đồn điền toàn tỉnh Biên Hoà đã vạt vỏ 557 mẫu vườn cây, chặt phá 503 mẫu, gây thiệt hại cho địch trên hàng triệu đồng tiền Đông Dương. Trong đấu tranh võ trang, lực lượng công nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bộ đội tấn công địch. Tháng 3/1949, công nhân An Lộc dẫn đường cho đơn vị bộ đội La Nha hoá trang lính Pháp tập kích đồn Tân Lập, Long Khánh dệt, bắt sống nhiều lính ngụy, thu toàn bộ vũ khí.

Từ 1947 – 1949 là thời kỳ phong trào kháng chiến Biên Hoà phát triển toàn diện. Mặc dầu một số địa bàn như Xuân Lộc gặp nhiều khó khăn nhưng nhìn chung, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Biên Hoà, phong trào kháng chiến của địa phương được giữ vững. Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tham gia kháng chiến. Từ vùng chiến khu cho đến căn cứ du kích, vùng tạm chiếm, cán bộ Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể đã không ngại gian khổ, hy sinh, từng bước gây dựng cơ sở, tham gia trên các mặt trận để cùng góp phần đưa phong trào đấu tranh của tỉnh phát triển.

*

Đầu năm 1950, quân Pháp liên tục tổ chức các cuộc càn quét, dùng máy bay ném bom và dùng biệt kích đột nhập phá hoại vào các chiến khu Rừng Sác, Chiến khu Đ. Các căn cứ du kích ở thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu, Long Thành… đều bị địch càn quét ác liệt. Nhiều xã bộ máy kháng chiến, chi bộ, đoàn thể tan rã hoặc ly hương.

Tại các sở cao su, địch tăng cường thêm hệ thống đồn bót, binh lính (bọn lê dương, pactisan, ngụy binh Cao Đài, biệt kích) càn bố, kìm kẹp phong trào công nhân; thực hiện chính sách tam quang “đốt sạch, phá sạch, giết sạch” nhà cửa, của cải, người dân để gom dân ra vùng tạm chiếm.

Tháng 2/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh “Tổng động viên nhân vật lực” nhằm thực hiện “Tất cả cho tiền tuyến để chiến thắng giặc Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ”. Trung ương Đảng ra Nghị quyết về đẩy mạnh công tác Thanh vận để tập hợp và tổ chức tất cả lực lượng thanh niên yêu nước tham gia đấu tranh chống giặc. Trên tinh thần đó, Tỉnh ủy Biên Hòa động viên lực lượng thanh niên trẻ trong các cơ quan, ban ngành tham gia bộ đội, mặt khác đưa lực lượng nòng cốt của các đơn vị bộ đội tỉnh về khu để thành lập chủ lực tập trung, rút du kích xã lên xây dựng bộ đội, đưa dân quân tự vệ lên làm du kích.

Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể đi đầu trong công tác thực hiện vận động thanh niên tham gia bổ sung vào lực lượng võ trang. Nhiều huyện, thanh niên, công nhân đồn điền hăng hái tham gia lực lượng dân quân, du kích. Thế nhưng, do nhận thức chưa đầy đủ nên việc huy động lực lượng của tỉnh thiếu khâu chuẩn bị từ cơ sở, lực lượng dân quân, du kích chưa được huấn luyện, chất lượng thấp nên đã ảnh hưởng đến phong trào kháng chiến tại nhiều địa bàn.

Từ tháng 4/1950, khi bộ đội địa phương Trần Phú huyện Long Thành rút về tỉnh1, lực lượng mới hình thành chưa đủ sức làm nòng cốt cho phong trào du kích địa phương. Vùng thị trấn Long Thành, lực lượng võ trang bị đánh bật ra khỏi địa bàn, phải rút về rừng Bình Sơn. Địa bàn các xã bị địch liên tục bố ráp, các làng kháng chiến ven sông Đồng Nai hứng chịu nhiều cuộc càn quy mô của giặc. Để tránh tổn thất cho dân, huyện chỉ đạo đưa dân ra vùng tạm chiếm. Các kho tàng, căn cứ của huyện ở Phú Hữu, Phước Khánh bị giặc đốt phá nhiều lần. Phong trào cách mạng lâm vào tình thế đầy khó khăn.

Trước tình hình khó khăn chung, Tỉnh ủy Biên Hoà giải thể huyện Xuân Lộc, phân chia lại chiến trường. Một phần đất của huyện Xuân Lộc từ ngã ba Tân Phong đến Gia Ray cắt chuyển về tỉnh Bà Rịa. Tỉnh ủy thành lập Ban Cán sự Xuân Lộc1 để tổ chức, xây dựng lại cơ sở bên trong vùng thị trấn và các đồn điền, từng bước khôi phục lại phong trào của huyện. Trong khi các cơ quan dân chính Đảng ở Xuân Lộc hoạt động trong thế bị động thì cán bộ Liên đoàn cao su vẫn bám sát công nhân, đồn điền lãnh đạo đấu tranh. Do vậy, phong trào đấu tranh của công nhân đòi cải thiện dân sinh, dân chủ vẫn được duy trì.

Ngày 3/4/1950, hơn 2.500 công nhân từ các đồn điền Dầu Giây, An Lộc, Bình Lộc đồng loạt kéo lên văn phòng chủ sở đưa kiến nghị đòi tăng lương, làm việc đúng giờ qui định, đồng thời nêu khẩu hiệu phản đối đế quốc Mỹ viện trợ cho thực dân Pháp, can thiệp vào Việt Nam. Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (1/5), Liên đoàn cao su Nam bộ phát động công nhân toàn miền Đông đấu tranh. Hơn 2.000 công nhân vùng Xuân Lộc biểu tình, tuần hành và đưa ra hàng loạt yêu sách đòi giới chủ và chính quyền địch giải quyết. Trong sáu tháng đầu năm 1950, công nhân đồn điền An Lộc, Bình Lộc, đã phá hủy 6 xe cam nhông, đốt cháy 2.100 tấn mủ, gây thiệt hại cho tư bản Pháp hơn hai triệu đồng. Giữa năm 1950, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng thưởng Huân chương Độc lập cho Liên đoàn cao su Nam bộ, trong thành tích đó, công nhân đồn điền cao su địa bàn Xuân Lộc đóng góp một phần quan trọng. Vượt qua những khó khăn, đến tháng 6/1950, đội Vũ trang tuyên truyền Xuân Lộc đã liên lạc được với các cơ sở trong thị trấn, tổ chức được 8 cơ sở mật trong một số đồn điền, xây dựng 3 tổ dân quân mật. Phong trào đấu tranh của Xuân Lộc từng bước được khôi phục.

Đêm 27/3/1950, Ban Chỉ huy Thị đội Biên Hòa kết hợp với Mặt trận Liên Việt mở cuộc vũ trang tuyên truyền vào hộ 3 (địa bàn Bàu Hang - Tân Hiệp). Đợt tuyên truyền có tác dụng tốt về chính trị và tâm lý với đồng bào, củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối kháng chiến của cách mạng. Nhiều hộ dân hăng hái tham gia công tác cách mạng. Tiếp đó, đêm thứ bảy (20/5/1950), ta đồng loạt dán, treo cờ, khẩu hiệu tuyên truyền về cách mạng khặp nơi dọc đường phố, rạp hát, trường học, ga xe lửa, xí nghiệp, các công sở địch, trên các hàng cây trong các xóm ấp... Người dân thị xã hân hoan vì cách mạng vẫn còn tổ chức hoạt động dù là trong vùng địch kiểm soát.

          Những tháng cuối năm 1950, cán bộ Mặt trận và các đoàn thể thị xã tiếp tục vào thị xã tuyên truyền về thắng lợi chiến dịch Biên giới phía Bắc và chiến dịch Bến Cát ở miền Đông Nam bộ. Những hoạt động của lực lựơng vũ trang Biên Hoà, những trận diệt tề, trừ gian ngay trong nội ô đã làm cho người dân vùng tạm chiếm trong thị xã Biên Hòa vẫn hướng về cách mạng. Khí thế của phong trào yêu nước trong nhân dân được củng cố, ta xây dựng thêm được những cơ sở nuôi giấu cán bộ tại xóm Ga, ấp Vĩnh Thị, Gò Me, Dốc Sỏi, Cây Chàm...Từ cơ sở Nhà thương điên, bàn đạp Bàu Hang, căn cứ Hố Cạn, lực lượng cách mạng liên tục đột kích vào nội ô hoạt động.

 

 

 

 


CHƯƠNG IV

MẶT TRẬN VIỆT MINH TỈNH THỦ BIÊN

TRONG GIAI ĐOẠN 1951 - 1954

I. MỞ RỘNG KHỐI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, THAM GIA ĐẤU TRANH CHỐNG ĐỊCH BAO VÂY, LẤN CHIẾM

Chính sách xâm lược của thực dân Pháp ở Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng ngày càng bị lên án bởi các lực lượng tiến bộ, yêu hòa bình trên thế giới. Chi phí phục vụ chiến tranh quá lớn làm cho nên kinh tế Pháp lâm vào khó khăn. Trước tình hình đó, một mặt thực dân Pháp cầu viện trợ Mỹ, đồng thời tăng cường bóc lột thuộc địa, đẩy mạnh chiến lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.

Từ cuối năm 1950 đầu năm 1951, được đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ1, quân Pháp tiếp tục đẩy mạnh bình định ác liệt trên chiến trường Nam bộ. Chiến trường Biên Hoà bị chia cắt, vùng căn cứ ngày càng khó khăn về lương thực, thực phẩm, vũ khí.... Tổ chức cơ sở Đảng ở vùng du kích rất đông đảng viên nhưng thường bị xáo trộn. Nhiều nơi, cán bộ, đảng viên không còn hoạt động hoặc theo quần chúng ra vùng tạm chiếm, bỏ sinh hoạt, công tác. Hầu hết các xã vùng du kích đều bị địch chiếm đóng, nhân dân bị gom vào các khu tập trung gần lộ giao thông, gần đồn bót, bị kềm kẹp gắt gao. Vùng tạm chiếm, nhiều cơ sở kháng chiến không còn, phong trào hũ gạo nuôi quân, tòng quân giết giặc...lắng xuống. Trước tình hình đó, Mặt trận Việt Minh tỉnh chỉ đạo nhiệm vụ hàng đầu của các đoàn thể cơ sở là củng cố lại tổ chức, đưa cán bộ bám dân hoạt động, khắc phục tình trạng”ly hương”, gây dựng lại phong trào. 

Việc bám lại vào dân thực sự là một cuộc đấu tranh đầy gian khổ. Ở huyện Vĩnh Cửu, cán bộ tìm cách xâm nhập vào các xã đã bị địch chiếm đóng như Bình Trị, Tân Hạnh, Hoá An, Tân Hiệp, Bửu Hoà, Tân Vạn...gặp nhiều khó khăn, nhiều cán bộ, chiến sĩ của ta hy sinh vì bị địch phục kích. Nhiều nơi, ta đột nhập được nhưng không còn cơ sở nên khó hoạt động hoặc bị cô lập. Trong 3 tháng đầu năm 1951, hàng chục cán bộ, chiến sĩ cách mạng bị địch bắt và hy sinh. Tỉnh ủy Biên Hoà cử đồng chí Trịnh Trọng Tráng (Trịnh Văn Bối) củng cố lại tổ chức của thị xã với danh nghĩa Trưởng Ban cán sự 2.

          Ở huyện Long Thành1, địch tăng cường hành quân, càn quét giải tỏa, xây dựng hệ thống tháp canh dọc các lộ giao thông, thường xuyên tổ chức đột kích vào các vùng căn cứ cách mạng. Cán bộ, chiến sĩ và quần chúng gánh chịu những tổn thất nặng nề về người và của. Trước tình hình đó, huyện ủy Long Thành một mặt chỉ đạo tích cực chống giặc càn để giữ đất, giữ vững chiến khu Phước An; mặt khác, sử dụng lực lượng biệt động thực hiện tấn công ngay trong lòng địch địch. Đối với các cơ quan trong chiến khu, huyện chủ trương “Quân sự hoá”, trang bị vũ khí cho cán bộ dân chính, sẵn sàng đánh trả và cơ động di chuyển. Tình hình huyện Long Thành gặp muôn vàn khó khăn, các vùng tự do bị thu hẹp dần, lực lượng võ trang không còn đủ quân số, một số đồng bào trong chiến khu phải trở ra vùng tạm chiếm sinh sống để tránh tổn thất.

Tháng 2/1951, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II được tổ chức tại An toàn khu Việt Bắc. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, quyết tâm lãnh đạo cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Đại hội đã quyết nghị thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt lấy tên gọi là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam; gọi tắt là Mặt trận Liên Việt. Chính cương của Mặt trận Liên Việt xác định: “ Đoàn kết các tầng lớp nhân dân yêu nước, lấy lực lượng công nông và lao động trí thức làm nền tảng để kháng chiến, kiến quốc; Vừa kháng chiến vừa kiến quốc, kháng chiến phải trường kỳ, kiến quốc trước hết nhằm những việc thiết thực để đẩy mạnh cuộc kháng chiến chóng tới thành công…” và Điều lệ của Mặt trận cũng qui định “dựa trên nguyên tắc đảm bảo sự đoàn kết rộng rãi, thực hiện dân chủ, tôn trọng độc lập tính của các đoàn thể, dùng phương pháp phê bình và tự phê bình để tiến bộ”.

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội, Trung Cục miền Nam được thành lập và chỉ đạo bố trí lại chiến trường, sắp xếp lực lượng kháng chiến. Nam Bộ được chia thành hai phân liên khu: miền Đông và miền Tây.

 Tháng 5/1951, tỉnh Thủ Biên được thành lập trên cơ sở sát nhập hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa, trực thuộc Phân liên khu miền Đông2. Ban chấp hành Tỉnh ủy gồm25 đồng chí. Ban Thường vụ tỉnh ủy Thủ Biên gồm các đồng chí: Nguyễn Quang Việt - Bí thư, Vũ Duy Hanh và Phạm Văn Thuận - Phó bí thư, Huỳnh Văn Nghệ - Tỉnh đội trưởng, Lê Thái – ủy viên. Ủy Ban hành chánh kháng chiến tỉnh Thủ Biên do đồng chí Nguyễn Minh Chương - Chủ tịch,  Lê Minh Thành  (còn có tên khác là Tô Văn Của) Phó chủ tịch.

Tổ chức Mặt trận Liên Việt tỉnh Thủ Biên do đồng chí Võ Văn Đợi làm chủ tịch, Phạm Văn Thuận giữ chức phó chủ tịch. Các tổ chức, đoàn thể cứu quốc được củng cố lại. Đồng chí Lê Văn Nhiễu làm Thư ký Công đoàn tỉnh, Phạm Văn Khoai làm Thư ký Hội Nông dân cứu quốc, Nguyễn Việt Trai phụ trách Đoàn Thanh niên, Lưu Hồng Thoại làm Hội trưởng Phụ nữ cứu quốc 1.

Tháng 6/1951, Tỉnh ủy Thủ Biên họp Ban chấp hành mở rộng, đánh giá tình hình và đề ra chủ trương: “Phải đánh phá cho được thế phong tỏa bao vây kinh tế của địch, đánh mạnh giao thông, đồn bót buộc chúng phải quay về vùng tạm chiếm; ra sức tăng cường sản xuất lương thực đi đôi với bảo vệ căn cứ; vũ trang tuyên truyền xây dựng cơ sở vùng tạm chiếm; thực hiện giản chính, giản biên, tăng cường cán bộ cho cơ sở; các xã du kích bị địch tạm chiếm, đơn vị, bộ đội, đoàn thể, du kích hoá trang bí mật luồn vào trong dân để có hướng hoạt động lâu dài”. Tỉnh ủy thực hiện tinh giản bộ máy bằng cách sát nhập nhiều cơ quan cấp tỉnh có quan hệ mật thiết thành cơ quan lớn hơn, gọi là nhóm. Bộ máy lãnh đạo của Thủ Biên chia làm bốn nhóm; bao gồm: nhóm 1 là văn phòng Tỉnh ủy và văn phòng Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh; nhóm 2 là khối dân vận và khối tài chánh (Văn phòng Ủy ban Mặt trận Liên Việt, Ban chấp hành các đoàn thể, các ty kinh tế, tài chánh, canh nông; nhóm 3 là Ban tuyên huấn Đảng, Ty thông tin, Ty giáo dục và cán bộ Tuyên huấn của Mặt trận, các đoàn thể; nhóm 4 là Ban tổ chức Tỉnh ủy. Hai ngành quân sự và công an vẫn hoạt động riêng song cũng triệt để giảm biên chế. Như vậy, do công tác tổ chức nên các cán bộ Mặt trận tỉnh chia thành hai bộ phận, có mặt  chủ yếu nhất là nhóm 2 và nhóm 3. Vì vậy, trong trong thời điểm này, cán bộ Mặt trận, đoàn thể không chỉ hoạt động của tổ chức mình mà còn thực hiện nhiều công tác các bộ phận trong từng nhóm.

Thực hiện chủ trương của tỉnh, các địa bàn đẩy mạnh hoạt động võ trang để hỗ trợ cho phong trào phát triển cơ sở cách mạng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh. Cán bộ Mặt trận, đoàn thể tỉnh hăng hái tham gia đẩy mạnh sản xuất, phục vụ chiến đấu và chiến đấu; đồng thời cử 2/3 cán bộ về phụ trách các tổ chức cơ sở, hoạt động tại địa bàn trong căn cứ, vùng du kích và vùng bị tạm chiếm. Huyện Đồng Nai1 được thành lập trên cơ sở các xã trong căn cứ Chiến khu Đ mở rộng. Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Đồng Nai phối hợp với Mặt trận, các đoàn thể đã thực hiện việc tạm cấp hơn 500 héc ta  đất cho nông dân, các cơ quan canh tác sản xuất.

Trong căn cứ Chiến khu Đ, Hội Phụ nữ tỉnh phát triển những trại sản xuất, trồng tỉa lúa và các loại hoa màu để đảm bảo tự túc lương thực bốn tháng trong năm theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, khắc phục tình hình khó khăn chung của tỉnh. Nguồn lương thực thu được qua việc tăng gia sản xuất không chỉ cung cấp cho Hội mà còn tăng cường cho các đơn vị khác để cải thiện đời sống. Các xã trong huyện Đồng Nai đều hình thành đội nữ dân quân cùng với du kích, bộ đội tuần tra, canh gác, xây làng chiến đấu chống giặc càn vào căn cứ. Cán bộ Hội phụ nữ còn đảm trách nhiệm vụ hướng dẫn nhân dân sơ tán khi cần thiết. Để vừa phục vụ nhân dân trong căn cứ vừa tạo điều kiện cho cán bộ nữ công tác2, Hội phụ nữ tỉnh đứng ra thành lập Nhà Bảo sanh. Mặc dầu điều kiện rất khó khăn, thiếu thốn về vật chất và y cụ, nhưng với tinh thần trách nhiệm, chị em phụ nữ luôn làm tốt công tác được giao.

Trong vùng du kích và vùng tạm chiếm, cán bộ Mặt trận tỉnh kết hợp với lực lượng công an, quân báo đã mở nhiều lớp tập huấn về an ninh, quân báo cho các cơ sở có điều kiện thuận lợi trong hoạt động hợp pháp. Chiến trường huyện trọng điểm Vĩnh Cửu2 được tổ chức làm ba khu vực phù hợp với việc phân định chiến trường: vùng căn cứ, vùng du kích và vùng tạm chiếm để đẩy mạnh hoạt động. Mỗi xã đều tổ chức được cơ sở Đảng, bộ máy chính quyền, đội du kích và các đoàn thể cứu quốc. Nhiệm vụ trọng tâm của Mặt trận, đoàn thể là tiến hành công tác dân vận, xây dựng cơ sở cách mạng và địch nguỵ vận. Tháng 4/1951, giặc Pháp đưa một trung đội lính đến lập đồn Long Điềm (Long Bình Tân) với âm mưu đánh phá chiến khu Bình Đa. Má Đức ở xã Phước Tân, cơ sở, đã thông báo quy luật sinh hoạt của bọn lính, bộ đội ta bố trí tập kích đồn vào ngày 11/6/1951, diệt nhiều tên địch.

Thị xã Biên Hoà được Tỉnh ủy tăng cường thêm cán bộ, củng cố đội võ trang tuyên truyền (gọi tắt là VT3). Độ tổ chức thành 4 đoàn xâm nhập vào thị xã, vùng nông thôn có phong trào đấu tranh yếu để diệt tề trừ gian, xây dựng cơ sở, đánh địch tuần tiễu. Với những nỗ lực cao, đến cuối năm 1951, đội võ trang tuyên truyền thị xã Biên Hoà đã tổ chức được 4 tiểu tổ hoạt động mật, 15 đầu mối thu nhận tin tức, 43 cơ sở dân vận, xây dựng được 7 địa bàn làm bàn đạp như Bình Đa, Tân Phong, Hoá An, Tân Vạn, Tân Hạnh, Bình Trị, Bửu Hoà để đột nhập vào thị xã hoạt động. Chính từ những bàn đạp này, lực lượng võ trang đã tổ chức tấn công địch bên trong thị xã, đồng thời cổ vũ phong trào đấu tranh, củng cố lòng tin nhân dân trong vùng bị địch tạm chiếm.

Ở Xuân Lộc, hệ thống cơ quan lãnh đạo kháng chiến được tổ chức lại. Ban cán sự huyện được thành lập; đội vũ trang tuyên truyền huyện được tăng cường cán bộ, chiến sĩ cùng một số cán bộ Công đoàn, cán bộ công giáo kháng chiến1. Nhiệm vụ của đội là khôi phục xây dựng cơ sở cách mạng, diệt tề trừ gian, đánh tiêu hao sinh lực địch ở thị trấn, các đồn điền cao su nhằm đẩy mạnh việc giữ người, giữ của với địch, tạo thế phát triển phong trào kháng chiến địa phương.

Được Liên đoàn cao su Nam bộ tăng cường cán bộ, đội vũ trang tuyên truyền huyện tổ chức thành 11 nhóm phụ trách từng sở cao su, thị trấn và các lõm căn cứ. Mỗi đội viên công tác được tập trung học tập thông suốt về phương châm công tác vùng du kích, vùng tạm chiếm và vận động công nhân. Mỗi đội viên vũ trang tuyên truyền phải thực hiện ba nhiệm vụ chính: dân vận, địch ngụy vận, chiến tranh du kích. Trong đó, lấy công tác dân vận làm gốc cho mọi công tác khác. Chủ trương và phương châm thực hiện công tác nầy đã mở một hướng hoạt động và chiến đấu hiệu quả cho phong trào kháng chiến Xuân Lộc.

Cán bộ, chiến sĩ của đội phải len lỏi, nằm rừng, chịu đói rét, để tiếp cận quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức. Có những thời gian, từng đội viên phải đào củ mài, củ chụp ăn thay cơm; chỗ ở trong rừng phải di chuyển liên tục. Sau một thời gian, các tổ đã dần dần bắt được liên lạc với các cơ sở, các tổ chức Công đoàn bí mật và khôi phục từng bước phong trào. Công nhân tham gia tích cực trong việc góp công, góp của cho kháng chiến. Máy móc, thiết bị, vật dụng được công nhân gửi ra chiến khu. Lương thực, thực phẩm, thuốc men được công nhân quyên góp ủng hộ đội vũ trang, du kích. Tại Suối Tre, một số cơ sở nữ được bố trí vào làm công cho bọn chủ sở, làm công trong các đồn bót địch để nắm tin tức và lấy vũ khí của chúng. Một số linh mục yêu nước tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ về hoạt động tuyên truyền trên địa bàn giáo dân. Nhiều giáo dân tham gia kháng chiến, ủng hộ cách mạng với lòng tin “kháng chiến đánh đuổi quân Pháp xâm lược là kính Chúa, yêu nước“.

Đội vũ trang tuyên truyền huyện tổ chức nhiều trận đánh trên các lộ giao thông chiến lược, phá hoại đường xá, gây khó khăn cho việc vận chuyển tiếp tế của địch. Đội phối hợp cùng bộ đội tỉnh Bà Chợ, lực lượng vũ trang Xuyên Mộc tấn công một đoàn xe địch ở Trảng Táo, thu nhiều vũ khí và lương thực, đốt nhà xông mủ Tân Phong, cảnh cáo và buộc các chủ sở trên địa bàn thực hiện nghĩa vụ đóng thuế cho kháng chiến.

Chiến trường huyện Long Thành tiếp tục gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Sau hội nghị huyện ủy vào tháng 7/1951, quân Pháp đã tổ chức nhiều cuộc càn quét vào chiến khu Phước An, gây bao tội ác đối với nhân dân và phá hoại các cơ sở, kho tàng của cách mạng. Ngày 20/9/1951, địch tổ chức cuộc càn quy mô bao gồm bộ binh, hải quân, không quân đánh chiếm căn cứ. Vùng tự do cuối cùng của địa bàn Long Thành hoàn toàn rơi vào sự kiểm soát của kẻ thù.

Mặc dầu gặp nhiều khó khăn nhưng lực lượng vũ trang Thủ Biên đã tổ chức được trận đánh vào yếu khu Trảng Bom. Đây là 1 cứ điểm quân sự của Pháp để án ngữ bảo vệ tuyến quốc lộ I, đường sắt; bàn đạp tấn công thọc sâu vào vùng độc lập Định Tân, Đại An huyện Vĩnh Cửu; chốt chặn hành lang kháng chiến từ Chiến khu Đ về Bà Rịa. Được sự phối hợp giúp đỡ của công nhân, má Năm Xuyến là cơ sở mật báo viên của phụ nữ địa phương, cơ sở nội tuyến lực lượng võ trang tỉnh tổ chức tấn công địch sau hai tháng điều nghiên1. Buổi chiều ngày 20/7/1951, ta tập kích bất ngờ vào yếu khu quân sự địch khiến chúng không kịp đối phó, diệt nhiều sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng2. Trận đánh đã gây tiếng vang, có ý nghĩa lớn cổ vũ mạnh phong trào du kích chiến tranh ở hai huyện Vĩnh Cửu, Xuân Lộc và thị xã Biên Hòa, tạo niềm tin cho quân chúng nhân dân vào lực lượng kháng chiến.

Bước vào năm 1952, tại vùng căn cứ, Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Thủ Biên bãi bỏ chủ trương bao vây kinh tế địch (trước đây chủ trương chỉ tự đóng khung kinh tế kháng chiến trong căn cứ). Nhân dân trong căn cứ được mang nông sản, hàng hoá trao đổi, mua bán với vùng tạm chiếm. Đồng thời Ủy ban tỉnh cũng chuyển chính sách thu đảm phụ quốc phòng sang thu thuế nông nghiệp. Đây là những chính sách mở kịp thời của tỉnh để khắc phục tình trạng khan hiếm lương thực, hàng hóa và đẩy mạnh việc xây dựng nền kinh tế kháng chiến phát triển. Các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trong căn cứ đều luân phiên cắt cử 2/3 cán bộ, nhân viên tham gia sản xuất tự túc. Cán bộ Mặt trận, các tổ chức đoàn thể không chỉ vận động quần chúng tăng gia sản xuất mà còn thực hiện nhiều chuyến mua hàng, thực phẩm để thực hiện ổn định đời sống và dự trữ trong căn cứ.

Phụ nữ tỉnh tổ chức những lò chế biến lương thực ở Hàng Dài, trại tương ở Đất Đạo trong căn cứ chiến khu Đ để dự trữ và làm lương khô cung cấp cho các cơ quan, đơn vị bộ đội.

Đoàn thanh niên tỉnh thành lập 20 đội “thanh niên xung phong chống đói”. Lúc đầu, lực lượng thanh niên được tập hợp chủ yếu là các cơ quan của tỉnh sau đó vận động ra các địa phương và gọi là “đội tăng gia thanh niên”. Tỉnh đoàn Thanh niên chỉ đạo cho mỗi cơ sở đoàn ở vùng đồng bào thiểu số phải đỡ đầu lương thực cho bà con dân tộc. Chủ trương nầy thể hiện được chính sách đoàn kết dân tộc đồng thời vận động, khuyến khích được bà con dân tộc mở rộng tăng gia sản xuất tự túc, góp phần chung trong nền kinh tế kháng chiến một cách hiệu quả. Bên cạnh việc tăng gia sản xuất, Đoàn Thanh niên tổ chức hai đội “Thanh niên xung phong” tham gia công tác vận tải (vũ khí, lương thực) phục vụ cho chiến đấu. Từ 264 đoàn viên ban đầu, chỉ sau một thời gian ngắn, số thanh niên tham gia tăng lên gần 500 người. Lực lượng thanh niên vận tải nầy được phiên thanh những đơn vị phù hợp, tham gia hầu hết trên các mặt trận trong công tác chuyển tải, phục vụ kháng chiến.

Mỗi cán bộ đoàn thể đi công tác cơ sở đồng thời là thành viên vận động thuế nông nghiệp, nhờ vậy phong trào vận động đóng thuế nông nghiệp được đông đảo nhân dân không chỉ ở vùng căn cứ, mà cả vùng du kích và tạm chiếm tham gia, góp phần xây dựng kinh tế kháng chiến. Tình trạng thiếu đói trong vùng căn cứ được khắc phục.

Để hỗ trợ cho các đoàn cán bộ công tác, đội vũ trang tuyên truyền thị xã Biên Hoà tổ chức một số trận đánh địch tại nhà hàng Vi-đan, chặn đánh xe buýt chở lính Pháp, đốt kho xăng Biên Hoà, tấn công trụ sở làng Bửu Long, đánh sập tua Hoá An (do lính Cao Đài trấn giữ), tháp canh Bình Thành, diệt ác ở Bửu Hoà... gây cho địch nhiều tổn thất, củng cố lòng tin của quần chúng trong vòng vây kiểm soát của giăc. Hầu hết, các trận đánh của lực lượng võ trang đều có sự tiếp sức, giúp đỡ của các cơ sở bên trong. Trận đánh kho xăng Biên Hoà các ông Đỗ Văn Khê, Trương Đại Khai, Lê Văn Thìn, bà Đỗ Thị Phú đã bất chấp hiểm nguy, che chở cho các chiến sĩ hoạt động.

Huyện ủy Long Thành chủ trương chia địa bàn thành 5 khu vực để hoạt động và đẩy mạnh việc gây dựng cơ sở, ổn định phong trào, vận động tài chánh nuôi quân. Lực lượng cơ quan, ban ngành huyện được phân tán để cơ động trong công tác. Đồng chí Nguyễn Sanh Thành – Chủ nhiệm Mặt trận Liên Việt huyện được phân công phụ trách địa bàn khu III: Phước Thành, Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Lý. Các khu vực khác trong các đơn vị đều có cán bộ các đoàn thể, mặt trận tham gia đảm nhiệm công tác tuyên truyền. Do chuyển được phương thức hoạt động, bám dân, tình hình kháng chiến Long Thành từng bước đi vào ổn định tuy không tránh được những tổn thất do địch đánh phá ác liệt, đặc biệt do bọn lính phản động trong Cao Đài, Hoà Hảo và biệt kích do tên ác ôn Suacot cầm đầu thực hiện. Lực lượng võ trang Long Thành cũng tổ chức nhiều trận đánh gây tiếng vang như: trận tấn công kho chứa mủ ở quận lỵ, đánh sân bay Siph, diệt bót lộ 19…làm cho địch không còn huênh hoang giọng điệu “Việt Minh đã bị đánh bật ra khỏi Long Thành”. Những trận đánh đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng. Địa bàn các xã được nối thông, cán bộ bám vào dân tuyên truyền đường lối kháng chiến. Đặc biệt, ngay tại thị trấn Long Thành, ta xây dựng được hơn 60 hội viên phụ nữ, tại các đồn điền cơ sở cách mạng được móc nối, gây dựng lại. Công tác vận động tài chánh kháng chiến thu được nhiều kết quả, góp thêm lương thực nuôi quân.

Tháng 10/1952, cả miền Đông Nam bộ bị bão lụt gây hậu quả nặng nề. Tỉnh Thủ Biên, đặc biệt vùng Biên Hòa bị thiệt hại nghiêm trọng1. Trước hậu quả của việc địch phong tỏa kinh tế giờ thêm thiên tai lũ lụt, các trại sản xuất, lương thực hoa màu chuẩn bị thu hoạch bị mất trắng, các kho lương dự trữ, kho tàng, doanh trại, quân y trang…đều bị phá huỷ, hư hỏng khiến hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trong Chiến khu Đ bị đe dọa bởi nạn đói, bệnh tật. Rất nhiều đồng bào ở Chiến khu, các vùng độc lập đến gặp chánh quyền địa phương đề nghị được tạm thời ra vùng tạm chiếm tìm cách sống qua ngày. Từ tiêu chuẩn được cấp 10 lít gạo/người/tháng nay chỉ còn 3 lít gạo. Số gạo trên chỉ đủ nấu cháo với tỉ lệ 5% gạo, còn 95% là lá tàu bay hoặc các thứ rau, củ tự kiếm được.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Thủ Biên xin chi viện của Trung ương Cục và kêu gọi đồng bào vùng tạm chiếm ủng hộ vùng kháng chiến. Nhân dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã quyên góp hàng triệu đồng tiền Đông Dương, hàng chục tấn gạo, thực phẩm, đồ dùng ủng hộ. Để chuyển số hàng từ miền Tây lên Chiến khu Đ, tỉnh Thủ Biên thành lập nhiều đội thanh niên xung phong vận chuyển. Trên địa bàn tỉnh Thủ Biên, cán bộ Mặt trận, các đoàn thể vận động và trực tiếp tham gia thực hiện việc chuyển tải lương thực, thực phẩm, hàng hoá của quần chúng đóng góp về căn cứ. Công cao su tự nguyện giảm khẩu phần ăn vốn thiếu thốn của mình để góp thêm lương thực gởi vào chiến khu. Nhân dân Long Thành theo lời kêu gọi của Mặt trận Liên Việt huyện đã góp hàng chục ngàn giạ lúa. Đồng bào xã Phú Hữu ủng hộ 25.000 giạ lúa (khoảng 500 tấn). Mặc cho địch phong tỏa, bằng sự linh hoạt, lực lượng huyện đã đào kênh chuyển hàng về tỉnh an toàn. Nhân dân thị xã Biên Hoà gom góp được nhiều nhiều loại hàng hoá để ủng hộ đồng bào vùng căn cứ. Nhiều chủ tiệm cả người Việt, người Hoa đều tích cực đóng góp gạo. Các hộ gia đình, chủ sạp hàng thì tùy theo khả năng đóng góp tiền bạc, hàng hoá các loại bí mật chuyển ra cho kháng chiến. Các cơ sở làm việc trong Nhà thương điên Biên Hoà chuyển được nhiều thuộc điều trị bệnh, dụng cụ y tế ra căn cứ. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh trong công tác tải hàng từ vùng tạm chiếm về căn cứ cách mạng do bị địch phục kích. Những con đường như quốc lộ I, 15; các tỉnh lộ 16, 24… luôn bị lính địch tuần tiễu, phục kích ngăn chặn. Cán bộ, chiến sĩ của ta khi vượt qua những con đường này mệnh danh chúng là những “cung đường máu và mồ hôi”.

Sự chi viện và giúp đỡ của nhân dân khắp nơi là nguồn lực để Đảng bộ, quân dân tỉnh Thủ Biên ổn định đời sống vùng căn cứ, vượt qua những thử thách vô cùng nghiệt ngã. Đi đôi Tỉnh ủy Thủ Biên phát động phong trào tự túc sản xuất, đẩy mạnh trồng các loại cây lương thực ngắn ngày, chăn nuôi gia súc. Cùng với các cơ quan, đơn vị trong căn cứ, Mặt trận tỉnh và các đoàn thể tích cực tham gia công tác sản xuất, chăn nuôi, tạo nguồn lương thực cho chính đơn vị mình đồng thời góp phần vào lương thực dự trữ cho kháng chiến.

Từ cuối năm 1952, lợi dụng tình hình khó khăn của ta ở Chiến khu Đ về lương thực, thực dân Pháp tổ chức nhiều cuộc càn và thực hiện chiến tranh tâm lý đối với chiến khu Đ. Một số cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đã hoang mang dao động, rời bỏ hàng ngũ chiến đấu1. Quân Pháp và ngụy binh lùng vào chiến khu, đánh cướp, phá hoại mùa màng. Cuộc chiến đấu bảo vệ lương thực, mùa màng của ta đối với địch hết sức căng thẳng. Lực lượng vũ trang vừa tăng gia sản xuất vừa chiến đấu. Cán bộ Mặt trận tỉnh và các đoàn thể, đặc biệt là phụ nữ tranh thủ giúp dân thu hoạch mùa màng vào ban đêm, ở cả những chân ruộng ngay sát đồn bót địch. Nhiều lần, địch tổ chức xe đến cướp lúa của đồng bào sau khi thu hoạch, các mẹ, các chị bao vây cản xe, đấu tranh: “Bão lụt làm mùa màng thất bát, dân chịu đói chịu khổ. Mấy chú cũng có gia đình, mấy chú có muốn gia đình mình chết đói không? Bà con ở đây khác gì gia đình mấy chú”. Trước lý lẽ có tình, có lý của các mẹ, các chị, bọn lính đã bỏ đi. Trong gian khổ, khó khăn, cán bộ các đoàn thể bất chấp gian nguy, luôn hoàn thành các nhiệm vụ được giao phó từ công việc giúp dân, tuyên truyền, liên lạc, tải hàng....vẫn trung kiên, một lòng với kháng chiến. Sau một thời gian, quân dân Thủ Biên vừa sản xuất vừa chiến đấu đã ổn định được tình hình và đẩy mạnh phong trào kháng chiến.

II. HUY ĐỘNG SỨC MẠNH TOÀN DÂN, ĐẨY MẠNH KHÁNG CHIẾN ĐẾN THẮNG LỢI (1953 - 7/1954)         

          Bước vào năm 1953, quân Pháp tiếp tục tăng cường vơ vét sức người sức của ở Nam bộ để đẩy mạnh hoạt động trên chiến trường chính ở miền Bắc Việt Nam.

          Ngày 24/4/1953, Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc phát động quần chúng đẩy mạnh công cuộc kháng chiến. Mục đích của phát động quần chúng là: “đánh đổ thế lực phản động, làm yếu thế lực kinh tế của phong kiến, đập tan thế lực chính trị của phong kiến, thoả mãn một phần yêu cầu kinh tế của nông dân và giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động ở nông thôn, củng cố công nông liên minh và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến…”.

Trên địa bàn tỉnh Thủ Biên, địch tăng cường đánh phá vùng Chiến khu Đ. Trong bốn tháng đầu năm, chúng tổ chức 3 trận càn quét cấp tiểu đoàn, 16 trận đột kích cấp đại đội, có trận với quy mô lớn, kéo dài gần 2 tháng trời hòng san bằng căn cứ, tiêu diệt bộ máy kháng chiến cách mạng. Huyện căn cứ Đồng Nai có 6.000 đồng bào và trên 4.000 dân các huyện Hớn Quản, Bến Cát, Vĩnh Cửu bị địch gom ra vùng tạm chiếm. Vùng căn cứ du kích, địch tăng cường bình định, gom dân, chặn đường tiếp vận và tăng cường bắt lính vùng tạm chiếm. Toàn tỉnh Thủ Biên, địch bắt 2.000 thanh niên đi lính. Ở các đồn điền cao su, địch vừa ruồng bố, tuần kích, càn quét bao vây căn cứ của lực lượng kháng chiến; đồng thời phát triển mạng lưới gián điệp, xử dụng bọn đào ngũ tung tin, lập những tổ chức dân chủ giả hiệu, nghiệp đoàn ma…phá hoại cơ sở, chia rẽ khối đoàn kết công nhân.

Đây là một giai đọan đầy khó khăn cho các hoạt động của tổ chức mặt trận và các đoàn thể tỉnh Thủ Biên. Công tác xây dựng và phát triển cơ sở trên địa bàn Biên Hoà ngoài tổ chức công đoàn và hội mẹ chiến sĩ thu hút rộng rãi quần chúng nhân dân, công nhân thì các tổ chức khác hoạt động chưa có hiệu quả. Một số cơ sở trong các đồn điền cao su hoạt động không thường xuyên. Cán bộ cơ sở tại chỗ thiếu hụt, nhiều cơ sở cách mạng bị phát hiện, cô lập. Hầu hết, các cán bộ công đoàn đều nằm trong đội võ trang tuyên truyền, kết hợp công tác chiến đấu với xây dựng cơ sở. Nhiều địa bàn, hoạt động của mặt trận, đoàn thể mang tính cầm chừng.

Tháng 4/1953, Tỉnh ủy Thủ Biên triệu tập hội nghị cán bộ tại Chiến khu Đ nhằm rút kinh nghiệm và chỉ đạo thực hiện phương châm công tác ba vùng: căn cứ, du kích, tạm chiếm. Những chủ trương lớn trong hoạt động của ta được xác định là: Đẩy mạnh võ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian, xây dựng cơ sở, tăng cường địch vận; đẩy mạnh phong trào vùng đô thị tạo điều kiện cho chi bộ, chính quyền, đoàn thể bám dân hoạt động. Tỉnh ủy xác định và phân chia lại các vùng cho phù hợp với tình hình mới 1.

Thực hiện sự chỉ đạo này, cán bộ Mặt trận, các đoàn thể Liên Việt tỉnh Thủ Biên đẩy mạnh hoạt động vào các vùng tạm chiếm. Nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn do tình hình tranh chấp giữa địch và ta khá gay gắt, một số địa bàn lực lượng cách mạng còn buông lỏng và không đúng phương châm hoạt động, chưa đem lại hiệu quả.

Những tháng đầu năm 1953, vừa sản xuất vừa chiến đấu, quân dân Thủ Biên từng bước ổn định tình hình sinh hoạt và phong trào. Số đồng bào ra vùng tạm chiếm lần lượt trở về sinh sống, tiếp tục xây dựng căn cứ. Công tác xây dựng và bảo vệ căn cứ Chiến khu Đ được triển khai. Các cơ quan, đơn vị, đoàn thể tiếp tục thực hiện tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế kháng chiến đồng thời thực hiện phương án phòng gian bảo mật, chiến đấu bảo vệ căn cứ.

Tại vùng du kích, vùng tạm chiếm, Tỉnh ủy chỉ đạo khắc phục tình trạng bộ máy lãnh đạo, cán bộ ly hương; giữ vững vùng du kích, đưa hoạt động võ trang vào vùng yếu, tạm chiếm; tăng cường công tác địch nguỵ vận. Huyện Vĩnh Cửu được tỉnh cử tăng cường cán bộ phát triển làng xã chiến đấu, củng cố căn cứ du kích làm bàn đạp tiến công vào thị xã Biên Hoà.

Vùng đồn điền, Tỉnh ủy Thủ Biên chủ trương đẩy mạnh tổ chức và hoạt động công đoàn bằng hình thức hợp pháp, bán hợp pháp phù hợp với hoàn cảnh, củng cố niềm tin đối với quần chúng. Đồng thời, tỉnh rút một số cán bộ về chỉnh huấn tư tưởng, học tập chính sách để chuẩn bị chuyển hướng cho các hoạt động bí mật một cách hiệu quả hơn. Giữa năm 1953, tỉnh Thủ Biên tổ chức được 2 lớp học cho cán bộ về đường lối, chính sách và phương thức hoạt động chuyển hướng trong tình hình mới. Cán bộ mặt trận, đoàn thể có thêm những kinh nghiệm tổ chức tuyên truyền, xây dựng cơ sở, vận động nhân dân dưới các hình thức hội làng, hội xóm, hội tương tế…Phong trào đấu tranh của công nhân đòi dân sinh dân chủ, chống bắt lính được khơi dậy ở một số sở.

Đối với vùng đồng bào thiểu số, Tỉnh ủy Thủ Biên chỉ đạo đẩy mạnh công tác thiểu số vận. Tỉnh Thủ Biên có trên 70.000 đồng bào dân tộc thiểu số, gồm các dân tộc như: Ch’ro, Mạ, S’tiêng và Khme…Địch thực hiện chia rẽ đồng bào thiểu số với kháng chiến, tăng cường bắt xâu bắt lính, lợi dụng đồng bào để hình thành hệ thống bảo vệ các đồn bót và cơ sở kinh tế của chúng. Vì vậy, hàng ngàn thanh niên các dân tộc thiểu số bị địch bắt lính. Trên địa bàn Biên Hoà, công tác thiểu số vận các khu vực Tà Lài, Lý Lịch, Xuân Lộc được cán bộ Mặt trận thực hiện hiệu quả. Cán bộ ta thực hiện ba cùng với nhân dân, giúp đồng bào làm nương rẫy ổn định cuộc sống, chăm lo đời sống y tế… đáp ứng nguyện vọng của bà con nên từng bước được đồng bào tin tưởng. Qua công tác thiểu số vận, ta làm thất bại âm mưu gây chia rẻ dân tộc của địch, đồng bào thiểu số ủng hộ kháng chiến bằng nhiều hình thức: đóng góp lương thực, che chở cán bộ về hoạt động, giao liên dẫn đường, kêu gọi thanh niên buôn, sóc trốn lính, đào ngũ…Đặc biệt, đồng bào thiểu số trong căn cứ như các xã Bù Cháp, Lý Lịch, Vĩnh An, Tứ Hiệp đã tham gia phong trào chống càn, tích cực bảo vệ căn cứ. Đồng bào đã rào làng chiến đấu, làm nhiều bãi chông chống địch càn. Các phụ lão, thiếu nhi hăng hái trong công tác canh gác, vận chuyển tiếp tế lương thực, phụ nữ tham gia du kích, nữ dân quân trực tiếp chiến đấu.

Những tháng cuối năm 1953, hoạt động của các lực lượng vũ trang kháng chiến trên toàn quốc có những bước chuyển quan trọng. Trên chiến trường Bắc bộ, quân Pháp ngày càng sa lầy. Ở Nam bộ, địch rút bỏ nhiều đồn bót, tăng cường bắt lính đôn quân để tập trung cho chiến trường miền Bắc. Đây là thời điểm để phong trào đấu tranh cách mạng ở Nam bộ có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn.

Tháng 9/1953, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ của chiến trường Nam bộ là đẩy mạnh chiến tranh du kích, tranh thủ điều kiện thuận lợi mới tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch và đẩy mạnh công tác địch ngụy vận. Tháng 10/1953, Trung ương Cục miền Nam quyết định mở chiến dịch địch ngụy vận để phối hợp với đợt hoạt động trong chiến dịch Đông Xuân (1953 – 1954), xem đây là nhiệm vụ trung tâm của vùng du kích và vùng tạm chiếm. Quán triệt chỉ thị của Trung ương Cục và Phân liên khu miền Đông, Tỉnh ủy Thủ Biên chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác vận động, lôi kéo giác ngộ binh lính, hương chức hội tề, từng bước làm tan rã đồn bót và bộ máy chính quyền địch.

Mặt trận tỉnh và các đoàn thể tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền vận động đường lối kháng chiến; lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống địch gom dân, bắt lính; đồng thời vận động thanh niên tòng quân, gia nhập du kích, xây dựng cơ sở cách mạng. Phong trào kháng chiến có những bước chuyển biến đáng kể.

Ở thị xã Biên Hoà, các đoàn võ trang tuyên truyền đẩy mạnh công tác diệt tề trừ gian hỗ trợ cho các đoàn thể triển khai công tác địch nguỵ vận, vận động nhiều binh lính bỏ súng trở về với nhân dân, không tham gia làm tay sai cho địch. Được cơ sở mật ở Bình Đa, Tam Hiệp, Hiệp Hoà dẫn đường, tổ biệt động thị xã Biên Hoà đột kích, đốt cháy kho xăng Biên Hoà, nơi dự trữ nhiên liệu lớn của địch ở miền Đông.

Ở huyện Vĩnh Cửu, lực lượng vũ trang diệt các bót Miễu Ngói, diệt địch ở sở cao su Ông Phủ (Bình Ý), bót Cẩm Vinh hỗ trợ cho cán bộ Mặt trận, đoàn thể đẩy mạnh công tác vùng địch hậu, vận động quần chúng kết hợp vũ trang phá rã bộ máy tề nguỵ. Bọn địch không dám càn bố sâu vào các vùng căn cứ du kích của ta. Các đoàn cán bộ quân, dân, chính, Đảng có điều kiện xâm nhập sâu xây dựng cơ sở, rút thanh niên tòng quân. Ở Gò Lũy (huyện Tân Uyên), thông qua nội tuyến và công tác binh vận, ta đưa một đại đội lính Hoà Hảo về miền Tây Nam bộ, phá được âm mưu của giặc Pháp dùng lực lượng vũ trang tôn giáo đánh phá cách mạng.

Tại Xuân Lộc, các chi bộ đảng đẩy mạnh tuyên truyền chiến thắng của ta trên chiến trường miền Bắc khiến bọn lính hoang mang, tinh thần rệu rã; phong trào chống bắt lính trong quần chúng ngày càng phát triển. Tại đồn điền Ông Quế, được cơ sở nội tuyến giúp đỡ, công nhân và lực lượng du kích Bà Rịa tổ chức tấn công đồn, bắt sống chủ Tây và toàn bộ lính địch, thu vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng đưa ra vùng căn cứ. Nhân dân, công nhân tại địa phương tích cực quyên góp lương thực, thực phẩm, đồ dùng... ủng hộ bộ đội. Trận đánh đồn  ở sở Ông Quế gây tiếng vang lớn, cổ vũ cho phong trào du kích trong các đồn điền ở Xuân Lộc phát triển, tạo ra khí thế chính trị hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh của công nhân. Ở các đồn điền An Lộc, Bình Lộc, Cẩm Mỹ... công nhân tổ chức nhiều cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống bắt lính và chống đánh đập, sa thải công nhân... Đội vũ trang tuyên truyền huyện và du kích liên tục đột kích tuyên truyền và tấn công địch, nhiều đồn bót, tháp canh binh lính địch không dám canh gác. Địa bàn Xuân Lộc từ vùng bị tạm chiếm chuyển lên thành vùng du kích.

Vùng Chiến khu Đ mặc dù địch đánh phá ác liệt1 nhưng phong trào du kích vẫn phát triển. Huyện căn cứ Đồng Nai có hàng trăm thanh niên tham gia bộ đội, du kích. Mỗi xã ta xây dựng tiểu đội du kích làm nòng cốt chiến đấu, chống địch càn. Cán bộ trong các đoàn thể đều tham gia trong lực lượng du kích vừa tham gia sản xuất, tăng cường làm mùa nghịch, thực hiện bảo đảm nguồn kinh tế kháng chiến. Được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân các xã trong chiến khu và các vùng du kích với phương châm “giành giật với địch, thu hoạch hết, thu hoạch gọn” đã bảo vệ được lương thực khi thu hoạch.

Tháng 11-1953, Tỉnh ủy Thủ Biên đã tổ chức Đại hội mừng công, tuyên dương nhiều cơ quan, đơn vị, cá nhân đạt nhiều thành tích trong chiến đấu, sản xuất; khích lệ phong trào thi đua trong toàn tỉnh. Tỉnh thành lập đoàn văn công, xuất bản những ấn phẩm tuyên truyền đường lối kháng chiến, động viên tinh thần chiến đấu, sản xuất trong căn cứ và cả các vùng tranh chấp giữa ta và địch. Các khẩu hiệu tuyên truyền “4 không”: không cướp phá, không bắn giết, không bắt bớ, không hãm hiếp được cán bộ và các đội vũ trang tuyên truyền đưa vào vùng địch chiếm đóng; viết thư tay, gởi quà bánh kèm truyền đơn, qua các cơ sở nội tuyến…tác động đến hàng ngũ địch, việc vận động nguỵ binh trở về với nhân dân thu được nhiều kết quả. Qua đợt vận động, có 527 ngụy binh bỏ ngũ trở về với gia đình, 17 lính mang súng về với cách mạng. Hằng trăm nông dân vùng tạm chiếm lần lượt trở về Chiến khu. Nhiều vùng tranh chấp trở thành vùng tự do.

Huyện Long Thành lúc bấy giờ là một trong những địa bàn trọng điểm của tỉnh Bà Chợ. Qua một thời gian củng cố công tác xây dựng cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng, ta mở được thế kềm kẹp của địch. Phương châm công tác 3 vùng được cán bộ Mặt trận, đoàn thể thực hiện thu được nhiều kết quả khả quan. Toàn huyện có 302 đảng viên thoát ly và 167 đảng viên mật, ta móc nối liên lạc được với 72 đảng viên. Một số ấp đã xây dựng được các lõm du kích. Nhiều khu dồn dân của địch bị quần chúng nổi dậy giải tán.

Từ cuối năm 1953 đầu năm 1954, trên chiến trường Thủ Biên, quân Pháp rút đi 3 tiểu đoàn để tăng cường cho chiến trường Bắc Bộ 2. Do lực lượng bị thiếu hụt nên chúng bổ sung gấp rút ngụy quân đồng thời rút bớt đồn bót vùng tạm chiếm. Ở Biên Hoà, địch thành lập một tiểu đoàn cơ động tuần tiễu các tuyến lộ giao thông quan trọng I, 15 và 20. Tuy nhiên chiến thắng của ta trên chiến trường miền Bắc tác động, đại đa số binh lính ngụy tinh thần hoang mang dao động. Nắm bắt thời cơ, Tỉnh ủy Thủ Biên một mặt chỉ đạo đưa lực lượng võ trang áp sát các thị xã, thị trấn tấn công đồn bót giặc, đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền địch nguỵ vận vào các vùng tạm chiếm, phát huy thắng lợi để phối hợp với chiến trường chung của cả nước.

Đầu năm 1954, tỉnh Thủ Biên gồm 7 huyện, 89 xã; trong đó có 16 xã căn cứ, 32 xã du kích và 41 xã tạm chiếm. Lực lượng quân Pháp ngụy gặp mâu thuẫn lớn giữa tập trung cho chiến trường miền Bắc và phân tán đối phó hoạt động của quân dân ta ở chiến trường Nam bộ. Trung ương đã đề ra 3 nhiệm vụ chính trong năm 1954 cho chiến trường Nam bộ: Giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích; củng cố mở rộng căn cứ; đẩy mạnh công tác địch nguỵ vận.

Về công tác địch ngụy vận, Phân Liên khu miền Đông tổ chức hội nghị “Quân Dân Chính Đảng” xác định nhiệm vụ, mục tiêu là: làm tan rã nguỵ binh (các sắc lính trong hàng ngũ địch) bằng vận động chính trị kết hợp tác chiến mạnh, kết hợp hoạt động quân sự với đấu tranh kinh tế; đẩy mạnh phong trào vận động địch giải ngũ, đào ngũ, phản chiến và phá thế gom dân của địch. Tùy vào từng vùng cụ thể và từng đối tượng sắc lính mà lực lượng cách mạng có phương châm thực hiện thích hợp, từ thấp lên cao, từ hợp pháp đến bất hợp pháp. Với bọn lính Bảo an hay tề ở vùng tạm chiếm, ta lôi kéo là chính, phá là phụ nhưng ở vùng du kích thì phá là chính, lợi dụng lôi kéo là phụ; từ đó, giúp ta từng bước phá tan bộ máy ngụy quân của địch. Ta đẩy mạnh công tác xây dựng cơ sở và dùng cơ sở bí mật để khuấy động phong trào tuyên truyền về Chánh phủ Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, của kháng chiến trong giai đoạn mới. Đối với những sắc lính chính quy ta vừa vận động làm cho chúng tan rã, vừa tranh thủ tiêu hao sinh lực địch. Công tác địch nguỵ vận nhằm tuyên truyền về cách mạng và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất trong công việc bảo vệ hoà bình, bảo vệ đất nước thoát sự thống trị của kẻ thù và bọn tay sai.

Thực hiện nghị quyết của trên, Tỉnh ủy Thủ Biên đã chỉ thị Mặt trận và các cơ quan đoàn thể Biên Hoà từ tỉnh đến các huyện, xã  nhanh chóng chấn chỉnh, củng cố; đẩy mạnh tuyên truyền thắng lợi ở miền Bắc, đẩy mạnh công tác địch ngụy vận.

Thắng lợi của ta trên chiến trường cả nước những tháng đầu năm 1954 đã tác động đến phong trào đấu tranh chung của Nam bộ nói chung, tỉnh Thủ Biên nói riêng. Thế và lực của lực lượng cách mạng ngày càng được củng cố, tăng cường. Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng chấn động địa cầu: đánh bại thực dân Pháp xâm lược. Hòa trong niềm vui chung của đất nước, quân dân Biên Hoà nói riêng, Thủ Biên nói chung đã đẩy mạnh tiến công địch, mở thêm vùng làm chủ.

Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève (Giơ-ne-vơ) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân tỉnh Thủ Biên cùng cả nước vui mừng chào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

Ngày 15/8/1954, hàng ngàn đồng bào, chiến sĩ từ các vùng căn cứ, du kích, tạm chiếm về dự cuộc mít tinh mừng kháng chiến thắng lợi tại Nhà Nai Chiến khu Đ. Ngày 2/9/1954, tại khu du kích Đại An (huyện Vĩnh Cửu), đông đảo đồng bào tập trung tiễn đưa lực lượng vũ trang của tỉnh Thủ Biên lên đường đi tập kết. Cán bộ, chiến sĩ đi tập kết hay được phân công ở lại đều xác định tư tưởng “Ra đi là thắng lợi, ở lại là vinh quang” cùng hướng tới một mục đích cao cả: “Vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước”. Chính điều thiêng liêng cao quý đó mà họ không ngại những gian khổ, vất vả, hy sinh để cùng nhau kháng chiến, chống lại kẻ thù xâm lược một cách kiên cường.

***

Chín năm kháng chiến trường kỳ, những cán bộ mặt trận, đoàn thể nói riêng, quân dân Biên Hoà nói chung đã vượt qua bao khó khăn, gian khổ và cả những hy sinh để góp phần trong thắng lợi.

Tội ác của thực dân Pháp và bọn tay sai trên vùng đất Biên Hoà thật tàn bạo. Những người dân vô tội bị giết chết bởi bọn xâm lược, tay sai gian ác. Nhiều cán bộ, chiến sĩ, trong đó nhiều cán bộ công tác trong Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc, những cơ sở cách mạng đã hy sinh trước họng súng của kẻ thù. Trong khó khăn, hy sinh, họ vẫn một lòng trung kiên với cách mạng.

Tại Long Thành, đồng chí Nguyễn Sanh Thành –Chủ nhiệm Mặt trận Liên Việt bị địch bắt, địch tra tấn đến dụ hàng nhưng vẫn không khuất phục được. Chúng  đưa đồng chí lên cả máy bay phát loa kêu gọi những người trong vùng căn cứ đầu hàng. Đồng chí dũng cảm kêu gọi cán bộ, chiến sĩ một lòng giữ vững tinh thần chiến đấu bằng cách hét thật to vào chiếc loa: “Ai đầu hàng giặc Pháp là phản bội Tổ quốc”. Ở Biên Hoà, những cán bộ, cơ sở như Đinh Quang Dữa, Nguyễn Văn Truy (chủ Lồi), Phạm Văn Điều, Nguyễn Văn Hai, Vũ Đình Bưởi, anh Chà, Phụng…bị giặc bắt, tra tấn vẫn giữ vững tinh thần, không khai báo có hại cho tổ chức. Tại Bình Lộc, quân Pháp phát hiện một bản vẽ, báo cáo chi tiết về sự bố phòng cùng con số thống kê đầy đủ vũ khí, quân lực của chúng trên địa bàn. Chúng liền bắt hàng loạt người tình nghi: ông Vọng, ông Ôn, trùm Thưởng, ông Bích, Tài Tựu, Chín, Hào, Sinh, Chung... những cơ sở kháng chiến tại đồn điền Bình Lộc giam cầm và tra khảo tại Suối Tre (An Lộc). Địch giam cầm và tra tấn dã man nhưng không ai khai một điều gì. Điên tiết, địch dự định sẽ xử bắn từng người. Để giải thoát cho những người bị bắt, ông Vọng đã đứng ra nhận tội về mình và chấp nhận bị địch xử tử. Ông hy sinh anh dũng trong sự tiếc thương và cảm khái của người dân, công nhân đồn điền cao su ở Xuân Lộc.

Trong chiến đấu với kẻ thù, nhiều tấm gương hy sinh của cán bộ mặt trận, các đoàn thể trở thành biểu tượng của tinh thần bất khuất, ý chí cách mạnh kiên cường. Chị Tuyết, hội phó phụ nữ huyện Long Thành khi bị địch bắt, chấp nhận hy sinh không đầu hàng, khai báo. Hai cán bộ phụ nữ ấp ở xã Phước Thiền là Lê Thị Mành, Lê Thị Em dù bị địch bắt bớ đánh đập dã man nhưng vẫn giữ khí tiết của người cộng sản cho đến lúc hy sinh. Kẻ thù đã thủ tiêu, vứt xác hai đồng chí xuống sông. Cơ sở cách mạng ở Long Thành là ông Nguyễn Văn Gòn mang truyền đơn đi tuyên truyền bị bọn lích biệt kích bắt thiêu sống. Trên địa bàn Vĩnh Cửu, chị Đào Thị Xuân, Phạm Thị Châu (cán bộ phụ nữ) trên đường công tác sa vào tay giặc. Tra tấn, dụ dỗ mua chuộc không được, bọn lính giở trò bỉ ổi bị hai chị chống cự quyết liệt, nên chúng bắn chết một cách tàn bạo. Ở sở cao su An Lộc, chị Hiệu là cơ sở giao liên của huyện Xuân Lộc. Trong một chuyến công tác, chị bị địch phục kích bắt, phát hiện mật thư giấu trong chiếc bánh ú. Chúng dùng mọi cực hình khảo tra, bắt ba đứa con chị đem ra doạ giết để tạo áp lực nhưng chị vẫn không khai cơ sở nội tuyến của ta. Trước phút bị địch bắn, chị nhắn lại với quần chúng và các con “Đừng bao giờ quên mối thù nầy“. Tinh thần bất khuất, chấp nhận hy sinh để bảo vệ cách mạng của chị đã động viên, công nhân An Lộc thêm nghị lực đấu tranh.

Đặc biệt trong bão lụt năm 1952, khó khăn chồng chất, những cán bộ mặt trận, đoàn thể vẫn vượt qua mặc dù gánh chịu bao mất mát, hy sinh. Trong Chiến khu Đ, chị Cao, phụ trách cơ sở sản  xuất ở Cây Dâu của Ban Chấp hành Phụ nữ tỉnh bị cọp ba móng vồ mất xác. Đồng chí Nguyệt, cán bộ phụ nữ tỉnh về công tác Long Tân, bị sóng đánh chìm làm chết đuối cả mẹ và đứa con vừa 5 tuổi. Đứng trước nạn đói do bão lụt năm 1952 gây ra, nhiều cán bộ, nhân viên Mặt trận, đoàn thể bị bệnh tật, phù thủng, cái chết đe dọa... nhưng vẫn một lòng bám trụ căn cứ, không nao núng, sa sút ý chí chiến đấu.

Hệ thống nhà tù của địch đã giam giữ hàng trăm cán bộ, chiến sĩ, người dân bởi vì họ yêu nước, tiếp tế cho cách mạng, có người thân đi kháng chiến. Thế nhưng, trong gian khổ, tù đày, nhiều cán bộ của mặt trận, các đoàn thể, cơ sở cách mạng vẫn một lòng trung kiên, hướng về cách mạng. Ở Tân Mai, bà Hai Chồn trong lúc đi quyên góp tiền, gạo ủng hộ cho cách mạng bị địch bắt đem về phòng nhì ở nhà máy cưa tra tấn gần chết. Các chị Ngô Thị Hiến, Ngô Thị Rớt ở Biên Hoà vận chuyển thuốc, dụng cụ y tế bị giặc bắt, giam tù cho đến tháng 8/1954 mới được trao trả. Nhiều bà má, các chị vùng cao su bị địch bắt giam, đánh đập nhưng vẫn không nao núng tinh thần. Má Bối ở An Lộc là cơ sở che giấu cán bộ hoạt động bị bọn điệp ngầm phát hiện. Biết bọn lính sắp ruồng bố, má bình tĩnh báo tin cho cán bộ lánh đi, tự tay giấu tài liệu và mang súng vào người giả bệnh để đánh lừa bọn địch. Chúng giải má về đồn, trên đường đi má giả vờ vấp ngã để nhanh tay giấu khẩu súng trong người xuống bụi cây ven đường. Địch tra khảo nhưng không có chứng cứ phải thả má về. Khi bị địch bắt giam, nhiều đồng chí tiếp tục đấu tranh đến khi được tự do hoạt động tiếp tục, một lòng tin tưởng vào kháng chiến. 

Trong lao tù khắc nghiệt ấy những tấm gương như đồng chí Nguyễn Sanh Thành, Đinh Quang Dữa, Cao Bích Hồng, Huỳnh Thị Bông, Nguyễn Thị Điều (Năm Bình Minh), chị Hai Sâm, chị Chín Thanh… cùng hàng trăm cơ sở cách mạng vẫn một lòng kiên trung với cách mạng. Má Võ Thị Diệm ở Long Thành bị giặc bắt, đánh đập và dụ dỗ mua chuộc vì chúng biết con má đi kháng chiến, nhưng má không khai báo. Lợi dụng địch cho ra ngoài lao động, má đã vượt ngục về căn cứ tiếp tục hoạt động cách mạng. Tại nhà tù Thủ Đức hàng chục chị em như: chi Phan Thị Chi, Tư Chiến... đoàn kết giúp đỡ nhau, cùng đấu tranh chống áp bức, biến nhà tù thực dân thành trường học cách mạng. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, thật khó có thể ghi lại hết những tấm gương hy sinh của cán bộ mặt trận, đoàn thể nói riêng, của quân dân Biên Hoà nói chung. Chính những hy sinh anh dũng của họ đã trở thành những động lực thôi thúc nhiều người hiên ngang kiên cường đứng trong hàng ngũ của khối đại đoàn kết dân tộc để tham gia kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng.

***

 Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi là một chặng đường đầy khó khăn gian khổ của toàn dân ta nói chung và của quân dân Biên Hoà, Thủ Biên nói riêng, trong đó có sự đóng góp vô cùng to lớn của lực lượng cán bộ Mặt trận, các đoàn thể.

Ngay từ buổi đầu giành độc lập dân tộc, Mặt trận tỉnh Biên Hòa và các đoàn thể là chỗ dựa cho chính quyền cách mạng, vận động khối đoàn kết toàn dân tham gia xây dựng cuộc sống mới. Thông qua Mặt trận, các đoàn thể đã tuyên truyền vận động quần chúng tự nguyện và hăng hái tham gia các phong trào sản xuất, cứu đói, tiết kiệm, bình dân học vụ, xây dựng cuộc sống mới…nhằm phát huy tinh thần yêu nước, vượt qua những khó khăn ban đầu của chính quyền cách mạng. Đó là những hoạt động thiết thực vừa ổn định đời sống người dân đồng thời khẳng định tính ưu việt của tổ chức Mặt trận Việt Minh khi chính quyền về tay nhân dân.

Trước nạn ngoại xâm, Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hoà và các đoàn thể được củng cố, vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ quê hương, đương đầu với quân Pháp xâm lược. Bất kể đàn ông hay đàn bà, không phân biệt tuổi tác đều theo tiếng gọi của “sơn hà nguy biến”, đứng lên cầm vũ khí đánh giặc. Ở Biên Hoà, những đoàn thể cứu quốc từ Thanh niên, Phụ nữ, Công nhân, Nông dân, Phật giáo, Công giáo… đều đoàn kết một lòng dưới sự hiệu triệu của Việt Minh, tiêu thổ kháng chiến, bất chấp khó khăn, gian khổ, hướng về cách mạng.

Trong suốt cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hoà, sau này là tỉnh Thủ Biên và các đoàn thể đều dốc sức, dốc lòng vận động, xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Cán bộ Mặt trận, đoàn thể không nại hà hiểm nguy, xung phong và có mặt từ vùng căn cứ, du kích đến vùng địch tạm chiếm, chiến đấu trên mặt trận tuyên truyền đến sản xuất và vũ trang chống kẻ thù. Công tác mặt trận, công tác vận động quần chún là cơ sở huy động được nhân vật lực cho công cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ cho đến thắng lợi cuối cùng.

Quá trình lãnh đạo kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng ta ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mặt trận đoàn kết toàn dân, trong đó Mặt trận Việt Minh giữ vai trò chủ chốt. Sức mạnh của khối đại đoàn kết trong mặt trận đã “…trở thành một trong những trụ cột của nhà nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng chiến, kiến quốc; là cơ sở quần chúng rộng rãi làm thành một áo giáp vững bền của Đảng để đánh thắng bọn xâm lược và tay sai của chúng”, góp phần làm nên thắng lợi chung của dân tộc: “Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”  của một dân tộc anh hùng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG V

VẬN DỤNG NHỮNG HÌNH THỨC PHÙ HỢP

ĐỂ ĐOÀN KẾT NHÂN DÂN ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ

(1954-1960)

Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình trên toàn cõi Đông Dương được ký kết (trừ đại diện chính phủ Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm không ký).

Thắng lợi này chưa phải là hoàn toàn. Ngày 22/7, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi sau khi hội nghị Genève thành công: “Từ nay chúng ta phải ra sức đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc … Đồng bào miền Nam kháng chiến trước hết, giác ngộ rất cao. Tôi chắc rằng đồng bào sẽ đặt lợi ích cả nước lên trên lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài trên lợi ích trước mắt mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc …”.

Với âm mưu xâm lược miền Nam, đế quốc Mỹ đã xé bỏ Hiệp định, dựng Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng, xây dựng bộ máy đàn áp, quân đội bù nhìn, gạt bỏ những tay sai thân Pháp; đồng thời tiến hành khủng bố phong trào cách mạng miền Nam. Chúng tiến hành dụ dỗ, cưỡng ép gần một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam nhằm xây dựng hậu thuẫn chính trị cho chính quyền tay sai ở miền Nam. Mỹ-Diệm bố trí 130.388 đồng bào định cư dọc các quốc lộ 1, 15, 20 và cắm sâu vào các vùng căn cứ cũ của ta ở chiến khu Đ, Vĩnh Cửu, ven Rừng Sác[23]

Cuối năm 1954, địch mở nhiều cuộc hành quân cảnh sát lùng sục một số khu vực nội ô và các ấp ven. Chúng tăng thêm gián điệp, mật vụ, chỉ điểm ngầm để rình rập, bắt bớ cán bộ đảng viên và cơ sở yêu nước kháng chiến cũ. Một số cán bộ ta sa vào tay địch ngay sau khi hiệp định đình chỉ chiến sự ở Đông Dương có hiệu lực. Vẩn mây đen u ám của đàn áp, bắt bớ, tù đày, giết chóc xuất hiện trên bầu trời phương Nam đất nước.

I. TẬP HỢP LỰC LƯỢNG, TỔ CHỨC ĐOÀN KẾT RỘNG RÃI MỌI TẦNG LỚP NHÂN DÂN BẰNG CÁC HÌNH THỨC PHÙ HỢP ĐỂ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ

Đầu tháng 9/1954, để lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh trong tình hình mới, Bộ Chính trị quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam, lập lại Xứ uỷ Nam bộ. Hội nghị Xứ uỷ nhấn mạnh: “…phải động viên toàn thể nhân dân đấu tranh bắt buộc đối phương phải thực hiện đúng đắn Hiệp định đình chiến, thực hiện quyền tự do dân chủ, cải tạo dân chủ bộ máy chính quyền của đối phương … phải nắm vững nguyên tắc bí mật, công khai và bán công khai. Cơ sở bí mật là cơ sở căn bản của Đảng để hoạt động mở rộng phong trào … phải khôn khéo công tác, không chủ quan khinh địch, tránh khiêu khích, đề phòng mật thám, luôn luôn phải biết giữ gìn lực lượng, củng cố xây dựng lực lượng …”.

Xứ uỷ Nam bộ lập ba Liên tỉnh uỷ (thay hai phân liên khu). Tỉnh Biên Hoà gồm các huyện: Tân Uyên, Châu Thành, Vĩnh Cửu, Long Thành, Dĩ An, Xuân Lộc, Bà Rá. Tỉnh uỷ Biên Hoà do Liên tỉnh uỷ chỉ định: Bí thư là đồng chí Phạm Văn Thuận phụ trách chung kiêm binh vận, đồng chí Phó bí thư phụ trách tuyên huấn, trưởng ban giao liên căn cứ, một Tỉnh uỷ viên phụ trách công tác thanh vận … Các cấp uỷ Đảng hoạt động theo phương châm, nguyên tắc bí mật.

Nhân dân tỉnh Biên Hoà cũng như nhân dân toàn miền Nam hồ hởi phấn khởi chào đón những ngày đầu tiên ngừng bắn. 8 giờ sáng 11/8, đông đảo nhân dân xã Phước An (quận Long Thành) và xã Hiệp Hoà (quận Châu Thành) là những địa phương đầu tiên trong toàn tỉnh tổ chức mít tinh mừng thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Sau đó nhiều nơi cũng mít tinh mừng Hiệp định Genève, biểu thị ý chí đấu tranh cho hoà bình thống nhất đất nước. Theo chỉ đạo chung, ta không làm rầm rộ, tránh rơi vào âm mưu khiêu khích của địch để chúng tạo cớ khủng bố đồng bào.

Trong tình hình mới, ngày 5/9/1954, Bộ Chính trị chỉ đạo miền Nam:

“- Thi hành triệt để Hiệp định đình chiến, đấu tranh đòi Pháp thi hành đúng Hiệp định.

- Chuyển hướng công tác cho thích hợp với điều kiện hoà bình.

- Đoàn kết rộng rãi, tập hợp mọi lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình, đấu tranh để đánh đổ chính phủ Ngô Đình Diệm thân Mỹ …   

 Phương châm công tác:

- Kết hợp công tác hợp pháp và không hợp pháp. Lợi dụng khả năng hợp pháp mà tuyên truyền cổ động, tổ chức giáo dục, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

 - Đẩy mạnh công tác thành thị, giữ vững và phát triển cơ sở nông thôn, đặc biệt là cơ sở vùng căn cứ du kích và du kích cũ….”

Về Mặt trận dân tộc thống nhất Bộ Chính trị chỉ thị Nam bộ: bỏ tên Liên Việt, lấy tên là Mặt trận dân tộc thống nhất hoặc Mặt trận thống nhất. Ở Biên Hoà (cũng như toàn miền Nam), sau khi việc chuyển quân tập kết hoàn thành, ta không còn bộ đội, chính quyền, các đoàn thể quần chúng - kể cả tổ chức Mặt trận. Tuy nhiên, tất cả cán bộ, đảng viên được bố trí ở lại đều quán triệt phương châm, nguyên tắc hoạt động theo “năm bước công tác”, sống hoà trong dân đều được nhân dân khắp nơi nuôi giấu, chở che vì bà con hiểu đây là những người dám hi sinh, hết lòng vì một đất nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Các chi bộ xã: Tam Hiệp, Tân Phong, Phước An, Tam Phước, Tam An, Long Điền, Long Tân … đứng ra vận động nhân dân - trước đây vào vùng địch tạm chiếm lánh bom đạn giặc - nay bung về quê cũ làm ăn. Mấy năm ruộng vườn nằm trong vành đai trắng bỏ hoang, cỏ và cây bụi rậm rì dần dần được dọn dẹp phong quang. Nhà cháy, đổ cất lại, mới đầu chỉ là nhà mái lá chằm nhỏ nhắn. Ở vùng sông nước Phước An - và một số ấp xã khác - sáng sáng ghe xuồng túa ra giăng câu, bủa lưới, đóng đáy, chiều chiều nhộn nhịp về bến với tôm cá lấp lánh trong khoang. Trên rừng, người nườm nượp đi kiếm củi, chặt cây, làm than. Xóm làng hồi sinh rộn rã từng ngày. Quan tâm lo cho đời sống nhân dân như vậy, uy tín cán bộ đảng viên càng cao, bà con sẵn sàng chở che, giúp đỡ anh em khi cần thiết.

Chính quyền Diệm một mặt gạt bỏ những phe phái và cá nhân không ăn cánh, mặt khác ráo riết xây dựng lực lượng hậu thuẫn chinh trị. Đồng thời để mị dân, chính quyền Diệm thực hiện “cải cách điền địa” lừa bịp bằng ba đạo dụ: Dụ số 2[24], Dụ số 7 [25], Dụ số 57 [26]

Thực chất dụ số 2 và dụ số 7 cho phép chủ đất đoạt lại ruộng đất mà chính quyền cách mạng đã chia cho nông dân, buộc họ trở lại kẻ làm mướn với mức tô tăng lên. Thực chất dụ số 57 duy trì đại bộ phận giai cấp địa chủ. Các đồn điền cây công nghiệp không nằm trong diện bị truất hữu.

Để bảo vệ quyền lợi sống còn do cách mạng đem lại hồi kháng chiến chống Pháp, các cấp uỷ Đảng, cán bộ đảng viên vận động nông dân nhiều nơi ở Biên Hoà đấu tranh quyết liệt với địa chủ, với chính quyền địa phương. Bà con không chịu nộp mức tô 25%, không để bị cướp lại ruộng đất được cấp hồi kháng chiến chín năm. Uy thế của cách mạng còn rất lớn nên các cuộc đấu tranh nói chung thu thắng lợi nhất định, chủ điền không dám làm quá. Điền chủ Trịnh Thị Dung có khoảng 300 ha ở cù lao Ông Còn đã chia thành nhiều phần, bán để tránh bị chính quyền truất hữu, khỏi mang tiếng thu tô nặng.

I.1. Đảng chỉ đạo công tác binh-thanh vận và dân vận

Nhận thức rõ vai trò rường cột của thanh niên miền Nam trong Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn đấu tranh giải phóng miền Nam, Xứ uỷ chỉ đạo xây dựng thanh niên gắn với công tác binh vận nhằm giáo dục xây dựng cơ sở nội tuyến trong lòng địch tạo thuận lợi cho hoạt động [27]

Đối với gia đình binh sĩ, tuỳ mỗi cấp, Đảng bộ cử cấp uỷ xuống nghiên cứu và chỉ đạo cụ thể để vận động theo từng bước[28].

Không chịu khoanh tay ngồi yên để địch đánh phá cách mạng, ta tổ chức đưa nội tuyến vào các cơ quan, đơn vị vũ trang địch từ cơ sở ấp, xã trở lên với phương châm “xanh vỏ đỏ lòng”. Đó là một chủ trương lớn xuyên suốt của Đảng trong cuộc đấu tranh sinh tử lâu dài với kẻ thù. Ở bất kỳ ấp nào, xã nào trong tỉnh Biên Hoà vào thời kỳ Diệm mới chấp chính, chi bộ địa phương đều nắm được bộ máy hương chức hội tề, cài người giữ các vị trí then chốt. Đảng viên, đoàn viên, nòng cốt ta chiếm tỉ lệ không nhỏ trong tổ chức tự vệ hương thôn các làng. Ở xã Phước An (quận Long Thành), ông xã trưởng Vĩ là đảng viên mật - được kết nạp hồi kháng chiến chống Pháp. Xã trưởng Tam An cũng là một đồng chí đảng viên. Chủ tịch hội đồng hương chức xã Tam Hiệp (quận Châu Thành) là thầy giáo Thể - một nhân sĩ được Huyện uỷ Vĩnh Cửu vận động ra làm; chủ tịch và phó chủ tịch phong trào cách mạng quốc gia xã này là hai cán bộ chín năm: ông Mười Hậu (đảng viên, nguyên phó chủ tịch UBKCHC xã Tam Hiệp), ông Năm Sang (đảng viên, nguyên xã đội phó xã Tam Hiệp). Chi bộ xã Hiệp Hoà (quận Châu Thành) nắm chặt chủ tịch hội đồng xã Năm Thảnh (một thời gian ngắn sau đó ông Ba Bảo lên thay là cảm tình của cách mạng), xã trưởng Năm Tự, cảnh sát Ba Lon … Ấp Bình Đa có anh Hai Hoà (Huỳnh Văn Hoà) được đưa vào lính ở đồn Rạch Cát. Anh Phạm Văn Nghiệp (Đực) ở xã Bình Hoà (quận Châu Thành) được đưa vào làm nội tuyến ở tiểu đoàn 1/39/13 khinh chiến đóng tại Tây Ninh … Huyện Long Thành đưa thầy Nguyễn Háo Văn ra ứng cử nghị sĩ quốc hội Sài Gòn, thầy Phạm Văn Hinh làm dân biểu hội đồng tỉnh Biên Hoà. Bà Huỳnh Ngọc Nữ cũng được Tỉnh uỷ vận động ra làm nghị sĩ quốc hội của Diệm.  Anh Ba Cheo - cán bộ xã Tân Phong - một lần gánh củi giúp một bà ở Bình Ý, được bà này có cảm tình; từ đó anh có điều kiện xây dựng một số nòng cốt mật đưa vào tổ chức dân vệ xã Bình Ý … Nhờ các nội tuyến có mặt khắp nơi mà các chi bộ, Huyện uỷ, Tỉnh uỷ nắm ngay được chủ trương, ý đồ hành động của các cấp chính quyền Diệm kịp thời đối phó hiệu quả, làm các giấy tờ cần thiết cho cán bộ ta đi lại dễ dàng... Nội tuyến trong binh sĩ đã lấy nhiều lần tổng cộng hàng ngàn viên đạn cho cán bộ ta.

Để tập hợp đông đảo nhân dân, Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp Đảng bộ xây dựng cơ sở theo nguyên tắc “xâu chuổi”: Mỗi đảng viên xây dựng lãnh đạo từ 3 đến 5 cốt cán, mỗi cốt cán xây dựng từ 3 đến 5 quần chúng cảm tình (với cách mạng), không giao việc tràn lan, ngay người cùng chi bộ cũng không biết việc của nhau “việc ai nấy biết, việc gì cần thiết mới làm” trừ đồng chí Bí thư phụ trách chung … Ngoài ra, Tỉnh ủy chỉ đạo phải biết thông qua các tổ chức quần chúng hợp pháp để tập hợp, đoàn kết và lồng vào đó nội dung tuyên truyền có lợi cho cách mạng, như các hội cúng đình, hội miễu, hội nhà vàng, hội đá bóng, vạn cày vạn cấy đổi công ở nông thôn.

Xã Phước Thái lập “hội khai sơn” của người làm be làm than. Cán bộ và cơ sở ấp Bà Bông xã Phước An lập hội đèn tạo điều kiện cho mọi gia đình giúp nhau mua đèn măngsông thắp sáng ban đêm nhưng quan trọng nhất là đoàn kết nhân dân lại để có dịp khéo léo tuyên truyền cách mạng … Tỉnh lỵ Biên Hoà và xã Bửu Hoà tổ chức hội Truyền bá quốc ngữ, khéo léo thông qua việc dạy chữ mà tuyên truyền học viên và quần chúng đoàn kết đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Genève. Thầy giáo Năm Y vận động nòng cốt lập hội phụ huynh học sinh xã Phước An yêu sách chính quyền mở trường với sáu lớp ở các ấp Chợ, Bà Bông, Vũng Gấm cho con em trong xã được đi học, buộc ban hội tề phải chấp thuận. Ban đêm, các em vui chơi hát những bài kháng chiến cũ, múa những điệu vũ ca ngợi hoà bình, ca ngợi sản xuất lành mạnh. Khi bộ Giáo dục Sài Gòn huỷ bỏ sách giáo khoa cũ, thay bằng sách giáo khoa kiểu Mỹ, thầy trò Phước An vẫn học sách cũ, dằng co hàng năm mà địch không làm gì được …

Ở tỉnh lỵ Biên Hoà và các đồn điền cao su, các xí nghiệp, Tỉnh uỷ chỉ đạo đưa cán bộ, đảng viên, cốt cán vào để nắm các nghiệp đoàn, hoặc thành lập các nghiệp đoàn mới để tập hợp công nhân. Dưới sự chỉ đạo của Thị uỷ Biên Hoà, các ông Hai Trang (Nguyễn Văn Trang), Ba Hạt, Tư Sóc, Năm Mỹ … lập nghiệp đoàn máy cưa Tân Mai BIF với huy hiệu Đầu trâu thuộc hệ Tổng liên đoàn lao công song song với tổ chức công đoàn mật (lập từ những năm 1946-1947). Anh Đinh Quang Dữa (Ba Dữa), thông qua anh Vương Trọng Mộc hoạt động theo hệ Tổng liên đoàn lao động Việt Nam của Lê Đình Cư - nắm bốn nghiệp đoàn: xích lô, lò gạch hộ Tri, tài xế hãng xe đò Liên hiệp, tạp phẩm.

Ở các đồn điền An Lộc, Bình Lộc, Hàng Gòn, Cẩm Mỹ, Túc Trưng … đều có cán bộ Đảng các cấp được cài vào tổ chức nghiệp đoàn công khai của công nhân cao su. Nội dung hoạt động của nghiệp đoàn là tuyên truyền giáo dục quần chúng trong các dịp lễ hoặc sinh hoạt về nhiệm vụ đấu tranh đòi Mỹ-Diệm thi hành Hiệp định Genève: không khủng bố trả thù người kháng chiến cũ, hai miền hiệp thương tiến tới tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước vào tháng 7/1956.

I.2. Công nhân cao su đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ

Công nhân, đặc biệt là công nhân cao su ở Biên Hoà vốn có truyền thống đấu tranh cách mạng. Hơn nữa sau khi chuyển quân tập kết, nhiều cán bộ, đảng viên được bố trí hoạt động trong các đồn điền, do đó, phong trào đấu tranh của công nhân cao su phát triển mạnh với mục tiêu là dân sinh dân chủ.

Tháng 9/1954, để kỷ niệm lần thứ 10 Cách mạng tháng Tám thành công và ngày Quốc khánh 2/9, các đảng viên và cơ sở ở Xuân Lộc đã vận động công nhân các sở cao su bãi công, làm đơn đòi tăng lương từ 13 đồng lên 16 đồng, ngày làm 8 giờ. Bọn giám đốc Pháp ở các đồn điền chấp nhận giải quyết yêu sách ngay, đây là cuộc đấu tranh dân sinh qui mô đầu tiên thắng lợi ngay sau ngày đình chiến.

Tháng 11/1954, các đồng chí Chín Kiểu (Trần Văn Kiểu), Năm Vân (trong Ban Công vận xứ uỷ Nam bộ) kết hợp với các đồng chí Phạm Văn Hy (Tư Hy), Năm Chiêu, Nguyễn Nại Sơn (Năm Sơn của ban cán sự Đảng huyện Xuân Lộc) thống nhất tổ chức một cuộc đấu tranh qui mô lớn hơn. Ta vận động hơn 2000 công nhân sở An Lộc kéo về sân banh của sở đưa yêu sách: tăng lương từ 16 đồng lên 24 đồng, nghỉ làm chủ nhật, giảm phần cây cạo, tự do lập nghiệp đoàn, đòi chính quyền Diệm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Genève. Sau năm ngày đình công, giám đốc Đờ-vi-ê, quận trưởng Trần Văn Sên và thanh tra lao động Sài Gòn buộc phải đồng ý giải quyết: tăng lương, giảm 25% xuất cây cạo, đi làm chủ nhật thì hưởng gấp đôi (chứ không cho nghỉ), tự do lập nghiệp đoàn. Ngày 2/2/1955, hơn 400 công nhân làng J thuộc sở cao su An Lộc kiến nghị đuổi tên xu ác ôn hay đánh đập và ăn chặn gạo của anh em. Chủ sở không giải quyết, anh em lũ lượt kéo lên dinh quận trưởng Xuân Lộc, kết quả 3 ngày sau tên xu phải bỏ trốn.

Ngày 5/3/1955, hơn 500 công nhân sở Xuyzana (Dầu Giây) phản đối chủ sở sụt lương 73 anh em từ 27 đồng 50 xu xuống 20 đồng 50 xu. Giám đốc sở ngoan cố, công nhân phân sở A nhất loạt đình công và kiến nghị quận trưởng can thiệp. Công nhân các phân sở khác hưởng ứng bằng cách ủng hộ tiền, gạo. Sau 16 ngày đấu tranh gay go, viên giám đốc chấp nhận trả lương cũ cho 73 công nhân. Cùng thời gian này, công nhân sở cao su Túc Trưng đấu tranh với giám đốc Giordani cũng đòi tăng lương, giảm phần cạo đạt kết quả tốt. Thời gian sau, công nhân sở này tiếp tục đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ hoà với phong trào chung của miền Đông đòi: nâng lương, cấp gạo tốt, sửa nhà ở, ngày làm 8 tiếng, không đánh đập cúp phạt anh em, đòi chính quyền Sài Gòn không bắt bớ trả thù người kháng chiến cũ, đòi bỏ lệ trình diện hàng ngày, đòi hiệp thương tổng tuyển cử khá sôi nổi ...

 I.3. Những cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên

 Tháng 8/1954, bọn Cao Đài phản động ở Tân Vạn (quận Châu Thành) buộc bà con viết khẩu hiệu xuyên tạc và phản đối Hiệp định Genève, chi bộ xã tổ chức nòng cốt kịp thời vận động nhân dân giáng trả bằng cách kẻ biểu ngữ hoan nghênh thắng lợi của dân tộc ta. Đồng chí Lê Văn Ngày bị lính Cao Đài bắt giải về trụ sở Khâm châu đạo, nhiều đồng bào và tín đồ của đạo tập trung đấu tranh lý lẽ buộc chúng phải thả anh. Điều này chứng tỏ: quần chúng bao giờ cũng đứng về phía chính nghĩa.

Chiều 30 Tết Giáp Ngọ (23/1/1955), chi bộ xã Hiệp Hoà - được sự chấp thuận của Huyện uỷ Vĩnh Cửu - vận động tổ chức rước cộ đèn[29] mừng chiến tranh chấm dứt, hai năm sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước, mặt khác biểu dương sức mạnh đoàn kết của nhân dân Cù lao Phố. Hàng ngàn người tham dự, trong đó có cả chủ tịch hội đồng xã, xã trưởng, uỷ viên cảnh sát và ông tổng Thi - một nhân sĩ trong Phong trào bảo vệ hoà bình của luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Sáng mùng 3 Tết (26/1/1955), xã Tân Hạnh (Tân Uyên, nay thuộc thành phố Biên Hoà) có cuộc mít tinh mừng hoà bình và thắng lợi của hiệp định đình chiến, truyền đơn được tán phát xóm ấp. Một kiến nghị gửi Ủy ban quốc tế yêu cầu nhà cầm quyền miền Nam không khủng bố người kháng chiến cũ, thi hành đúng đắn Hiệp định Genève tiến tới hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình.

Trong dịp Tết hoà bình 1955, nghiệp đoàn nhà máy cưa Tân Mai vận động anh chị em công nhân đi thăm chúc Tết nhau. Qua câu chuyện ngày xuân, các nòng cốt khéo léo lồng vào khơi gợi vấn đề đòi nhà cầm quyền thi hành đúng hiệp định, phải hiệp thương với chính phủ Việt Nam  Dân chủ Cộng hoà. Gần đến ngày Quốc tế lao động 1/5, nghiệp đoàn nhà máy vận động thợ làm đơn gửi giám đốc hãng, yêu cầu trả lương ít nhất cũng nuôi đủ một vợ ba con, ngày làm 8 tiếng, nếu làm chủ nhật, ngày lễ thì tiền phụ trội gấp đôi. Ban quản trị thấy nhân nhượng những yêu sách này không ảnh hưởng đến lợi nhuận mà là dịp tốt để họ tỏ ra tử tế nên chấp thuận ngay. Một thời gian sau, nghiệp đoàn yêu cầu giám đốc cho xây dựng trường để con em thợ có chỗ học, họ cũng đồng ý (nay là trường phổ thông cơ sở Thống nhất B).

Tháng 2/1955, cùng với nhân dân đô thị và nông thôn miền Đông, tại xã Phước An nổ ra cuộc đình công bãi chợ đòi chính quyền Diệm phải hiệp thương với miền Bắc, thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử tự do. Các cơ sở và nòng cốt vận động từng nhà, từng người không ai đi chợ, không ghe xuồng nào ra sông đánh cá, làm củi. Trụ sở xã vắng hoe, xe đò cũng ngưng chở khách. Nhiều địa phương khác cũng đình công tương tự.

Sáng ngày 1/5/1955, nghiệp đoàn nhà máy tổ chức một đoàn biểu tình khoảng sáu trăm người gồm thợ và nhân dân các ấp Tân Mai, Lân Thành kéo về sân banh Biên Hoà, dự mít tinh do Tổng liên đoàn lao công tổ chức. Đoàn biểu tình mang nhiều băng khẩu hiệu đòi các quyền dân sinh dân chủ cho người lao động, đòi nhà cầm quyền phải hiệp thương tổng tuyển cử … Tới ngã ba Vườn Mít, cảnh sát chặn lại. Ông Hai Trang giải thích: cuộc biểu tình này là của Trần Quốc Bửu thuộc phe Ngô tổng thống đã được tòa hành chánh tỉnh cho phép. Chúng phải để đoàn biểu tình tiến vào nội ô với khí thế mạnh mẽ, hăng hái.

Sau ngày hòa bình, hầu như tất cả cán bộ đảng viên các cấp đều chấp hành chỉ thị không ở lại căn cứ địa rừng núi mà về sống với nhân dân ở các cơ sở giữa tỉnh lỵ Biên Hoà và các xã ven Tam Hiệp, Hiệp Hoà, Bửu Hoà, Bửu Long, Bình Hoà, Bình Ý, Tân Triều … cùng các khu dân cư khác. Đồng chí Hoàng Tam Kỳ được bà giáo Mỹ - vợ ông quận Quờn (Đỗ Hữu Quờn) - nuôi giấu một thời gian ngay trong nhà ở xóm Phước Lư (cạnh đình Phước Lư phường Quyết Thắng bây giờ). Ông quận đã cấp giấy tờ, đồng chí cần đi đâu có xe hơi đưa rước an toàn. Đồng chí Năm Nhiễu (Lê Văn Nhiễu) sống tại xóm thợ Máy cưa ấp Lân Thành, đổi chỗ liên tục. Xóm Bình Kính xã Hiệp Hoà trở thành lõm chính trị, tại đây hàng chục cán bộ đảng viên của tỉnh và huyện bám trụ và tới lui hoạt động, được bà con hết lòng che chở. Cấp trên chỉ đạo bám đô thị, thị trấn vì đó là nơi nhạy cảm, dân cư tập trung đông, nếu phong trào cách mạng phát triển mạnh sẽ phát huy tác dụng rộng rãi nhanh chóng ra toàn tỉnh.

Địch cho gián điệp, chỉ điểm len lỏi khắp nơi nhằm phát hiện, truy bắt những cán bộ đảng viên ở lại. Đồng chí Nguyễn Văn Hoa (Năm Hoa) bị địch bắt hụt ở ấp Lân Thành. Do chỉ điểm của một tên đầu hàng, các đồng chí Chín Du (Huỳnh Văn Tống) và Hai Thành (Dương Văn Bồi) bị công an địch bắt giam thời gian ngắn. Ngay trong năm 1954-1955, nhiều đồng chí khác và cơ sở kháng chiến cũ đã bị bắt rải rác ở khắp nơi trong tỉnh do bọn đầu hàng phản bội: đồng chí Ba Tạo (Tống Kim Quang) bị bắt ở Xuân Lộc, đồng chí Bảy Lan (Võ Ngọc Lan, Võ Văn Khọn) bị bắt ở Cù Lao Phố, đồng chí Hai Thông bị bắt ở Long Thành …

 Để có thể tồn tại mà hoạt động, một số đồng chí đã tiến hành làm trong sạch địa bàn. Nhiều tên ác ôn, chỉ điểm đã bị cách mạng diệt, trừng trị, cảnh cáo[30].

Gần đến ngày 20/7/1955, nhiều hoạt động đòi nhà cầm quyền miền Nam phải thi hành Hiệp định Genève (7/1954) diễn ra sôi nổi khắp nơi trong toàn tỉnh. Cán bộ và cơ sở xã Hiệp Hòa rải truyền đơn ở nhiều nơi trong xã mấy đêm liền. Trên khúc sông Đồng Nai chảy ngang xã, nhiều bè chuối chăng khẩu hiệu đòi Diệm hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Anh em cơ sở tính toán thả bè theo con nước, sao cho sáng ra bè trôi ngang chợ Biên Hoà hay sáng kiến neo bè ở đá hàn giữa sông thu hút sự chú ý của mọi người. Hàng trăm chị em ký tên kiến nghị Uỷ ban quốc tế và hội đồng xã đòi tự do thư tín giữa hai miền Nam, Bắc. Nhiều bưu thiếp đã gửi ra Bắc cho thân nhân và ngược lại cánh thiếp về Nam gieo niềm tin tưởng sâu sắc cho những người sống dưới chế độ Mỹ - Diệm.

Ở chùa Long Thiền (Bửu Hoà), Tân Hạnh cũng như nhiều nơi khác Lời hiệu triệu của Liên Việt Nam bộ được tán phát rộng rãi, kêu gọi các tầng lớp nhân dân bãi thị, bãi công, chống địch phá hoại Hiệp định, đòi chính quyền Sài Gòn thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước[31].

Nhiều người đọc truyền đơn cảm thấy cán bộ vẫn luôn luôn ở cạnh dân nên niềm tin vào cách mạng không hề giảm sút

I.4. Tiến hành vận động lực lượng vũ trang Bình Xuyên và Cao Đài về với cách mạng

Không mua chuộc được Bảy Viễn, chính quyền Diệm đưa quân đội quyết diệt lực lượng Bình Xuyên. Cuộc tranh giành quyền lực giữa Diệm và Bảy Viễn gây nhiều đau thương tang tóc cho nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn. Tháng 6/1955, lực lượng Bình Xuyên do Bảy Viễn cầm đầu  rút ra Rừng Sác.

Nắm được mâu thuẫn Viễn - Diệm, Xứ uỷ Nam bộ cử đồng chí Ba Thuận - bí thư Tỉnh uỷ Biên Hoà - và đồng chí Bảy Tâm (Nguyễn Duy Đán) - cán bộ binh vận Xứ uỷ – cùng đồng chí Vũ Khánh - bí thư Huyện uỷ Long Thành - về Rừng Sác thuyết phục số tàn quân về với nhân dân chống Diệm. Ông Mười Chiêm có người cháu gái là vợ Bảy Môn (Võ Văn Môn), là cầu nối giữa Bảy Môn với cán bộ ta, qua người cháu gái góp phần tác động viên trung tá đi theo cách mạng. Khoảng chừng một tháng sau, Bảy Môn nghe theo ý kiến chi bộ xã, đem lực lượng vây ép, bức hàng bắt gọn trung đội lính commăngđô bót Phước Thọ không tốn một viên đạn. Tiểu đoàn 3 Bình Xuyên do trung tá Bảy Môn quay súng theo cách mạng, ta cử thêm đảng viên, đoàn viên vào, đưa về chiến khu Đ lập nên lực lượng vũ trang lấy danh nghiã bộ đội giáo phái chống Diệm.

Sau quá trình binh vận hai năm[32], tối 23/9/1955, Châu Văn Phú phó đồn Phước Khánh đã diệt đội Lạc, tên đồn trưởng ác ôn, đốt đồn, đưa toàn bộ lính Cao Đài và vũ khí về với nhân dân Long Thành. Huyện uỷ bổ sung khoảng một chục đoàn viên và nòng cốt tham gia, từ đó đơn vị mang tên lính giáo phái Bình Xuyên chống Diệm trực thuộc Huyện uỷ. Gần một tháng sau, ngày 11/10 đơn vị của Phú đánh mìn, diệt viên quan ba Lê Thành Kham và ký Hải ác ôn ở khu vực dốc Lớn.

Công tác binh vận một bộ phận binh lính sĩ quan lực lượng Bình Xuyên, Cao Đài về với cách mạng là một thắng lợi lớn của Đảng bộ Biên Hoà, thông qua đó, góp phần vạch trần bộ mặt tay sai bù nhìn của ngụy quyền miền Nam.

I.5. Nhân dân Biên Hoà chống phá trưng cầu dân ý (tháng 10/1955) và bầu cử quốc hội Sài Gòn (4/3/1956)

 Theo lệnh Mỹ, Ngô Đình Diệm bày trò trưng cầu dân ý phế truất Bảo Đại, hô hào đả thực, bài phong, chống cộng để lên làm tổng thống. Các khẩu hiệu Đả đảo Bảo Đại, Bảo Đại hại dân nhan nhản khắp nơi. Bộ máy thông tin tuyên truyền của chế độ Sài Gòn ra sức tô vẽ cho Ngô Đình Diệm. Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cấp uỷ lãnh đạo nhân dân chống phá trò hề này, vạch trần âm mưu Mỹ – Diệm lập Quốc hội bù nhìn chính là phá hoại hiệp thương, phá hoại hoà bình thống nhất.

Đêm 22/10, một dân vệ nội tuyến đặt mìn (do anh Ba Cheo đưa) phá phòng bỏ phiếu ở trường học Bình Ý. Cùng lúc, lực lượng vũ trang mật đặt súng cối ở truông Cát đầu sở cao su Tư An (xã Bình Thạnh) bắn vào sân bay Biên Hoà mấy trái, gây tiếng nổ để phá cuộc bỏ phiếu.

Sáng 23/10, đơn vị vũ trang của Châu Văn Phú bắn mấy loạt trung liên và nhiều trái cối 60 li vào gần khu vực bỏ phiếu Phước Lý (Long Thành) làm bọn lính và hội tề ở đây bỏ chạy. Đồng bào nhân cơ hội bỏ về, phải nửa ngày sau trật tự mới vãn hồi, cuộc trưng cầu dân ý vắng vẻ hẳn. Cơ sở, nhân dân xã Phước Thọ còn vận dộng được nhiều binh lính tiểu đoàn 64 gạch bỏ cả ảnh Diệm lẫn Bảo Đại, viết vào phiếu bầu 6 đồng 1 lít gạo [33]. Bọn mật vụ theo dõi cuộc trưng cầu dân ý ở điểm này vội ra lệnh cho hội tề xã đóng cửa phòng phiếu. Ở nhiều nơi, bà con xé cả ảnh Bảo Đại lẫn ảnh Diệm, bôi lem ảnh Diệm, đã tráo phiếu bằng giấy trắng, viết lên phiếu bầu các khẩu hiệu do cán bộ hướng dẫn …

Đầu tháng 12/1955, Huyện uỷ Long Thành[34] chỉ đạo chi bộ Phước Thái - Long Phước phối hợp với đội vũ trang mang danh nghĩa giáo phái do Mười Đôi chỉ huy đã chặn một đoàn 40 xe đò, xe du lịch và xe tải trên quốc lộ 15, đưa vào rừng Phước Hoà (xã Phước Thái). Cán bộ ta tuyên truyền giải thích nội dung Hiệp định Genève, tố cáo âm mưu của Mỹ - Diệm chống phá việc thi hành hiệp định, kêu gọi mọi người góp phần đấu tranh đòi nhà cầm quyền Sài Gòn phải thi hành nghiêm chỉnh hiệp định này. Một nhóm sĩ quan quân đội quốc gia có mặt trong cuộc võ trang tuyên truyền. Tin này loan truyền rộng rãi ở Sài Gòn, Biên Hoà, Bà Rịa, Vũng Tàu khiến nhiều người phấn khởi vì lực lượng cách mạng vẫn tồn tại. Song song với công tác võ trang tuyên truyền, huyện uỷ tiến hành cho diệt 4 tên thám báo trên sông Ông Kèo dưới danh nghĩa “giáo phái Bình Xuyên”.

Cũng trong tháng này, cơ sở mật ở Tân Vạn tổ chức giăng biểu ngữ, kẻ khẩu hiệu, rải truyền đơn và xé ảnh Diệm ngay tại nhà hội xã.

Thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước, Ngô Đình Diệm tiến hành tổ chức bầu cử quốc hội khóa 1 Sài Gòn. Chúng công khai hò hét: “Không ký hiệp định, không hiệp thương, lấp sông Bến Hải, Bắc tiến! Tỉnh uỷ Biên Hoà thực hiện chỉ thị của Xứ uỷ Nam bộ, đã lãnh đạo các cấp uỷ Đảng chống phá mạnh mẽ cuộc bầu cử giả hiệu này. Trước ngày 4/3/1956, băng, khẩu hiệu hô hào nhân dân tẩy chay bầu cử quốc hội Sài Gòn treo, dán các nơi đông người qua lại. Có nhóm đoàn viên Thanh lao dùng khoai từ viết khẩu hiệu chống Diệm lên mặt đường nhựa, khi khoai khô thì chữ thật rõ, địch muốn xóa phải tốn nhiều công sức. Truyền đơn “Đả đảo bầu cử bất hợp pháp, Mỹ-Diệm phải thực hiện Hiệp định Giơ ne vơ, phải thực hiện tổng tuyển cử tự do tiến tới thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình” rải khắp các xã, thị trấn và tỉnh lỵ bằng nhiều cách: rải bình thường, nhúng nước cả xấp giấy rồi đặt lên nóc chợ, nóc trụ sở xã khi nắng lên giấy khô, gió thổi sẽ tán phát rộng, có anh em táo bạo đặt xấp truyền đơn lên nóc ôtô khi xe chạy sẽ tung đầy đường...

Đêm 3/3 dân vệ nội tuyến xã Tam Hiệp được cán bộ ta giao ném 2 trái lựu đạn vào trụ sở xã để phá bầu cử. Cùng đêm, một bán đội lực lượng giáo phái của Ba Phú được cán bộ và cơ sở mật dẫn đường đến gần quận lỵ, đã bắn 12 trái đạn cối 60 li và nhiều loạt trung liên vào chi khu Long Thành. Chi bộ Phú Hữu dẫn đường một bán đội khác của Ba Phú bắn vào khu vực cách phòng bỏ phiếu ở Cát Lái khoảng 100 mét.

Chi bộ Phước An cho đặt trái cối 60 li dưới một đống củi cách phòng bỏ phiếu không xa, đến hừng sáng thì đốt củi; lửa cháy làm trái đạn nổ tạo điều kiện cho một số bà con có cớ không đi bầu.

 Tại xã Hiệp Hòa, chi đoàn Thanh lao làm mộc giả xác nhận đã bỏ phiếu cho nhiều người không đi bầu. Nói chung, cuộc bầu cử quốc hội Sài Gòn diễn ra trong không khí tẻ nhạt, lo sợ, tỷ lệ cử tri thấp dù lính và cảnh sát được huy động tối đa lùa dân ra phòng bỏ phiếu. Ở một số xã, nhân dịp này nội tuyến ta làm giấy tờ hợp pháp cho cán bộ đi lại hoạt động dễ dàng.

II. NHÂN DÂN BIÊN HÒA ĐẤU TRANH CHỐNG KHỦNG BỐ, ĐÀN ÁP

Ngày 30/6/1956, Ngô Đình Diệm ra nghị định 203/QP mở chiến dịch Trương Tấn Bửu [35]. Mục tiêu chiến dịch:

- Tiêu diệt lực lượng cách mạng bám trụ và các lực lượng chống đối khác không ăn cánh nhưng diệt trừ Đảng Cộng sản là chủ yếu.

- Thay thế các hội đồng hương chánh bị tê liệt vì sự trà trộn và uy hiếp của Việt cộng phiến loạn bằng các ủy ban hành chánh gồm người có tín nhiệm của chánh quyền. (Người được cử vào ủy ban phải có điều kiện: sanh trú quán tại làng, có thành tích chống Cộng và phiến loạn, trung thành với chánh thể cộng hòa). Cải tổ tự vệ hương thôn sang các đoàn dân vệ do ủy viên cảnh sát chỉ huy (theo thông tư số 70/TTP/DV ngày 19/6/1956). Dân vệ do các tỉnh trưởng chỉ đạo tuyển mộ, quản lý, sử dụng. Lập ủy ban an ninh thay cho ủy ban mật vụ cũng do tỉnh trưởng, quận trưởng trực tiếp chỉ huy điều hành.

Bộ chỉ huy chiến dịch đặt tại tỉnh lỵ Biên Hòa do thiếu tướng cảnh sát Mai Hữu Xuân làm tư lệnh. Địch dùng số quân rất lớn để tiến hành chiến dịch này[36]. Ở mỗi tỉnh, chúng tổ chức các liên đoàn quân chính [37]. Quét sạch xong một vùng vài xã, liên đoàn quân chính chuyển sang vùng khác cho đến khi bình định xong từng quận. Nhiệm vụ của liên đoàn quân chính: 1- Tróc nã Việt cộng, phản động (hiểu là chống Diệm), bọn phá rối trật tự an ninh… 2- Lập sổ đen. 3- Lập ủy ban hành chính mới. 4- Tổ chức dân vệ. 5- Kiểm tra dân số. 6- Làm công tác xã hội và tổ chức liên gia tương trợ (thực chất biến mọi nhà thành mạng lưới mật vụ do thám lẫn nhau, gây mất đoàn kết nội bộ nhân dân). 7- Tổ chức thanh niên trong xã (nam vào thanh niên cộng hòa, nữ vào thanh nữ cộng hòa, phụ nữ hơi lớn tuổi vào phụ nữ liên đới, nhân viên hội đồng xã vào phong trào cách mạng quốc gia…).

Trong chiến dịch Trương Tấn Bửu, không ít cán bộ đảng viên đoàn viên, cơ sở mật ở Biên Hoà đã bị địch bắt bớ tù đày trong nhiều nhà tù: Trung tâm cải huấn Tân Hiệp, khám lớn Biên Hòa, nhà tù Thủ Đức, Gia Định… Hàng chục đồng chí hi sinh trong các đợt ruồng bố càn quét. Riêng số giao động bị mua chuộc, phản bội đầu hàng không đáng kể.

II.1. Nhân dân Biên Hòa chống học “tố cộng”

Chính quyền Ngô Đình Diệm chính thức ban hành chính sách tố cộng từ đầu năm 1955, lấy tỉnh Chợ Lớn làm thí điểm. Chúng cho đổi thẻ căn cước nhằm nắm lại dân, từ đó chia dân thành ba loại:

- Loại A gồm những đảng viên, cán bộ và người kháng chiến cũ là loại công dân bất hợp pháp.

- Loại B gồm những thân nhân (cha, mẹ, vợ con, anh em) cán bộ, đảng viên, du kích… thuộc loại công dân nửa hợp pháp.

- Loại C gồm tất cả những ai không liên quan tới cộng sản.

Âm mưu của chúng là nhằm gây chia rẽ nhân dân; dựa vào loại C đánh loại A và phân hóa loại B. Những người kháng chiến cũ phải trình diện định kỳ, nhận giấy chứng nhận cán bộ hồi cư để quản thúc tại địa phương. Địch tổ chức học tố cộng ở khắp địa bàn tỉnh. Ở Phước An, đồng bào đi học tố cộng là để giữ thế hợp pháp, không ai tố gì. Việc chống học tố cộng của quần chúng chủ yếu dựa vào lý lẽ. Một bữa, xã Vàng và số cán bộ tố cộng của địch tổ chức học ở nhà ông Tư Do (ấp Bà Trường). Lúc ấy, một cán bộ đang ở trong buồng nhà ông Tư, nghe xã Vàng nói huyên thuyên, chắc chỉ có y và số cán bộ tố cộng nghe, còn bà con trò chuyện râm ran, chẳng ai phát biểu một lờì. Quản Na, đại diện hội đồng xã, cứ mỗi lần tổ chức học tố cộng, trước khi đọc y chang tài liệu quận, tỉnh đưa xuống, lại thòng một câu rào đón:

- Thưa bà con, giấy cấp trên đưa về bảo tôi đọc cho bà con nghe, tôi chỉ đọc chớ không biết gì thêm, xin bà con đừng hỏi …

Ở Hiệp Hòa, địch đưa ông Bảy Di ra làm Chủ tịch ủy ban tố cộng nên dân gọi ông ta là Bảy Tố, bắt mỗi gia đình một người đi học “tố cộng” ở nhà hội hoặc miễu xóm. Bà con cố tránh né nên mỗi buổi chỉ lèo tèo mươi người có mặt, xì xào chuyện riêng mất trật tự. Một bữa, tên cán bộ tố cộng nói:

- Ở miền Bắc cộng sản đói chỉ ăn cám.

- Theo tôi biết, có gạo mới có cám, xay giã một giạ lúa được 16 lít gạo, 3 lít cám. Nếu họ ăn cám thì gạo bỏ đâu? - một bà chất vấn.

- Thì tôi nói sao, bà con cứ tin vậy, chớ hỏi lôi thôi… - tên cán bộ tố cộng đổ quạu, nói bừa.

Ở Hiệp Hòa, không tổ chức được buổi đấu tố nào, Bảy Tố một mình giơ đầu chịu báng. Ông Bảy Mít bị úp bộ lập phong trào cách mạng quốc gia không ai ghi tên. Sợ tỉnh quận rún ép, ông lập đại một bản danh sách nửa thật nửa ma gửi đi, lãnh thẻ về bỏ xó. Bà con và đứa cháu nội diễu ông là chủ tịch phong trào bán mạng quốc gia. Phong trào âm thầm tan rã.

Tại xã Bình Trước - tỉnh lỵ Biên Hoà - ông Hai Tô (Nguyễn Thái Bình, nguyên chủ tịch UBKCHC xã Bình Trước) và một số người kháng chiến cũ bị bắt đi học tố cộng. Khi trao đổi thảo luận, một anh mạnh dạn vạch trần bộ mặt dân chủ giả hiệu của Diệm, âm mưu gây chiến của đế quốc Mỹ, mặt khác bảo vệ danh dự cán bộ đảng viên liền bị cảnh sát còng tay điệu đi. Ở các khu nội ô và các ấp ven, nơi nào cũng diễn ra cảnh: giả bệnh không đi, có đi thì chuyện riêng mất trật tự, trẻ con la khóc ồn ào… 

Ngay khi chiến dịch Trương Tấn Bửu vừa bắt đầu, một cuộc võ trang tuyên truyền diễn ra tại km 101 trên quốc lộ 20 gần cầu La Ngà. Tôn Thất Hối, đại biểu chánh phủ tại vùng cao nguyên miền Nam ở Đà Lạt, báo cáo về Sài Gòn:

“Ngày 17/7/1956 vừa qua, từ 16 giờ 30 đến 17 giờ 30, trên quốc lộ 20, tại km 101 cách La Ngà 2 km về phía Sài Gòn, một vụ chặn xe đã xảy ra một cách táo bạo. Bọn phản động đông chừng 20 tên, mặc binh phục dã chiến nhảy dù, có tên mặc áo nâu hay áo đen, tất cả đều đi chân không, võ trang bằng tiểu liên, súng trường, súng lục, lựu đạn và bích kích pháo (súng cối) đã chặn trên 30 xe đủ loại từ hai ngả (Sài Gòn lên và Đà lạt xuống) và dồn đi vào con đường mòn rộng chừng 4 thước về mặt trái quốc lộ 20, phía sông Đồng Nai. Chúng bắt các người trên xe xuống, khám xét, và tuyên truyền hiệp thương tổng tuyển cử, đả đảo Chính phủ quốc gia và Mỹ. Sau khi phát cho mỗi hành khách (chừng trên 100 người) một tờ truyền đơn ký tên Tiểu đoàn 3 Binh đoàn Bình Xuyên - Mặt trận thống nhứt toàn lực quốc gia, bọn phản động nổ một tràng súng thị uy và rút lui vào rừng lúc 17 giờ 30 …”[38] .

Ngày 11/8/1956, chiến dịch Trương Tấn Bửu tiến hành ở quận Tân Uyên. Phá cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền cao su Phước Hoà, địch bắt một số cán bộ nghiệp đoàn ở đây: Nguyễn Văn Tất (tự Dũng)[39], Hà Xuân Thọ[40], Châu Văn Ánh, Bùi Văn Nị, Nguyễn Văn Phùng, Nguyễn Thị Hiền, Lực. Tại quận Tân Uyên, chúng bắt 10 người với tội danh “làm kinh tài cho Việt cộng”.

Ngày 15/10/1956, Mai Hữu Xuân gửi công văn cho tỉnh trưởng Biên Hòa thông báo đã bắt đưa đi an trí 7 ủy viên hội đồng hương chính “có liên quan với Việt cộng[41]. Nhìn chung, ở bất kỳ địa phương nào trong tỉnh Biên Hòa cũng có đảng viên, đoàn viên và cơ sở cách mạng bị bắt bị giết trong chiến dịch Trương Tấn Bửu, trong đó có nhiều dân thường vô tội.

Ngay từ tháng 9/1955, Trung ương đã chỉ đạo Xứ ủy Nam bộ: “Những cán bộ lộ mặt nên chuyển vùng. Đối với đảng viên đã đầu hàng, tuy đã bị loại ra, cũng tìm hết cách tranh thủ họ để hạn chế và giảm bớt hành động phá hoại Đảng[42]. Trong khi địch đánh phá cách mạng miền Đông ác liệt thì chỉ thị 4/HBC (về điều lắng) ban hành. Tình hình thực tế diễn ra phức tạp do đội ngũ ta đông, trong kháng chiến chống Pháp chủ yếu hoạt động công khai hợp pháp nên việc điều lắng ít tác dụng. Vì thiếu kinh nghiệm, một số đồng chí chuyển vùng nhanh chóng bị địch phát hiện bắt bớ, lực lượng ta tiếp tục tổn thất. Một số giữ được bí mật hòa vào nhân dân, tồn tại nhưng hoạt động hạn chế, một số bỏ luôn tổ chức vì dao động tư tưởng. Chủ trương “điều lắng” thưc tế không bảo vệ được cán bộ, đảng viên mà còn làm lộ tung tích nhiều hơn, “điều” đi là mất người, “lắng” rồi lặn luôn. Do đó ở các vùng có địa hình thuận lợi: Rừng Sác, rừng giồng, đồi núi… nhiều đồng chí vẫn bám trụ và hoạt động an toàn. Ở thị xã, thị trấn thì “rừng người” che chở hữu hiệu không kém rừng núi thiên nhiên, nếu người cán bộ làm tốt công tác dân vận.

II.2. Tù chính trị nổi dậy phá khám Tân Hiệp

Cho đến tháng 11/1956, nhà lao Tân Hiệp đã có trên 2.300 người bị giam giữ, phần đông là cán bộ, đảng viên (hơn 300 đồng chí) và người yêu nước kháng chiến cũ. Đảng ủy nhà lao thành lập vào nửa đầu năm 1956 lãnh đạo anh em đấu tranh chống chào cờ, không học tố cộng, giữ vững phẩm chất khí tiết người cách mạng. Trong nhà lao lúc đó có hai luồng tư tưởng: một số người chấp nhận những điều kiện của địch khi mãn hạn giam giữ sẽ được thả về, nhiều đồng chí chủ trương kiên quyết đấu tranh dùng bạo lực phá khám khi có điều kiện để trở về với cách mạng. Đảng ủy đã giáo dục thuyết phục nhiều đảng viên nòng cốt ở các trại tổ chức lực lượng, tỉ mỉ vạch kế hoạch chuẩn bị nổi dậy.

  Chiều ngày 02/12/1956, Đảng ủy nhà tù Trung tâm cải huấn Tân Hiệp (Biên Hòa) sau thời gian nghiên cứu kỹ địch tình, đã lợi dụng thời cơ thuận lợi phá khám, giải thoát 462 cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước về với cách mạng, mang theo 47 súng chiến lợi phẩm. Anh chị em trên đường về chiến khu Đ hoặc về quê hương được cán bộ mật và bà con tốt của nhiều xã các huyện Vĩnh Cửu, Long Thành che giấu, cung cấp lương thực, dẫn đường tránh né thoát vòng vây gắt gao của địch. Trung úy Phan Lạc Tuyên hiểu chánh nghĩa cách mạng đã không sốt sắng trong việc cho đơn vị dưới quyền truy tìm đoàn tù theo lệnh cấp trên.

Cuộc vượt ngục tập thể với qui mô chưa từng có này là nguồn bổ sung lực lượng cán bộ quí báu, quan trọng cho phong trào cách mạng miền Nam đang thiếu. Đây là tiếng súng mở màn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian khổ nhưng cuối cùng thắng lợi vẻ vang.

Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy Nam bộ - nghiên cứu kỹ thực tiễn diễn biến của phong trào cách mạng miền Nam từ sau ngày Hiệp định Genève được ký kết. Trên cơ sở đó, đồng chí soạn thảo bản Đề cương cách mạng miền Nam, xác định: “Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là ra sức tập hợp lực lượng đấu tranh thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ”. Về phương pháp cách mạng, bản Đề cương khẳng định: “Hiện nay chúng ta phải chọn con đường hòa bình, vì con đường đó có khả năng đi đến thắng lợi, song giữ vững ngọn cờ hoà bình không có nghĩa là vấn đề vũ trang khởi nghĩa cũng như chiến tranh chống xâm lược không đặt ra khi tình hình đã hoàn toàn thay đổi. Trong đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ, nhưng không phải là vũ trang toàn diện. Việc tổ chức vũ trang tự vệ là nhằm bảo vệ cơ sở, bảo toàn lực lượng, không thể biến thành chiến tranh du kích …”. Đề cương đề cập đến vấn đề xây dựng củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất và tổng kết sáu bài học của Cách mạng tháng Tám để vũ trang lý luận cho cán bộ, đảng viên[43]. Tháng 01/1957, Xứ ủy Nam bộ họp chủ trương giữ gìn và phát triển lực lượng: “Với đế quốc Mỹ, phát xít Diệm không thể trông mong cầu xin mà phải đấu tranh, muốn đấu tranh phải có thực lực[44].  Tỉnh ủy Biên Hòa đã tổ chức cho các cấp ủy Đảng và cán bộ chủ chốt nghiên cứu bản Đề cương này cùng với nghị quyết của Xứ ủy.

Năm 1957, chính quyền Sài Gòn đã chia nhỏ tỉnh Biên Hòa cũ rộng 11.045 km2 thành ba tỉnh: Biên Hòa, Long Khánh, Phước Long[45]. Các tỉnh trưởng, quận trưởng dân sự thay dần bằng các sĩ quan quân đội. Để có tay chân kềm kẹp nhân dân Biên Hòa, liên đoàn quân chính tổ chức nhiều đợt, nhiều lớp học cho trưởng ấp, liên gia trưởng ở ngay từng xã. Chỉ tính từ ngày 4/1/1957 đến 20/1/1957, chúng đã mở 23 lớp với 1502 học viên[46]. Số dân vệ cả tỉnh đến ngày 31/1/1957 có 1916 người (ngày 21/7/1956 có 615 dân vệ, gần nửa năm sau tăng gấp 3 lần). Tổ chức thanh niên cộng hòa, thanh nữ cộng hòa xã nào cũng có do địch “úp bộ”. Nòng cốt, cảm tình của ta trong các tổ chức đoàn thể này của địch chiếm tỉ lệ không lớn nhưng âm thầm hoạt động bí mật nắm tin tức, chủ trương của chúng kịp thời báo cáo để cấp ủy đề ra kế hoạch đối phó.

Địch tiến hành tố cộng, huy động dân vệ, thanh niên phụ nữ đi canh tuần làng xóm ngăn không cho cán bộ ta về hoạt động ban đêm. Chúng qui định “Nếu cộng sản về, phải đánh mõ báo động”. Thế là xóm làng ban đêm ở nhiều nơi bị mất đi cái yên ắng vì những hồi mõ “cốc, cốc” lan truyền vang dội với tiếng la hoảng “Có Việt cộng! Có Việt cộng!”. Mới đầu qui định đánh mõ báo động gây trở ngại cho cán bộ ta hoạt động, sau các đồng chí hướng dẫn nòng cốt, cơ sở không đánh mõ khi anh em đột xóm ấp, ngược lại anh em đi khỏi mới hô hét, đánh mõ báo động. Có khi không có gì, cũng đánh mõ. Một thời gian sau, người canh tuần chán vì công việc buồn tẻ nên làm chiếu lệ, việc dùng mõ báo động bị vô hiệu hóa dần.    

Thời gian hiệp thương hai miền theo Hiệp định quy định (tháng 7/1956) trôi qua mà tình hình không diễn ra như dự kiến, cán bộ và nhân dân miền Nam không khỏi xao xuyến, thất vọng đối với Hiệp định Genève và đấu tranh chính trị. Một số người từ trước đến nay lừng chừng, chờ thời, nay nghiêng về phía chính quyền Diệm. Mỹ - Diệm nắm chắc ta kiên trì đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình, càng dấn tới. Một số kẻ xấu vì nghĩ rằng thời cơ của chúng đã đến, lăm le nhảy ra làm tay sai cho địch mong có chức, có quyền, có tiền.

Chi bộ xã Phước Lý lãnh đạo nông dân đấu tranh chống cướp đất ở cù lao Ông Còn để mở rộng vành đai kiểm soát của kho bom Thành Tuy Hạ. Đây là cuộc đấu tranh nằm trong đợt đấu tranh chung toàn Miền chống các dụ số 2, số 7 và 57 của chính quyền Sài Gòn. Nòng cốt cơ sở vận động binh sĩ đứng về phía nhân dân, nhiều anh em không làm theo lệnh chỉ huy.

Ngày 22/2/1957, phủ Đặc ủy công dân vụ báo cáo lên Phủ Tổng thống:

“Hiện nay các tỉnh miền Đông và miền Tây bọn Việt cộng đang ráo riết tiến hành công tác phá hoại sắc lệnh thi hành quân dịch của Chính phủ ta, cùng kết hợp chặt chẽ với chủ trương đấu tranh đòi cải thiện dân sinh dân chủ bằng những hình thức như sau:

Gây dư luận bàn tán xôn xao trong các từng lớp nhân dân về việc bắt lính là trái với ý nguyện hòa bình của toàn dân, chúng viết thư kêu gọi anh em binh sĩ và công chức chính quyền đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân. Bịa đặt tin tức, thơ ca hò vè để tuyên truyền phổ biến trong nhân dân chống lại quân dịch của ta. Vận động nhân dân viết thật nhiều thư gởi các nhà báo bày tỏ thắc mắc về việc quân dịch cùng chất vấn các cơ quan chính quyền về đời sống nhân dân khổ sở vì mùa màng thất bát. Hướng dẫn các gia đình có con em đi lính hoặc dân vệ đoàn làm đơn xin giải ngũ, than phiền nhà đơn chiếc. Giáo dục anh em binh sĩ giải ngũ, nói là đời lính rất cực khổ. Xúi giục nhân dân đòi hỏi chính quyền giảm thuế, phải tăng giá lúa và các nông phẩm khác, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho những người thất nghiệp. Hướng dẫn tá điền đấu tranh với địa chủ trên việc làm khế ước…”[47]

Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng, đầu tháng 02/1957, cơ sở ta đã treo một lá cờ búa liềm trên ngọn cây dầu ở đỉnh núi Châu Thới. Khách đi xe đò, xe ngựa đều trông thấy cờ tung bay trong gió như muốn nhắc nhở đông đảo nhân dân: Đảng và cách mạng vẫn tồn tại. Phải một ngày địch mới gỡ được lá cờ xuống.

II.3. Đồng bào các dân tộc ít người ở Biên Hòa nuôi dưỡng các lực lượng vũ trang trang cách mạng đầu tiên

Từ sau Hiệp định Genève, Tỉnh ủy Biên Hòa cử một số cán bộ trở lại vùng đồng bào các dân tộc ít người chí cốt với kháng chiến ở các vùng Lý Lịch, Tà Lài, Phước Thái-Hắc Dịch. Lý Lịch, Tà Lài vốn thuộc huyện căn cứ Đồng Nai trong chống Pháp; đồng bào có truyền thống theo cách mạng, đồng cam cộng khổ với kháng chiến. Sau tháng 7-1954, địch mở đường, phá rừng càn quét liên tục khu vực này, nhưng bà con một lòng theo cách mạng. Cả làng Lý Lịch bảo nhau quyết không theo Mỹ-Diệm, địch càn bố thì lui vào rừng tránh né.

Tháng 3/1957, căn cứ chỉ thị số 15 của Xứ ủy Nam bộ, Tỉnh ủy Biên Hòa thành lập đội võ trang tuyên truyền C.250 gồm khoảng 60 đồng chí là cán bộ, chiến sĩ, du kích thời kháng chiến 9 năm ở lại, một số vượt ngục Tân Hiệp. Đồng chí Ba Viên (Huỳnh Văn Viên) là đội trưởng, Sáu Phát (Nguyễn Văn Luông) là chính trị viên, Năm Hoa (Nguyễn Văn Hoa) và Bảy Phú là đội phó. Căn cứ của đơn vị đặt tại rừng Tân Tịch, Mỹ Lộc (Tân Uyên) thuộc chiến khu Đ.

Tháng 01/1958, đại đội vũ trang tập trung 60 đầu tiên của miền Đông Nam bộ chính thức thành lập. Tiếp đó, các đại đội 50 và 70 ra đời. C.50 xây dựng căn cứ ở vùng Bù Cháp, Lý Lịch trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn. Do công tác dân vận tốt, các đơn vị đã được đồng bào các dân tộc Ch’ro, S’tiêng, Mạ đùm bọc cưu mang, cho khoai, bắp, chỉ bảo cách đào củ chụp, củ mài ở rừng. Đơn vị được bà con giúp khai phá nương rẫy trồng tỉa sản xuất tự túc một phần. Bà con cũng đóng góp một phần lương thực thực phẩm nuôi các cơ quan Xứ ủy và Liên tỉnh ủy miền Đông.

  III. ĐẤU TRANH ĐỂ BẢO VỆ LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG

Từ năm 1955, nhất là sau chiến dịch Trương Tấn Bửu, chính quyền Ngô Đình Diệm ngày càng phát xít hơn, tăng cường khủng bố phong trào đấu tranh đòi hòa bình thống nhất đất nước, bắt bớ và giết hại cán bộ kháng chiến cũ và người yêu nước. Có áp bức, có đấu tranh nhưng chỉ đấu tranh hòa bình không thì không thể ngăn chặn có hiệu quả sự dã man tàn ác của địch. Thực tế thiệt hại ở các địa phương buộc các cấp bộ Đảng phải bí mật diệt ác. Tư liệu địch còn lưu trữ cho ta thấy những bức xúc của phong trào hồi đó; đồng thời cho thấy sau chiến dịch Trương Tấn Bửu, lực lượng và phong trào cách mạng vẫn tồn tại[48]:

Trong một báo cáo địch nhận định: “Những tổ chức của Việt cộng từ trước tới nay bị ta chặn đứng và đã bị phá vỡ trong thời gian chiến dịch Trương Tấn Bửu, nay chiến dịch đã chấm dứt nên toan hoạt động trở lại bằng cách cho các cán bộ nằm vùng len lỏi về các xóm ấp để tuyên truyền với tính cách hăm dọa…”.

Liên tục trong năm 1957, 1958, nhiều tên mật vụ, chỉ điểm, tề, cảnh sát ác ôn, một số tên kháng chiến đầu hàng làm tay sai cho địch đã bị cảnh cáo, trừng trị một cách bí mật. Lực lượng vũ trang cũng nhiều lần tổ chức tấn công địch gây tiếng vang, có tác dụng cổ vũ tinh thần quần chúng, hạn chế những hoạt động khủng bố của địch[49].

Ở quận Long Thành, phong trào thanh khiết xóm ấp lan ra nhiều nơi, hình thành các lõm chính trị: ấp 1 Thanh Nguyên, Bàu Ngỗng (Bình Sơn), Long Thành 2 (Tam Phước, xóm Hố (Phú Hội)… Các cơ sở và nòng cốt địa phương đào hầm bí mật, làm vách lá đôi để che giấu cán bộ. Thanh khiết xóm ấp là phong trào tuy không diệt ác nhưng cô lập, bưng tai bịt mắt, cắt các nguồn tin, làm mất tác dụng bọn chỉ điểm do thám địa phương. Đối với bọn từ ngoài tới, đồng bào thực hiện “ba không”. Có tên chỉ điểm bị bà con cô lập đến nỗi không ai tới nhà và y cũng không tới được nhà ai, đi mượn cái dần gạo cũng không ai cho mượn, đành dọn đi nơi khác.

Cuối năm 1957, Trung ương Đảng gửi thư động viên các cấp bộ Đảng miền Nam, nhận định khái quát: “Hơn hai năm đấu tranh chính trị cực kỳ gay go, các đồng chí ở miền Nam sẵn có truyền thống đoàn kết và đấu tranh bất khuất, truyền thống ấy càng được phát huy, kinh nghiệm lãnh đạo càng thêm phong phú. Các Đảng bộ ở miền Nam đã trải qua những thử thách lớn lao, luôn luôn giữ vững ngọn cờ của Đảng và bám sát vào quần chúng… Ở một số địa phương, vì địch phá hoại và tàn sát, vì khuyết điểm của ta, Đảng bộ có bị tổn thất, nhưng nói chung phong trào đấu tranh căn bản giữ vững và phát triển…[50]

Tỉnh trưởng Biên Hòa trong Tờ trình tháng 3 và 4/1958 đánh giá: “Những hành vi trên đây đều nhằm mục đích khủng bố những phần tử trung kiên của ta và tuyên truyền xuyên tạc chánh nghĩa quốc gia… Chánh sách của chúng hiện nay chưa có dấu hiệu gì thay đổi ngoài chủ trương diệt tề, dân vận, binh vận, củng cố cơ sở Đảng, đánh úp đồn bót lẻ tẻ để đoạt võ khí, tranh thủ thu nạp thanh niên đến tuổi quân dịch để bổ sung vào các đơn vị… Những đồng bào bị áp lực của Việt cộng ở vùng Chiến khu Đ (quận Tân Uyên) phần đông chưa dứt khoát tư tưởng nên công tác tố cộng còn yếu ớt … ” .

Ngày 27/3/1958, viên tỉnh trưởng Biên Hòa gửi lên Phủ Tổng thống ngụy bản Kê khai xếp theo phương diện tinh thần cao, khá hay kém (nghĩa là đánh giá theo quốc gia thế nào, an ninh thế nào). Có 19/77 xã xếp loại kém là: Tân Phong, Tân Triều, Bình Ý (quận Châu Thành); An Lợi, Phước Lai, Tam Phước, Thái Thiện, Long Phước (quận Long Thành), Bình Chánh, Thạnh Hội, An Thành, Tân Hòa, Tân Tịch, Bình Mỹ, Vĩnh Hòa, Thường Lang (quận Tân Uyên); Đông Hòa, Bình Trị, Long Phước Thôn (quận Dĩ An). Có 112/408 ấp xếp loại kém trong đó quận Châu Thành có 15 ấp kém; quận Dĩ An có 25 ấp kém, quận Long Thành có 38 ấp kém, quận Tân Uyên có 34 ấp kém. Bản kê khai này như sự thừa nhận đánh giá phong trào cách mạng của nhân dân Biên Hòa có bước phát triển dù địch dồn toàn lực đánh phá ráo riết[51].

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trực tiếp và toàn diện các hoạt động quân sự, tháng 3/1958, Xứ ủy Nam bộ quyết định thành lập Ban Quân sự và Đảng ủy lực lượng vũ trang Liên tỉnh miền Đông do đồng chí Tám Xuyến (Nguyễn Hữu Xuyến) làm trưởng ban. Các đơn vị vũ trang các tỉnh miền Đông được tổ chức thành tiểu đoàn (gồm ba đại đội bộ binh và một đại đội đặc công) trực thuộc Ban Quân sự Miền. Đây là bước phát triển quan trọng của cách mạng miền Đông Nam bộ.

Ngày 17/4/1958, được cơ sở mật và nội tuyến giúp đỡ, lực lượng vũ trang ta tập kích nông trường Sông Bé (khu vực Hàn Dài, Tân Uyên) tước 15 súng và nhiều đạn dược, lựu đạn của dân vệ.

Từ ngày thành lập tỉnh Long Khánh, viên tỉnh trưởng Nguyễn Văn Ngưu đều báo cáo lên Phủ Tổng thống tình hình trật tự trị an trong tỉnh rất tốt qua Tờ trình hàng tháng. Lần đầu tiên, ông ta thú nhận: “Đêm 15/5/1958 truyền đơn cách mạng  rải ở nhiều nơi trong tỉnh lỵ Long Khánh, ngã ba Ông Đồn xã Gia Ray và ấp Suối Cát đường vào Bảo Chánh” (Phúc trình 906- VP.M./LK ngày 20/5/1958).

IV. NHÂN DÂN BIÊN HÒA ĐOÀN KẾT ĐẤU TRANH CHỐNG LÀM XA LỘ VÀ MỞ RỘNG SÂN BAY QUÂN SƯ, CHỐNG VỤ THẢM SÁT PHÚ LỢI

Để xây dựng hạ tầng cơ sở góp phần đánh phá cách mạng miền Nam nhanh hơn, mạnh hơn, từ cuối năm 1957 địch bắt đầu xây dựng xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa dài khoảng 32 km, nối đầu não Sài Gòn với các quốc lộ 1, 15. Xa lộ này sẽ xóa căn cứ du kích Bình Đa hồi kháng chiến chín năm. Mới đầu bọn Mỹ đo đạc khảo sát phóng tuyến, dẫm bừa lên mồ mả ở hai xã Tam Hiệp, Long Bình Tân. Bà con tức giận kéo ra đấu tranh khiến bọn này phải bỏ chạy. Tỉnh ủy Biên Hòa cử cán bộ về chỉ đạo đảng viên, cơ sở và nòng cốt các xã này chống phá kế hoạch của địch. Dựa vào ý kiến quần chúng, huyện ủy Vĩnh Cửu đưa ra khẩu hiệu: Sống có cái nhà, thác có cái mồ, kẻ nào ủi phá mồ mả tổ tiên phải đền tội để vận động quần chúng đấu tranh. Các cơ sở và nòng cốt vận động đông đảo bà con chỉ trong một đêm ra cắm vào mỗi ngôi mộ một cây buộc mảnh vải đỏ, cả nghĩa địa tới mấy trăm cây. Hàng trăm bà con vác cuốc, cầm dao, cản đầu xe ủi Mỹ. Cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt, buộc các xe ủi phải dừng lại.

Nhân viên quận Châu Thành theo lệnh tỉnh xuống thương lượng bồi thường để nhân dân dời mồ mả. Không thể buộc Mỹ - Diệm bỏ kế hoạch làm xa lộ, cán bộ ta chỉ đạo cơ sở vận động bà con Long Bình, Bình Đa, An Hảo đòi trả mỗi ngôi mả đá, mả gạch gấp nhiều lần mả đất. Mỹ bồi thường đầy đủ, cán bộ ta tiếp tục chỉ đạo nòng cốt trì hoãn dời mộ, cúng rồi chờ ngày tốt mới bốc cốt. Tính ra kế hoạch của địch chậm hàng năm, mãi đến đầu năm 1961 xa lộ mới hoàn thành.

Một công trình quân sự chiến lược khác mà Mỹ - Diệm tiến hành làm đồng thời với xa lộ là mở rộng sân bay Biên Hòa. Sân bay này quân đội Pháp lập từ đầu thập niên 20 thế kỷ XX, đường băng dài 700 mét bằng đất đá ong lu lèn chặt hướng Bắc - Nam (ở gần cổng 1 bây giờ) dùng cho loại máy bay Morane (đầm già). Thời kháng chiến chín năm, đường băng nối dài thêm 300 mét, lát ghi sắt, máy bay vận tải Dakota lên xuống được (còn loại máy bay khu trục đều cất hạ cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất). Để mở rộng chiến tranh xâm lược ở miền Nam và có thể phục vụ ý đồ Bắc tiến, Mỹ - Diệm làm sân bay có đường băng bê tông dài 10.000 feet (trên 3000 mét) theo hướng Đông - Tây, có nhiều thiết bị điện tử chỉ huy hiện đại hướng dẫn mọi loại máy bay phản lực chiến đấu - kể cả máy bay B.52 - lên xuống trong mọi thời tiết không kể ngày đêm. Cứ 2 phút một cặp máy bay có thể cất cánh/hạ cánh (60 chiếc lên/xuống trong 1 giờ, liên tục ngày đêm sẽ lên tới trên 1000 lượt/chiếc) chi viện đắc lực cho việc đánh phá cách mạng miền Nam Việt Nam.

Tỉnh ủy Biên Hòa và Huyện ủy Vĩnh Cửu cử cán bộ về chỉ đạo chi bộ Bửu Long và số đảng viên xã Tân Phong (quận Châu Thành) lãnh đạo các nòng cốt và cơ sở vận động nhân dân các xã trên đấu tranh chống mở rộng căn cứ quân sự này. Từ giữa năm 1958, dân ấp Bửu An dưới sự chỉ đạo của một đảng viên và mấy đoàn viên Thanh lao đồng lòng đòi bồi thường khi phải di dời khỏi đó. Đơn từ gửi tới tấp lên quận trưởng Châu Thành, tỉnh trưởng Biên Hòa và cả quốc hội Sài Gòn mặc cho lính và cảnh sát hù dọa. Để thi công, địch đồng ý bồi thường tiền cho nhân dân ấp Bửu An.

Xã Tân Phong lúc này chỉ có một đảng viên là đồng chí Năm Hiền (Nguyễn Thị Thanh Vân), mấy đoàn viên nhưng số nòng cốt và cơ sở đông tới mấy chục bà con ở rải các xóm Chùa, xóm Trên, xóm Dưới, xóm Đồng Tràm thuộc hai thôn Tân Phong 1, Tân Phong 2. Lính đến đo đạc, bà con làm đơn kiến nghị giữ hướng đường băng Bắc - Nam chạy dài lên rừng Bình Ý thì dân không phải di dời, không mất nhà cửa ruộng nương. Ngụy quyền ở Biên Hòa xuống tập trung dân giải thích, rồi cho lính và cảnh sát xuống hù dọa sẽ cho máy ủi xuống và cào nhà cho kịp hạn định Nhà nước. Căn cứ vào tình hình không thể chống được việc dời làng, bà con kéo dài thời hạn giải tỏa, khất lần: thu hoạch xong lúa má, hoa màu sắp được ăn. Thấy đề nghị của dân hợp lý, địch nhượng bộ. Nhưng lúa vừa gặt buổi sáng, đến chiều bà con cấp tốc làm đất gieo trồng thứ khác. Bọn Mỹ thấy công việc có nguy cơ đình trệ nên chúng một mặt đẩy mạnh việc đo đạc ruộng vườn, thống kê nhà cửa và mồ mả (để đền bù), một mặt cho lính đi cùng xe ủi về ủi ngay ruộng vừa thu hoạch xong. Bà con kéo dài thời gian làm giấy tờ, hồ sơ gửi lên cơ quan đền bồi ở Thủ Đức xét duyệt kéo dài hàng năm. Cuộc đấu tranh chống mở rộng sân bay kéo dài từ giữa năm 1957 tới năm 1961 mới kết thúc. Năm 1962, sở cao su phủ Thanh bán cho chính quyền tỉnh để mở rộng sân bay. Bà Tám Dặm (Hồ Thị Dặm) - cơ sở của thị ủy Biên Hòa - quyết bám trụ Tân Phong để đội vũ trang thị xã của đồng chí Hai Nghĩa có chỗ qua lại điều nghiên sân bay. Gia đình bà là những người cuối cùng bị ngụy quyền dùng vũ lực trục xuất khỏi đất Tân Phong ngày 22/11/1962.

Đầu tháng 12/1958, Mỹ - Diệm gây ra vụ đầu độc lớn giết hại nhiều tù nhân nhà tù Phú Lợi (ở tỉnh Bình Dương báo chí gọi gọn là vụ thảm sát Phú Lợi). Xứ ủy Nam bộ ra chỉ thị tháng 02/1959 cho các cấp ủy lãnh đạo cuộc vận động quần chúng đấu tranh rộng lớn chống địch bưng bít sự thật, vận động các gia đình có thân nhân trong tù tố cáo tội ác của địch, đòi bồi thường tính mạng cho người bị sát hại… Hàng vạn đồng bào các tầng lớp, các tôn giáo Sài Gòn - Chợ Lớn và nhiều địa phương khắp hai miền Nam, Bắc đã xuống đường trong nhiều ngày, mít tinh tuần hành, giương cao các khẩu hiệu tố cáo tội ác đẫm máu của Mỹ- Diệm.

Ở tỉnh lỵ Biên Hòa, ngày 10/4/1959 Tỉnh ủy và Huyện ủy Vĩnh Cửu vận động hơn ba chục bà và chị có thân nhân bị giam giữ ở Phú Lợi đến tòa hành chính, đòi gặp tỉnh trưởng để hỏi số phận người còn bị giam giữ và có đơn xin đi gặp mặt, thăm nuôi. Cuộc đấu tranh này tuy ôn hòa nhưng bị công an địch đàn áp, chúng bắt toàn bộ về trụ sở gần một ngày. Chị Bảy Bê (Ngô Thị Bảy) là đảng viên mật lãnh đạo cuộc đấu tranh bị địch đánh đập dã man song không hề để lộ tung tích. Chiều hôm đó, địch phải thả toàn bộ. Ngày 15/4, một nhóm phụ nữ đã đến văn phòng xã Hiệp Hòa, chất vấn đại diện xã và gửi yêu sách 5 điều (trong đó có yêu cầu đi thăm thân nhân bị giam ở Phú Lợi) (Tờ trình tháng 5/1959 của tỉnh trưởng Biên Hòa gửi Phủ Tổng thống).

 Ít hôm sau, một số bà và chị ở các huyện đã tham gia cuộc đấu tranh chung trước nhà quốc hội Sài Gòn do Liên tỉnh ủy miền Đông chỉ đạo.

Ngày 7/4/1959, cơ sở mật gửi thư qua bưu điện cho viên đại diện xã Bửu Long, tuyên truyền chống Mỹ - Diệm, mặt khác yêu cầu ông ta không làm gì có hại cho nhân dân. Thư ký tên “Những người đấu tranh cho hòa bình, thống nhất Tổ quốc”.

Đêm 31/5/1959, cơ sở mật rải truyền đơn và treo dây cờ đỏ sao vàng ở nơi giáp ranh hai xã Tân Đông Hiệp - An Bình (quận Dĩ An)… Những hoạt động rải truyền đơn tố cáo Mỹ - Diệm thảm sát tù nhân ở Phú Lợi, treo cờ Tổ quốc diễn ra đều ở các quận huyện sau khi có chỉ thị của Xứ ủy.

Tháng 5/1959, chính quyền Sài Gòn ra Luật 10/59 công khai đem máy chém đi khắp nơi chặt đầu những người yêu nước. Sự tàn bạo phát xít hóa của Mỹ - Diệm lên đến tột đỉnh.

Nhà Xanh nằm trong khu vực nhà máy cưa BIF là nơi ăn, nghỉ hàng ngày của số cố vấn quân sự Mỹ huấn luyện cho sư đoàn 7 bộ binh Sài Gòn. Ban quân sự Liên tỉnh miền Đông chủ trương đánh đòn phủ đầu dằn mặt Mỹ. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến - trưởng ban quân sự - gửi thư cho Thị ủy Biên Hòa bàn việc tổ chức đánh bọn này. Đồng chí Bí thư Thị ủy Trương Văn Lễ vận động một số cơ sở: bà Sáu Tơ (Huỳnh Thị Tơ), bà Bảy Vết (Phạm Thị Vết) ở ấp Lân Thành bí mật nuôi giấu, tạo điều kiện cho số trinh sát của C.250 bám trụ điều nghiên Nhà Xanh gần nửa năm liền. Kế hoạch tác chiến được Ban Quân sự liên tỉnh thông qua vào tháng 6/1959.

Ngày 5/7 một bán đội 6 chiến sĩ đặc công do đồng chí Năm Hoa (Nguyễn Văn Hoa) chỉ huy, từ căn cứ Chiến khu Đ về Biên Hòa. Ngày 7/7, anh em được cơ sở mật là anh Bảy Bông (Nguyễn Văn Bông, bí danh Bảy Huệ) và gia đình bà Ba Xuân (Nguyễn Thị Xuân) ở xóm Gò Me tiếp tế bánh mì, che giấu ở vạt rừng chồi chỉ cách mục tiêu Nhà xanh chưa đến nửa cây số đường chim bay. Chiều tối, anh Năm Lũy (Nguyễn Văn Lũy) - con bà Ba Xuân - dẫn anh Hưng - chiến sĩ đặc công - đi trinh sát lần cuối. Khoảng 7 giờ tối 7/7/1959, bán đội đặc công tập kích Nhà Xanh, vòng ngoài có lực lượng tự vệ mật của Thị ủy Biên Hòa phối hợp tác chiến. Chỉ trong 15 phút, ta diệt hai cố vấn Mỹ (thiếu tá Bael Buis và trung sĩ Chester Ovmand), làm bị thương một số khác. Trận tập kích Nhà Xanh gây tiếng vang lớn, là sự kiện tố cáo âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ; thể hiện ý chí tiến công cách mạng của quân dân Đông Nam bộ và Biên Hòa vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Báo chí phương Tây sau này nhận định: trận Nhà Xanh mở đầu kỷ nguyên Việt Nam đối với đế quốc Mỹ trong cuộc xâm lược miền Nam Việt Nam.

Tuy nhiên đến cuối năm 1959, phong trào cách mạng miền Nam nói chung, Biên Hòa nói riêng chịu nhiều tổn thất. Do một số tên đầu hàng phản bội: Tư Cường (Nguyễn Văn Cường tức Đoàn Trị) - cán bộ binh vận huyện Vĩnh Cửu - ra hàng tháng 5/1959, Ba Chánh - trưởng ban giao liên Tỉnh ủy - đầu hàng ngày 20/8, Hà Tư (Trần Xuân Hà) - Bí thư Huyện uỷ Long Thành - đầu hàng ngày 31/10/1959[52]; đó là chưa kể một số tên phản bội khác: Hai Giò, Mười Lồi… cấp thấp hơn. Ba tên nêu trên đều từng là cán bộ binh vận, từng nắm nhiều đầu mối liên lạc. Do chúng khai báo, khoảng hơn 300 cán bộ, đảng viên, đoàn viên, cơ sở và cảm tình ở tỉnh lỵ Biên Hòa, Long Thành, Tân Uyên, Vĩnh Cửu bị địch bắt giam.

Ở một số nơi, có lúc bà con cơ sở không dám cho cán bộ ta vào nhà, không phải không còn yêu nước nhưng họ sợ cán bộ đảng viên bị bắt rồi khai báo thì nhà tan cửa nát, tù đày chết chóc không thể lường. Đảng bộ tỉnh Biên Hòa chỉ còn hai chi bộ Thái Hòa (quận Tân Uyên) và Lý Lịch - Bù Cháp (Vĩnh Cửu) cùng một số đảng viên lẻ và một số cơ sở chưa lộ. Cán bộ Đảng phải tránh né liên tục để tồn tại, được quần chúng tốt che chở, nuôi giấu; mặt khác các đồng chí vẫn tìm cách móc nối từng bước khôi phục, xây dựng và phát triển cơ sở.

Điểm lại giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1959, lúc đầu Đảng sáng suốt đánh giá đúng thuận lợi, khó khăn, xác định rõ kẻ thù mới là đế quốc Mỹ và lũ tay sai bán nước.

Nhưng sau đó gần 5 năm Mỹ - Diệm thực hiện chiến lược “chiến tranh một phía” (còn gọi là chiến lược “chiến tranh cảnh sát”) với bạo lực phản cách mạng tiêu diệt cách mạng. Trong lúc đó, những cuộc diệt ác lẻ tẻ không có chỉ đạo của cấp trên không đủ để ngăn chặn hành động phát xít của địch, và chỉ đấu tranh chính trị đơn thuần đã làm cho lực lượng cách mạng bị tiêu hao, tan rã khá nhiều.

Gây ra muôn vàn tội ác với nhân dân, Mỹ - Diệm chuốc lấy nỗi căm hờn ngút trời. Nhà thơ Tố Hữu đã viết Bão ngày mai là gió nổi hôm nay. Trời chớp giật tất đến ngày sét đánh, vạch rõ kết cục của Mỹ - Diệm. Nhưng chặng đường chống Mỹ cứu nước của Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai còn phải trải qua vô vàn gian nan thử thách. Nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai luôn chứng tỏ lòng yêu nước nồng nàn, cán bộ đảng viên bằng công tác dân vận đã vạch trần bản chất xâm lược của kẻ thù, tập hợp lực lượng sẵn sàng nổi dậy khi có thời cơ.



 

 

 

 


CHƯƠNG VI

MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM RA ĐỜI

GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ ĐẠI ĐOÀN KẾT CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC

(1960-1968)

 

I. NGHỊ QUYẾT 15 (KHÓA 2) CỦA TRUNG ƯƠNG MỞ RA VẬN HỘI MỚI CHO PHONG TRÀO CÁCH MẠNG MIỀN NAM

I.1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết Hôi nghị lần thứ 15 (khóa II) [53]

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng ở miền Nam trước một kẻ thù đã phát xít hóa đến cao độ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp hội nghị lần thứ 15 để đề ra đường lối cách mạng miền Nam.

Bản nghị quyết nêu rõ “nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh …”. Hội nghị khẳng định: “con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân” và “con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”… “Cách mạng miền Nam phải trải qua một quá trình phấn đấu lâu dài và gian khổ để xây dựng, củng cố và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh từ nhỏ đến lớn, đẩy lùi địch từng bước, tiến lên làm lay chuyển toàn bộ chế độ của chúng, trên cơ sở đó sẽ phát động quần chúng giành chính quyền khi có thời cơ thuận lợi”.[54]

Nghị quyết 15 làm nức lòng cán bộ đảng viên và những người yêu nước miền Nam. Từ thế bó tay, chịu đựng vô vàn tổn thất nặng nề, các đồng chí và đồng bào thoát khỏi bế tắc đen tối. Phong trào cách mạng bắt đầu dâng cao mạnh mẽ.

Phong trào “Đồng khởi” ở Bến Tre (từ ngày 17/1/1960) tiếp đến chiến thắng Tua 2 (Tây Ninh, ngày 26/1/1960) tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng toàn tỉnh Biên Hòa. Đầu tháng 02/1960, Tỉnh ủy Biên Hòa mở hội nghị quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương và Nghị quyết của Xứ ủy Nam bộ. Căn cứ tình hình cụ thể, Tỉnh ủy chỉ đạo: “Cần sử dụng ngay lực lượng vũ trang của tỉnh tiến hành một đợt võ trang tuyên truyền, trọng điểm là các xã vùng chiến khu Đ thuộc huyện Tân Uyên. Đồng thời khẩn trương chuẩn bị lực lượng mở rộng địa bàn hoạt động xuống vùng giáp ranh huyện Vĩnh Cửu, bắt liên lạc với Huyện ủy Long Thành[55].

Các đồng chí đảng viên, đoàn viên lẻ và các cơ sở chí cốt kiên trì móc nối trở lại số bà con cảm tình ngay trong những ngày thoái trào đen tối, có nơi còn phát triển đảng viên, đoàn viên mới nên lực lượng cách mạng hồi phục nhanh chóng.

I.2. Phong trào nổi dậy của nhân dân Biên Hòa

Huyện Tân Uyên kề sát chiến khu Đ là nơi có phong trào diệt ác khá mạnh trước khi Nghị quyết 15 ra đời. Các đảng viên lẻ, cơ sở mật thấy rõ: chỉ một tên ác ôn có khi cũng khống chế, trấn áp, đe dọa đàn áp nhân dân một xã, một vùng. Phải diệt bọn phản động này thì lực lượng cách mạng mới bảo toàn. Hàng loạt tên ác ôn lần lượt bị trừng trị ở Giáp Lạc, Lạc An, Uyên Hưng (thị trấn Tân Uyên), Tân Phước Khánh, Phước Hòa, Bình Mỹ, Tân Hòa, Thái Hòa, Thường Lang, Tân Bình… [56].

Huyện Long Thành sau vụ Hà Tư phản bội đầu hàng vào cuối tháng 10/1959, phong trào cách mạng tổn thất nặng. Hàng trăm cán bộ đảng viên và cơ sở mật bị tù đày, không còn chi bộ nào mà chỉ còn một số đảng viên lẻ, cơ sở nòng cốt và quần chúng cảm tình. Một số đồng chí Huyện ủy viên còn lại đã kiên trì móc nối, xây dựng lại cơ sở và lực lượng quần chúng. Phong trào phục hồi khá nhanh. Huyện ủy chủ động cử hai cán bộ (Lương Văn Tấn và Năm Khích) đi tìm hiểu thực tế ở Tua Hai, Bến Tre để về áp dụng tại địa phương.

Bà con phấn khởi vì các chiến thắng Tua Hai, Bến Tre trong khi binh lính và tề vệ hoang mang giao động mạnh. Căn cứ tình hình cụ thể, Huyện ủy thấy có thể chớp thời cơ huy động quần chúng bức hàng đồn Gò Cát (nằm giữa hai ấp Bà Trường và Bàu Bông, quân số khoảng 1 trung đội 20 tên do tên cảnh sát Khá chỉ huy). Đêm 26/3/1960, Huyện ủy phân công anh Sáu Dũng phụ trách một bộ phận, anh Dẩu chỉ huy du kích mật phối hợp với chi bộ lộ huy động khoảng 150 quần chúng cơ sở nghi trang súng bập dừa và 2 súng lớn bằng cây gây nổ bằng khí đá (đặt trên 1 xe bò và chiếc xe đò tạm trưng dụng)[57]. Xe đò rọi đèn pha vào bót trong khi quần chúng đi lại thấp thoáng đằng xa như một đạo quân đông đảo. Ta phát loa kêu gọi gia đình binh sĩ vận động chồng con ra hàng sẽ được khoan hồng. Lính và dân vệ nằm im, ta ra lệnh: Không đầu hàng cách mạng sẽ nổ súng!. Địch im lặng chờ đợi, chiến sĩ ta được lệnh bắn một loạt mituyn và ném mấy trái thủ pháo vào làm cháy căn nhà trong bót. Bọn dân vệ hốt hoảng, lợi dụng đêm tối tháo chạy tán loạn. Du kích xung phong, bắt và xử lý ủy viên cảnh sát Khá và tên Lá ác ôn, thu 6 súng và nhiều đạn dược, quân trang.

Trận bức hàng bót Gò Cát (Phước An) mở đầu phong trào đồng khởi vùng Rừng Sác và cả huyện Long Thành chủ yếu bằng lực lượng chính trị và binh vận của quần chúng, có sự hỗ trợ của mũi võ trang.

Tháng 3/1960, đồng chí Ba Đắc (Nguyễn Trọng Cát) được Tỉnh ủy Biên Hòa cử xuống liên hệ với Huyện ủy Long Thành sau một thời gian đứt liên lạc. Đồng chí đưa về một tiểu đội võ trang đầy đủ vũ khí làm nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang huyện 19/5. Đơn vị này là số anh em đoàn viên Thanh lao của huyện ra đi năm 1957 theo yêu cầu của Liên tỉnh ủy miền Đông. Đêm 26/10, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Bí thư Huyện ủy, có nội tuyến Chín Nốp (Phạm Văn Lý) dẫn đường, anh Hai Sơn dẫn một tổ vũ trang 4 người cộng với 8 du kích mật Phước An đột vào nơi dân vệ ấp Bà Trường (Phước An) đang ngủ, diệt cảnh sát Há. Hai tiểu đội dân vệ chạy tán loạn, sau đó mất tinh thần, bị rã. Ta thu 7 súng và đạn dược rồi rút lui an toàn. 

5 giờ sáng ngày 3/11, được cơ sở xã Phước An tạo điều kiện, du kích và tổ bộ đội huyện hóa trang như lính bảo an tuần tra ập vào trụ sở xã, nổ vài loạt súng. Bị tập kích bất ngờ bọn tổng đoàn dân vệ tăng phái chạy tán loạn. Ta thu 6 súng, gom hết sổ sách đem đốt rồi rút lui an toàn. Trận đánh diễn ra chưa tới 10 phút. Bà con trong xã khen ngợi du kích và bộ đội mưu trí, gan dạ, đánh giỏi. Sau hai trận đánh ở Phước An, lực lượng vũ trang huyện Long Thành phấn khởi rõ rệt, khí thế lên cao.

Nhờ dân vận, binh vận giỏi, xây dựng được cơ sở, nắm chắc tình hình địch, lực lượng vũ trang liên tục giành hai thắng lợi liền. Đó là bài học vận dụng phương châm hai chân ba mũi của Đảng mà Huyện ủy Long Thành chỉ đạo chi bộ Phước An thực hiện tốt đẹp.

Ngoài việc phục vụ vũ trang đánh đồn, công tác dân vận, thông qua cơ sở quần chúng, giúp cho ta tiêu diệt nhiều tên ác ôn ở địa phương như Mười Hiếm (Nguyễn Văn Hiếu) là đại úy Nha đặc cảnh miền Đông (PSE), dân vệ Nửa ở Phước An, giáo Lưu chỉ điểm xã Phú Hội, mật báo viên Cao Văn Sâm ở sở cao su Bình Sơn, Nguyễn Văn Mạnh, phó trưởng ấp Đ xã An Lợi… Những cuộc diệt ác này có tác dụng răn đe bọn lăm le nhảy ra làm tay sai cho giặc. Một số tên co lại, bỏ đi nơi khác.

I.3. Phát triển lực lượng vùng đồng bào dân tộc ít người và nhiều nơi khác

Từ thời kháng chiến chín năm, đồng bào dân tộc Ch’ro đã có truyền thống yêu nước cao cả. Đồng chí Trịnh Văn Dục, Tỉnh ủy viên, trưởng Ban công tác dân tộc, cùng một số cán bộ: Hai Hồng, Bảy Phú… được cử lên vùng Lý Lịch, Phước Sang, Bàu Phụng, Bù Cháp, Tà Lài xây dựng làng xã chiến đấu, vận động đồng bào Ch’ro, Mạ, S’tiêng đi theo cách mạng. Năm 1959, sau khi bọn Ba Chánh, Hà Tư, Tư Cường, Mười Lồi đầu hàng dẫn địch đánh phá phong trào cách mạng toàn tỉnh thì cả tỉnh chỉ còn lại chi bộ Lý Lịch - Bù Cháp và chi bộ Thái Hòa. Người Ch’ro chí cốt với cách mạng, Mỹ - Diệm đem quân càn bố định gom dân Lý Lịch - Bù Cháp vào khu trù mật nhưng bà con dời làng vào rừng sâu, không muốn cảnh “cá chậu chim lồng”. Tuy thiếu đói vài tháng mỗi năm nhưng các đơn vị vũ trang cách mạng đầu tiên ở chiến khu Đ đã được bà con dân tộc Ch’ro, S’tiêng cưu mang chí tình. Ngày 30/7, lính đại đội 10 bảo an đi càn vào Lý Lịch, lực lượng vũ trang miền Đông đã cùng du kích xã chặn đánh, diệt 10 tên khiến chúng phải rút ngay. Bà con Ch’ro vẫn sống trong vùng giải phóng.

Tháng 7/1960, Tỉnh ủy quyết định lập Ban cán sự Đảng huyện Xuân Lộc (đồng chí Chín Sanh (Lê Văn Thậm) làm Bí thư, hai ủy viên là Chín Nhẫn và Ba Thái (Mai Hiển Thái). Ban cán sự liên lạc với đội công tác vùng cao su do đồng chí Tám Phụ (Phan Thành Phụ) hoạt động ở khu vực Cẩm Mỹ. Ban cán sự kiểm điểm đánh giá tình hình: Công nhân cao su - có cả người dân tộc thiểu số - dù đứt liên lạc, thiếu sự chỉ đạo nhưng vẫn tự động đấu tranh đòi quyền dân sinh. Ban cán sự tổ chức bốn đội công tác: đội 1 phụ trách vùng Trảng Táo, Gia Huynh; đội 2 phụ trách vùng Gia Ray; đội 3 phụ trách vùng cao su; đội 4 phụ trách Xuân Lộc, liên tục đột ấp để móc nối lại các cơ sở đứt liên lạc, đồng thời đẩy mạnh xây dựng cơ sở mới. Ở hướng quốc lộ 20, đội công tác võ trang tuyên truyền bám các làng Lý Lịch, Bù Cháp, Tà Lài ngăn chặn số làm be phá rừng, thu lương thực thực phẩm, diệt tề trừ gian hạ uy thế địch. Ở đồn điền cao su Cẩm Mỹ (Long Khánh), đội công tác của đồng chí Tám Phụ diệt tên cảnh sát ác ôn Năm Miên làm bọn tay sai không dám tung hoành như trước. Từ đó đến cuối năm 1960 phong trào cách mạng huyện Xuân Lộc phát triển mạnh, ta khôi phục và xây dựng được nhiều cơ sở ở các xã, các đồn điền cao su Ông Quế, Hàng Gòn, Bảo Bình, Suối Cát, Tân Phong …

Tại huyện Long Thành, đội võ trang tuyên truyền đồn điền cao su Bình Sơn được công nhân cao su ủng hộ, giúp đỡ đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền xây dựng tập hợp cơ sở, vừa diệt ác phá kềm để đưa phong trào tiến lên. Đội võ trang tuyên truyền diệt cai Minh là tên đầu hàng phản bội o ép quần chúng công nhân và hai tên mật vụ ác ôn khác làm bọn tề vệ Bình Sơn hoang mang giao động mạnh trong khi quần chúng rất phấn khởi. Đội tổ chức một số trận đánh địch, hỗ trợ phong trào tại chỗ[58] .

Tháng 9/1960, Xứ ủy Nam bộ sáp nhập hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một thành tỉnh Thủ Biên. Tỉnh ủy[59] ra nghị quyết: “Tiếp tục phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá thế kềm kẹp của địch, mở ra vùng tranh chấp mạnh; bung mạnh ra vùng yếu thị xã thị trấn; giáo dục, vận động quần chúng rút thanh niên xây dựng lực lượng vũ trang huyện, du kích xã; xây dựng cơ sở Đảng, Đoàn, Mặt trận, các đoàn thể quần chúng, tập hợp lực lượng đấu tranh bảo vệ quyền lợi của dân” 

Vùng tam giác với hai cạnh quốc lộ 1 và quốc lộ 20 là vùng trung tuyến tiếp giáp cửa ngõ chiến khu Đ, nằm trên hành lang từ chiến khu Đ về Long Thành, Bà Rịa, Long Khánh. Chính quyền Sài Gòn bố trí đông đảo đồng bào di cư miền Bắc ở đây nhằm các ý đồ xây dựng hậu thuẫn chính trị và bảo vệ các cơ quan, căn cứ quân sự đầu não ở tỉnh lỵ Biên Hòa. Để phá âm mưu của Mỹ và chính quyền tay sai, Tỉnh ủy quyết định thành lập Ban vận động di cư của tỉnh do đồng chí Năm Văn (Văn Công Văn), phó Ban Dân vận tỉnh, làm trưởng ban cùng hai ủy viên là Bảy Chặng (Nguyễn Văn Chặng) và Ba Rịch (Nguyễn Văn Danh). Nhiệm vụ của ban: thâm nhập xây dựng cơ sở cách mạng ở khu vực đông đồng bào công giáo di cư, đồng bào Tày Nùng di cư ở Đồng Lách, Sông Mây, Hố Nai. Ban vận động di cư là tiền thân của Ban Cán sự di cư sau này, cơ sở để hình thành huyện Trảng Bom năm 1966.

II. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM RA ĐỜI, GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC

Phong trào Đồng Khởi đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng toàn Miền. Trong không khí sục sôi cách mạng, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam khai mạc ngày 20/12/1960 tại Rùm Đuôn xã Tân Lập, huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh. Đại hội quyết định thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, ra bản Tuyên ngôn, trong đó có đoạn:

“Nguyện vọng cách mạng của đồng bào hiện nay là chấm dứt chế độ độc tài, tàn bạo, phải độc lập dân chủ, phải cơm no, áo ấm, phải hòa bình thống nhứt Tổ quốc. Thể theo nguyện vọng của đồng bào, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, nguyện gánh vác nhiệm vụ lịch sử giải phóng đồng bào ra khỏi ách nô lệ hiện nay. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và các thân sĩ yêu nước, không phân biệt xu hướng chánh trị, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ, thực hiện độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhứt Tổ quốc.

Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam kêu gọi toàn thể đồng bào muôn người như một hãy đoàn kết lại và dũng cảm đứng lên phấn đấu theo chương trình hành động tóm tắt sau đây:

1- Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chánh quyền độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ, thành lập chánh quyền liên minh dân tộc, dân chủ.

2- Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ, ban bố quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, tự do nghiệp đoàn, tự do đi lại và các quyền tự do dân chủ khác. Toàn xá chánh trị phạm, giải tán các trại tập trung, các khu trù mật và dinh điền, bãi bỏ luật phát xít 10/59 và các luật phản dân chủ khác.

3- Bãi bỏ độc quyền kinh tế của đế quốc Mỹ và bọn tay sai bảo vệ hàng nội hóa, khuyến khích công thương nghiệp trong nước, mở mang nông nghiệp, xây dựng một nền kinh tế dân chủ. Giải quyết công ăn việc làm cho những người thất nghiệp, tăng lương cho công nhân, binh lính và viên chức, bãi bỏ phạt vạ vô lý, thi hành chánh sách thuế khóa công bằng và hợp lý. Giúp đỡ cho đồng bào di cư muốn trở về xứ sở, giúp đỡ công ăn việc làm cho những người muốn ở lại.

4- Thực hiện giảm tô, đảm bảo nguyên canh, chia lại công điền tiến tới cải cách điền địa.

5- Bài trừ văn hóa nô dịch, đồi bại kiểu Mỹ, xây dựng một nền văn hóa giáo dục dân tộc và tiến bộ, xóa bỏ nạn mù chữ, mở mang trường học, cải cách chế độ học tập và thi cử.

6- Bãi bỏ chế độ cố vấn quân sự Mỹ, xóa bỏ các căn cứ quân sự của nước ngoài ở Việt Nam, xây dựng quân đội dân tộc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.

7- Thực hiện nam nữ bình quyền, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc và thực hiện quyền tự trị của các dân tộc thiểu số.  

8- Thực hiện chánh sách ngoại giao hòa bình, trung lập, đặt quan hệ với tất cả các nước tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam. Bảo vệ và chăm sóc quyền lợi của kiều bào ở hải ngoại.

9- Lập quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhứt Tổ quốc.

10- Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hòa bình thế giới”[60]

Mục tiêu đấu tranh của Mặt trận ngắn gọn, cô đúc dễ nhớ, dễ hiểu: “Phải độc lập! Phải dân chủ! Phải cơm no, áo ấm! Phải hòa bình thống nhất Tổ quốc!” Nội dung văn kiện của Đại hội toát lên tinh thần đại đoàn kết toàn dân, nhiệm vụ độc lập dân tộc được đặt ra ở mức cao nhất, còn nhiệm vụ dân chủ thì mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với tính chất rộng rãi bao gồm nhiều thành phần: giai cấp, dân tộc, tôn giáo, xu hướng xã hội... của Mặt trận miễn là cùng chung ý nguyện đánh đổ Mỹ - Diệm, thống nhất đất nước. Vì vậy các tầng lớp nhân dân miền Nam mừng vui chào đón sự kiện Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.

II.1. Phong trào đấu tranh ở Biên Hòa chào mừng Mặt trận ra đời

Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, phong trào cách mạng của nhân dân Biên Hòa, Long Khánh tiếp tục thu nhiều thắng lợi lớn do tập hợp đoàn kết được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân.

Cao trào đồng khởi tiếp tục dâng cao trong toàn tỉnh Biên Hòa, các địa phương thi đua lập thành tích chào mừng Mặt trận dân tộc giải phóng ra đời. Chỉ trong tháng 01/1961, ngụy quyền tỉnh Biên Hòa liên tục báo cáo “hoạt động của Việt cộng diễn ra hầu như hàng ngày[61]:

Khu trù mật Hang Nai được Mỹ – Diệm lập vào khoảng năm 1957-1958 để gom dân Rừng Sác vào trại tập trung. Chúng cho xe ủi mở đường từ đây ra lộ liên tỉnh 19 xã Phước Long. Hàng ngày, hai tiểu đội lính chủ lực đi bảo vệ cho xe ủi làm việc từ khi vùng này “kém an ninh” sau ba lần cán bộ, du kích và nhân dân Phước An bức hàng, đánh dân vệ xã và tổng đoàn dân vệ Thành Tuy Hạ. Được cơ sở và nội tuyến báo tin về qui luật hoạt động của bọn này, lực lượng vũ trang huyện tổ chức trận phục kích hồi 16 giờ 30 chiều 17/1/1961. Kết quả ta diệt làm bị thương 3 tên, thu 5 súng[62].

Đánh thắng lính chủ lực Sài Gòn bằng lực lượng tương đương (ta dùng 2 tiểu đội) là bước tiến lớn của bộ đội huyện Long Thành; chiến thắng này có sự giúp đỡ tích cực của nhân dân xã Phước An.

Đêm 16/3, được các cơ sở báo tin và tận tình giúp đỡ, tiểu đoàn 800 của Khu đã diệt chi khu Hiếu Liêm, thu 1 khẩu pháo 105 mm. Cùng đêm, du kích xã Trị An phối hợp với bộ đội huyện Vĩnh Cửu đánh trụ sở xã Trị An. Hoạt động quân sự của ta gây thối động cả vùng phía Bắc Vĩnh Cửu.

Phúc trình của tỉnh trưởng Biên Hòa liên tục báo cáo những tin không vui về phong trào quần chúng diệt ác phá kềm sôi nổi như những tín hiệu nhân dân nhất tề vùng lên xông pha vượt qua bão bùng, ngọn lửa chiến tranh du kích đang thiêu rụi chiến lược chiến tranh cảnh sát (chiến tranh một phía) của Mỹ - Diệm.

Phong trào cách mạng đồn điền cao su Bình Sơn vào giữa năm 1961 phát triển mạnh. Được giáo dục, khơi gợi tinh thần yêu nước và tổ chức chặt chẽ, các cơ sở mật trong công nhân tận tình giúp lương thực thực phẩm cho lực lượng vũ trang huyện và du kích địa phương. Bà con và nội tuyến báo ra tình hình địch bố trí để lực lượng vũ trang ta có kế hoạch tổ chức đánh chốt Bình Sơn do bọn lính bảo an và dân vệ đóng giữ. Đồng thời ta trừng trị tên chủ sở đồn điền cao su, với quyết định nêu rõ tội trạng của hắn và kêu gọi các Pháp kiều làm ăn tại miền Nam không tiếp tay đế quốc đàn áp công nhân (xem phần phụ lục “Phúc trình số 1954-VP/M ngày 15/6/1961 của tỉnh trưởng Biên Hòa gửi bộ trưởng bộ Nội vụ Sài Gòn”, kèm theo quyết định của quân giải phóng, lưu trữ kho Lưu trữ Trung ương II)

Ở một số đồn điền cao su khác, ta cũng bắt để giáo dục hoặc gửi thơ cho giám đốc người Pháp yêu cầu tôn trọng công nhân Việt Nam và đóng thuế cho Mặt trận dân tộc giải phóng, kết quả họ chấp hành tốt.

Khi phong trào cách mạng còn gặp khó khăn, Huyện ủy Long Thành đã nhận con em một số gia đình gửi ra sống ở căn cứ để khỏi bị bắt lính, gia đình vui lòng góp gạo tiền hàng tháng nuôi con em mình. Phong trào lên cao, được cán bộ cơ sở Mặt trận dân tộc giải phóng giáo dục vận động, số thanh niên tình nguyện đi thoát li càng đông đảo hơn. Để không cho địch có cớ khủng bố gia đình anh chị em, ta tổ chức một số cuộc “bắt cóc”. Hội đồng xã báo cáo lên quận, quận báo cáo tỉnh, tỉnh trưởng báo cáo lên bộ trưởng Nội vụ Sài Gòn.[63]

II.2. Mặt trận dân tộc giải phóng đoàn kết các tầng lớp nhân dân Biên Hoà - Long Khánh chống Mỹ - Diệm

II.2.1. Đồng bào công giáo theo cách mạng

Bà Tư Cao (Maria Magdalena Lê Thị Tư) - một tín đồ công giáo ở xã Phú Hội (Nhơn Trạch) - kể lại: luận điệu tuyên truyền chống cộng của địch tuy vô lý song dai dẳng nên làm một bộ phận đồng bào công giáo địa phương ngộ nhận cách mạng. Địch hàng ngày rêu rao: cộng sản là người gì ở đâu tới, không phải là người Nam, lại có đuôi, riết rồi cũng có một số người tin và sợ cộng sản. Năm 1961 bà được ông Hai Muôn (tức Hai Mến) - cán bộ bám trụ địa phương - tuyên truyền giác ngộ lúc đang làm công nhân cạo mủ sở cao su nhà thờ Ông Cố (Phú Hội). Một lần bà được móc nối ở ngoài lô. Bà nghe ông Hai nói chuyện rồi gặp mấy anh em giải phóng. Bà đi vòng ra phía sau hai ba anh em, họ hiền khô, bà dòm kỹ thì không thấy có gì lạ (không có đuôi) và nghe anh em nói tiếng Nam rặt. Bà mừng lắm, bữa sau kể chuyện mà như reo lên với nhiều người quen cùng đi cạo: “Việt cộng là người Việt Nam bay ơi! Việt Nam bay ơi!”, góp phần xóa đi một luận điệu tuyên truyền phản động của địch. Từ đó bà vẫn đi lễ và trở thành nòng cốt cách mạng của xã liên tục bám trụ địa bàn, xây dựng anh chị em công nhân thành cơ sở và vận động nhiều gia đình công giáo ủng hộ giúp đỡ kháng chiến [64]. Đây chỉ là một trong hàng ngàn dân công giáo được giác ngộ từ thực tế.

II.2.2. Cán bộ Mặt trận dân tộc giải phóng tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc Nùng, Tày, Hoa di cư tham gia chống Mỹ cứu nước

Bà con di cư - dù là người dân tộc Tày, Nùng, Hoa hay người công giáo Việt - đều rất sợ cộng sản Bắc Việt vì báo chí và radio Sài Gòn liên tục ra rả xuyên tạc bôi nhọ cách mạng. Những người di cư miền Bắc mặc cảm có lỗi vì bỏ quê hương vào Nam theo Mỹ-Diệm.

Giữa năm 1961, Ban công tác di cư cử đồng chí Năm Triết (Lê Văn Triết) thâm nhập vùng đồng bào di cư [65]. Cùng là dân di cư song đồng bào công giáo được chính quyền Diệm ưu đãi hơn người Tày Nùng và làm hai cộng đồng này không ưa nhau. Anh Năm Triết cân nhắc trước hết xây dựng được cơ sở trong đồng bào Nùng (di cư) rồi mới tiến tới xây dựng cơ sở là người công giáo. Anh thấy rõ phải mang lại cho bà con lợi ích thiết thực trong lao động sản xuất và đời sống, thì mới gây được cảm tình với bà con. Nhiều gia đình người Tày, Nùng ở Đồng Lách làm ruộng rẫy toàn cuốc bằng tay rất vất vả. Anh làm quen, giúp bà con cấy gặt; vận động họ không đóng thuế cho chính quyền: “Bà con mình nghèo quá, gia đình làm bằng cuốc không đủ ăn. Ruộng này là của Nhà nước chớ không phải của tư nhân, thôi bây giờ mình bảo nhau đừng đóng thuế nữa để còn giải quyết đời sống cho vợ con. Cứ nói ruộng rẫy bị heo rừng, thú rừng phá hoại, “làng” không tin thì vô mà coi; chắc chắn hội đồng xã không dám vô đâu!” Phong trào cách mạng lúc ấy lên cao, tề vệ quả nhiên ngán không dám vào vùng hẻo lánh. Thắng lợi không phải đóng thuế làm bà con bước đầu tin và mến. Anh tiếp tục giải thích: “Cuốc tay vừa chậm vừa mệt, cực quá, nên mướn trâu cày cho đỡ vất vả”. Anh về quê Tân Định mướn 4 con trâu đưa qua Đồng Lách, cứ hai gia đình một con và chỉ cho họ cách cày bừa. Đến mùa trả lúa, anh nhắn chủ trâu sang giáp mặt đồng bào để giải quyết công trâu; xong xuôi anh mới dẫn trâu về Tân Định trả cho chủ. Anh trở thành người quen thuộc của bà con Đồng Lách. Anh xin Ban công tác di cư một chiếc radio, ban đêm mang vào chòi rẫy mở đài cho đồng bào nghe. Bà con đã giúp đỡ, cho ăn uống chút đỉnh, anh mới tuyên truyền Cương lĩnh của Mặt trận dân tộc giải phóng. Như vậy một số đồng bào di cư Nùng bước đầu hiểu và tin cách mạng thông qua sự giúp đỡ cụ thể, hiệu quả của cán bộ đảng viên ta. Từ đó, Ban công tác di cư cử thêm hai đồng chí Ba Rịch và Bảy Chặng lập tổ công tác gọi là đội võ trang tuyên truyền do anh Năm Triết làm đội trưởng. Nhiệm vụ của đội: tuyên truyền 10 chánh sách của Mặt trận, đặc biệt là chánh sách dân tộc và tôn giáo, xây dựng cơ sở mật và lực lượng lộ bên ngoài, diệt ác phá kềm hỗ trợ quần chúng đấu tranh, chỉ đạo quần chúng chống đóng thuế, chống bắt lính, chống phạt vạ (và sau này đấu tranh chống phá ấp chiến lược).

Từ số cảm tình người Nùng như các ông Hà Thu Minh, Ba Bằng (VàyASám)[66] Lăng Cai Phí, các anh Ba Chốm (Vi Văn Khí)[67], Tư Khí, chị Sáu Mỹ (Hà Thị Mỹ) … tổ công tác vươn ra tìm hiểu để thâm nhập vùng đồng bào công giáo di cư. Phục vụ cho cuộc võ trang tuyên truyền, đội trưởng Năm Triết đi hợp pháp ra Đồng Lách nghiên cứu kỹ địa vật, dân cư sinh sống thế nào, họp ở đâu? … Biết gia đình cô Mây - tín đồ công giáo - sắp có đám cưới, đội quyết định tổ chức tuyên truyền về Mặt trận ngay ở đám cưới. Đêm đó, anh em vào ấp, gặp trưởng ấp Hứa - tên này tưởng là lính vào làng, đón mừng xưng danh - anh em giáo dục tại chỗ. Ta tổ chức canh gác chặt chẽ quanh nhà có đám cưới đang đông người dự, anh Tư Bình lên nói chuyện vạch trần âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ và hành động bán nước của bè lũ Diệm - Nhu, phân tích rõ đâu là kẻ thù cần đánh đổ… Vài anh khác đi rải truyền đơn của Mặt trận khắp ấp. Hôm sau, đồng bào ra ruộng đi làm như thường, bàn tán râm ran Việt cộng về đông lắm[68]. Đồng bào công giáo gặp anh em ta tuy vẫn sợ nhưng vẫn tiếp xúc trò chuyện. Anh em tiếp tục dân vận bằng việc giúp đỡ bà con cấy hái, đập lúa, hớt tóc cho nam giới và trẻ em do đó càng thu hút cảm tình hơn. Từ đó, các anh tổ chức được cảm tình công giáo là gia đình cô Mây… Thông qua một số cơ sở ban đầu, đội được tăng cường lực lượng, đã phát triển thêm hàng chục cơ sở, cảm tình khác ở các ấp Bùi Chu, Trà Cổ… Lòng yêu nước của đồng bào di cư Nùng và công giáo được khơi dậy. Từ đó, truyền đơn, cờ Mặt trận bắt đầu xuất hiện dọc theo quốc lộ 1 từ Hố Nai lên đến Trảng Bom.

Tháng 7/1961, tỉnh Thủ Biên tách ra thành hai tỉnh: Biên Hòa và Thủ Dầu Một như cũ. Bí thư Tỉnh ủy là đồng chí Năm Chữ (Lê Quang Chữ).

Trung ương Cục giao nhiệm vụ cho Quân khu miền Đông tổ chức đơn vị xây dựng căn cứ khu A mang phiên hiệu C.150. Tháng 9/1961, đơn vị xây dựng căn cứ khu A đổi phiên hiệu thành đơn vị U.50 do đồng chí Tư Thược (Lâm Quốc Đăng) làm Bí thư, đồng chí Năm Ninh phụ trách quân nhu, đồng chí Mười Bị phụ trách sản xuất của cơ quan đoàn, đồng chí Hai Cà (Trần Công An) phụ trách sản xuất chung. Nhiệm vụ của U.50 là:

- Xây dựng căn cứ khu A thành căn cứ địa hoàn chỉnh. Vận động đồng bào các dân tộc Ch’ro, S’tiêng tham gia kháng chiến, sản xuất và bảo vệ căn cứ địa.

- Mở rộng sản xuất nông nghiệp (làm nương rẫy trồng khoai mì, bắp…) để có dự trữ lương thực thực phẩm đón các đoàn cán bộ chiến sĩ từ miền Bắc chi viện chiến trường B.2 (Nam bộ).

- Xây dựng lực lượng vũ trang tập trung cơ động  (quân số chừng 2 tiểu đoàn), tổ chức du kích địa phương để bảo vệ sản xuất, bảo vệ đường dây giao liên nối từ Trường Sơn - Tây Nguyên qua chiến khu Đ một nhánh về Biên Hòa, Bà Rịa, một nhánh khác đến căn cứ mới của Trung ương Cục ở chiến khu Dương Minh Châu. (Theo Trần Công An: Người chiến sĩ đặc công, hồi ký, nxb THĐN, 2002)

Chỉ khoảng một năm sau, với quân số chưa tới 500 người mà 60% là nữ, Đoàn hậu cần U.50 đã trồng được trên một ngàn mẫu khoai mì. Các thủ trưởng đơn vị lo gạo, muối cho bà con dân tộc thiểu số và nhờ bà con hướng dẫn cho đơn vị về chặt hạ cây rừng sao cho tốn ít công, không bị tai nạn cây đè. Mặt khác, bà con phụ giúp đơn vị phòng gian, phòng gián điệp từng khu vực. Làm nương rẫy, phải có dao rựa, cuốc xẻng song lúc đó đơn vị không có kinh phí mua sắm. Đoàn cử cán bộ ra vùng kềm, mời một ông thợ rèn giỏi vào căn cứ mở lớp dạy các tổ làm sắt (còn nguyên liệu thì đi kiếm, chủ yếu là chiến lợi phẩm: vỏ đạn đại bác, tháo gỡ đường xe lửa Sài Gòn - Lộc Ninh cưa thành khúc ngắn chở về… ). Kết quả Đoàn hậu cần U.50 chẳng những bảo đảm cái ăn cho toàn đơn vị, mà còn cung cấp lương thực thực phẩm cho nhiều đoàn cán bộ chiến sĩ đi công tác ngang qua; đó là thắng lợi của công tác dân vận - Mặt trận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Ngày 18/9/1961, chi khu Phước Thành bị diệt. Trên đà chiến thắng, ta đẩy mạnh võ trang tuyên truyền diệt ác phá kềm ở Tân Uyên, Vĩnh Cửu (các xã Bình Phước, Bình Hòa, Tân Triều, Bình Ý, Lợi Hòa) cộng với cuộc mít tinh chớp nhoáng ở rạp Bến Cá (Bình Phước) gây tiếng vang trong toàn vùng.

Cho đến gần cuối năm 1961, phong trào cách mạng miền Nam lên cao với khí thế sôi nổi chưa từng có. Chúng ta đã ra khỏi thời kỳ đen tối, chuyển mạnh sang thế tiến công đều khắp. Nhà trắng[69] phải thừa nhận: “Tình hình Việt Nam hết sức nghiêm trọng, hoạt động quân sự của Việt cộng dưới các hình thức đột kích, tập kích, công đồn liên tiếp xảy ra, đấu tranh chính trị phát triển đến mức đáng lo ngại… Vấn đề Nam Việt Nam sau đồng khởi không còn là vấn đề đơn thuần về chính trị và tình báo cảnh sát nữa mà trở thành vấn đề chứa nhiều nhân tố quân sự. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam thực chất là cuộc nổi dậy nên hướng chiến lược mới của Mỹ là phải chống nổi dậy”. Chiến lược chiến tranh một phía hoàn toàn phá sản, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược chiến tranh đặc biệt (còn gọi là chiến lược chống chiến tranh du kích).

III. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG ĐOÀN KẾT NHÂN DÂN GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” (1961-1965)

III.1. Mỹ - Diệm thực hiện quốc sách “ấp chiến lược”

Tổng thống Mỹ Kennedy (Ken-nơ-đi) cử tiến sĩ Staley - và tiếp đó tướng Taylor - sang miền Nam Việt Nam trực tiếp nghiên cứu kế hoạch tiêu diệt chiến tranh du kích của cách mạng miền Nam. Chương trình bình định do Staley-Taylor vạch gồm ba giai đoạn:

- Giai đoạn 1: thực hiện trong 18 tháng với nội dung: gom khoảng 800 ngàn dân đồng bằng Nam bộ vào 1000 khu trù mật, ấp chiến lược để tách lực lượng cách mạng khỏi nhân dân.

Khai quang, lập hệ thống cứ điểm ven biên giới, ngăn chặn cộng sản xâm nhập. Tăng lực lượng quân đội Sài Gòn lên 15%, nhất là bảo an, dân vệ.

- Giai đoạn 2 và giai đoạn 3: khôi phục và phát triển kinh tế.

Mỹ - Diệm chủ trương lấy ấp làm đơn vị cơ bản để bình định chống chiến tranh du kích, biến từng ấp - tiến tới từng xã - thành “pháo đài chống cộng”, cô lập vùng căn cứ, làm lực lượng cách mạng suy yếu đi đến chỗ bị tiêu diệt. Tháng 11/1961, Tổng thống Mỹ và Hội đồng an ninh Mỹ chính thức thông qua kế hoạch này. Cốt lõi của chiến lược này là “quốc sách ấp chiến lược” được Ngô Đình Diệm ban bố vào tháng 8/1962.

Địch mở các lớp huấn luyện cán bộ đặc trách ấp chiến lược cho tất cả các quan chức cao cấp trong chính quyền từ hàng bộ trưởng trở xuống, còn bên quân đội thì gồm các sĩ quan chỉ huy tiểu khu, chi khu …[70]. Địch xây dựng ấp chiến lược nhằm ba mục tiêu:

Thứ nhất, chúng quyết tâm giành dân hòng “tát nước bắt cá”.

Thứ hai, địch vạch kế hoạch “tình báo nhân dân” nhằm biến từng người dân thành do thám, gián điệp báo ngay tin tức cán bộ về hoạt động cho tề vệ ấp hoặc những người dân bị tình nghi móc nối với cách mạng.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác “chiêu hồi” lôi kéo số tha hóa, biến chất.

Dưới đây là kế hoạch lập liên ấp chiến lược kiểu mẫu Phú Thạnh - Phú Mỹ xã Xuân Lộc quận Xuân Lộc do tỉnh trưởng Long Khánh trực tiếp chỉ đạo [71]:

“Xung quanh ấp chiến lược có con đường rộng 6 mét. Kế đường là lũy đất cao 2 thước, chân lũy 3 thước, mặt lũy 1 thước. Trên mặt lũy có hàng rào kẽm gai cao 1 thước 50. Kế lũy đất là bờ đất rộng 2 thước, giữa bờ này đắp một đường mô đất cao 0 th 40, rộng 0 th 40 trên mặt trồng loại cây có gai (xương rồng, me nước…) để làm chướng ngại vật vừa ngăn được nước mưa không làm trôi đất xuống hố. Kế bờ là hố. Hố đào rộng 3 thước, đáy 1 thước. Như vậy, qua mùa mưa đất bờ thành hai bên sẽ không lở. Bề sâu hố 2 thước làm cho một người khi lọt xuống khó lòng trèo lên. Kích thước của hố sẽ giúp lấy đủ đất để đắp lũy. Cách miệng hố 5 thước là hàng rào cao ít nhất 2 thước vòng ngoài: hàng rào này sẽ xuyên qua vườn tược, song triệt để giữ nguyên tình trạng cây cối của đồng bào không nên đốn. Một vài đoạn vành đai gặp đá không đào được, đồng bào Xuân Lộc kiếm đá đắp thành lũy kích thước như lũy đất. Từ rào ngoài đến rào trong đều có chông sắt, chông cây xen kẽ. Cách xếp chông tuỳ sáng kiến của địa phương cốt ngụy trang thế nào để kẻ phá hoại muốn tràn vào sẽ gặp những khó khăn bất ngờ mà không vượt qua nổi”.

Trong báo cáo của Tham mưu Biệt bộ đệ trình Tổng thống (số 21/TTP/TMBB) thì Long Khánh: “quan niệm lập ấp chiến lược của tỉnh là tiến từ vùng an ninh đến vùng bất an ninh. Thứ tự ưu tiên thực hiện thí điểm: liên ấp Xuân Lộc, ấp Gia Ray, ấp Bảo Chánh, ấp Thọ Vực, ấp Bảo Vinh A, ấp Bảo Vinh B, ấp Bảo Vinh C … Chi tiêu cho một ấp chiến lược 431.600 đồng Sài Gòn. Lực lượng quân sự yểm trợ là 2 đại đội hành quân (để gom dân). Lực lượng bảo vệ mỗi ấp là 1 trung đội bảo an, dân vệ. Cán bộ thực hiện: 3 cán bộ công dân vụ, 2 công an, 1 nhân viên y tế, 1 nhân viên hành chánh xã do quận trưởng, quận phó kiểm tra thường xuyên. Địch đánh giá: “Nếu lập các ấp chiến lược kể trên, có thể chặn Việt cộng tái lập các chiến khu cũ: Thọ Vực, Sabi, Đồng Háp; chặn trục giao liên Thanh Sơn - Sabi - Thọ Vực - Thoại Hương; bảo vệ thiết lộ đoạn Xuân Lộc - Bảo Chánh - Gia Lào - Gia Ray”.

Ở vùng đồng bào công giáo di cư như Hố Nai, Trảng Bom, Gia Kiệm, Gia Tân, Lạc An, Thái Hưng, dinh điền Ích Tân… địch tung luận điệu lừa bịp “chống cộng để bảo vệ đạo”. Các đội thanh niên chiến đấu được trang bị vũ khí để canh gác, biến ấp chiến lược thành pháo đài chống cách mạng cuồng tín. Ở các đồn điền cao su, chính quyền Diệm buộc các chủ sở phải gom công nhân các sở nhỏ (hoặc đội ở xa) về các trung tâm đồn điền để xây dựng ấp chiến lược. Kho gạo, két tiền phải để ở Sài Gòn hoặc tỉnh lỵ. Một số yếu khu quân sự: Trảng Bom, Cẩm Mỹ, An Lộc… đặt tại đồn điền. Tỉnh trưởng Long Khánh gửi cho giám đốc người Pháp các sở cao su SIPH, Courtenay, SPHXL công văn 17-NA/CT/M ngày 8/1/1962 yêu cầu họ hạn chế đi lại và cho rào quanh sở bằng 2 hàng rào lưới sắt cao từ 3 đến 4 thước, cách nhau khoảng 10 đến 20 thước. Song các ngoại kiều không hưởng ứng kế hoạch này vì họ không muốn vào ở ấp chiến lược “xung quanh đào hào đắp luỹ như vậy sẽ giống trong khám tù” (lời của Ernest Girard, giám đốc công ty SIPH nói với viên phụ tá tỉnh trưởng đặc trách ấp chiến lược). Họ còn sa thải Đoàn Văn Hộ, đại diện xã An Lộc và Phan Kế Thiện, đại diện xã Cẩm Mỹ[72] là nhân viên lâu năm của sở nhưng không làm việc sở mà chỉ lo đôn đốc làm ấp chiến lược.

III.2. Mặt trận Dân tộc giải phóng vận động nhân dân phá ấp chiến lược

Đầu năm 1962, Ban cán sự Đảng tỉnh Long Khánh được thành lập do đồng chí Chín Sanh (Lê Văn Thậm) làm bí thư. Các đồng chí móc nối với số cơ sở, nòng cốt các xã, tiến hành chỉ đạo diệt ác phá kềm dưới danh nghĩa Mặt trận Dân tộc giải phóng. Tháng 01/1962, trưởng ấp Suối Rết xã Xuân Lộc (tỉnh lỵ Long Khánh) bị diệt. Tiếp đó, được cơ sở và đồng chí Ba Hương (Nguyễn Văn Hương) báo tin và dẫn đường, đồng chí Tư Lạc (Phạm Lạc) - trưởng ban quân sự huyện Xuân Lộc - hóa trang làm quận trưởng ngụy đi tuần, trực tiếp dẫn 1 tiểu đội lực lượng bí mật đột nhập trường học ấp Bảo Vinh B bắt gọn 21 nhân viên tề vệ đang họp bàn kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược. Cùng thời gian, đội võ trang tuyên truyền của đồng chí Tám Phụ được cơ sở mật cung cấp tin tức và dẫn đường đã đánh bót Hưng Nghĩa, diệt tên trưởng ấp ác ôn hỗ trợ đồng bào phá kềm, vận động được một số thanh niên thoát li theo cách mạng. Tiếp đó, cơ sở báo cáo tình hình địch tạo điều kiện cho đội võ trang tuyên truyền đột kích phá đồn dinh điền Bình Phú, làm tan rã đội dân vệ, thu 27 súng và nhiều quân trang quân dụng. Những thắng lợi này của ta bước đầu bẻ gãy âm mưu xây dựng, củng cố bộ máy tề vệ của địch, mở rộng thế làm chủ của ta ở vùng ven tỉnh lỵ Long Khánh, gây niềm phấn khởi cho đông đảo nhân dân hướng về cách mạng.  

Cũng vào những ngày đầu năm, cán bộ Mặt trận vận động dân vệ đồn Tân Hạnh nổi dậy phá bót mang vũ khí về với nhân dân. Nhưng kế hoạch không thành, hai anh Mạnh và Thành vác súng ra căn cứ đồi Hố Ngựa. Sau đó, một số dân vệ và nam nữ thanh niên cũng ra theo: anh Gắt, anh Bảy Hơn, anh Tâm, cô Hồng… tổ chức thành lực lượng du kích của xã do anh Mười Chùm (Nguyễn Văn Chùm) làm xã đội trưởng, anh Hưng (Huỳnh Văn Thành) là xã đội phó.

Tháng 3/1962, địch mở chiến dịch Mặt trời mọc ở miền Đông Nam bộ. Hàng trung đoàn lính chủ lực, bảo an, cảnh sát công an được huy động vào việc càn quét gom dân lập ấp chiến lược trên diện rộng: các xã Tân Hạnh, Bửu Hòa, Hóa An… ở quận Châu Thành và Dĩ An, nhiều xã thuộc quận Tân Uyên (lúc này thuộc tỉnh Phước Thành) bên bờ phải sông Đồng Nai, các đồn điền cao su Dầu Giây, Hàng Gòn, Suối Tre, Bình Lộc, Cây Gáo, Cẩm Mỹ… các ấp và xã Bảo Bình, Bảo Vinh, Bảo Chánh, Gia Ray… tỉnh Long Khánh.

Ở xã Tân Hạnh, địch tính gom dân xóm Chùa và xóm Miễu Bòng bong ra cặp lộ 16 - như kiểu lập “chu vi” thời kháng chiến chín năm[73]. Cán bộ Mặt trận chỉ đạo số cơ sở nòng cốt và cảm tình vận động đông đảo bà con đấu tranh đưa đơn kiến nghị viện cớ không bám ruộng vườn thì đời sống đói khổ, mặt khác kiên quyết “một tấc không đi, một li không rời”. Bọn tề vệ nhận được thơ cảnh cáo: không được thúc ép mà phải can thiệp với quận không cưỡng bức dân dời nhà vào ấp chiến lược. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ, địch nhượng bộ một bước, thực hiện phương án rào xã Tân Hạnh thành 4 ấp chiến lược theo địa bàn dân cư trú. Chúng bắt mỗi người từ 18 đến 50 tuổi phải đào 2 mét hào (rộng 3,5 mét, sâu 1,5 mét), góp 20 chông tre. Các ấp 1 và 2 rào trước, ấp 3 bắt đầu chậm lại vì cơ sở và cảm tình ra sức vận động bà con trốn tránh, lãn công, vin cớ đau yếu, bận làm mùa … và không góp chông, góp tiền. Kéo dài gần 1 năm, công việc vẫn dở dang, rút cục chỉ 3/4 ấp là ấp chiến lược mà thôi.

Ở quận Nhơn Trạch, địch lập “ấp chiến lược kiểu mẫu” Phú Thạnh nằm giữa Bàu Lòng và Long Tân để gom dân Phú Thạnh và vùng chung quanh vào đó. Chúng cắm mốc rào khu vực rộng tới mấy cây số vuông, ngoài cùng đào hào cắm chông, đất đem đắp lũy trổ nhiều lỗ châu mai. Bót đặt giữa ấp với đủ hầm hố chiến đấu. Chúng bắt dân học quốc sách “ấp chiến lược”, làm xâu không công. Dân khổ cực vì công việc nặng nhọc lại còn bị chửi mắng thúc ép nên rất bất mãn. Lợi dụng mâu thuẫn sâu sắc này, cán bộ và cơ sở, nòng cốt ta tuyên truyền giáo dục nhân dân chống phá âm mưu thâm độc của địch.

Huyện ủy Long Thành được Khu ủy và Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp phải tích cực chống phá kế hoạch lập ấp chiến lược của Mỹ - Diệm, đã họp bàn: phá ngay khi địch đang làm thì ít khó khăn, tránh tổn thất. Cơ sở mật thông báo tin tức: số dân bị gom còn ít, bà con bất mãn nên làm chiếu lệ, ban đêm lính hầu như rút vào chi khu Nhơn Trạch, có khúc hào đào xong, có khúc dở dang, rào chưa có, ở giữa ấp có nhà kho chứa cuốc xẻng…  Một số cán bộ Huyện ủy đột vào Phú Thạnh điều nghiên, vạch phương án tác chiến. Lực lượng phá ấp chiến lược huy động khoảng 100 cán bộ, đồng bào bốn xã Phước An, Phước Thọ, Phước Thiền, Phú Hội. Mỗi người bí mật chuẩn bị một cây dài chừng 5 mét làm cầu vượt hào.

Một đêm cuối quí 1/1962, ta ra quân. Lực lượng vũ trang huyện 19/5 và một số du kích các xã triển khai đội hình bảo vệ phía ngoài. Ban chỉ huy ra lệnh tiến công. Anh em bắc cây làm cầu vượt hào, vào phá các sườn nhà đang dựng, phá kho lấy dao rựa, cuốc xẻng bang đất san lấp vài đoạn hào. Chỉ khoảng một giờ sau, lực lượng ta xóa kết quả xây dựng mấy tháng của địch rồi rút lui an toàn. Bộ đội bắn vài loạt súng thị uy để bữa sau dân bị gom có cớ đấu tranh không làm. Đây là trận mở màn phá ấp chiến lược đầu tiên trong hai quận Long Thành, Nhơn Trạch. Khu ủy miền Đông cử các đồng chí Hai Lực và Sáu Phát về kiểm tra, đánh giá phong trào đấu tranh do Huyện ủy lãnh đạo có bước phát triển.

Rõ ràng việc chống phá ấp chiến lược phải kết hợp cho được hai lực lượng bên trong và bên ngoài ấp; kết hợp được hoat động vũ trang với đấu tranh chính trị và sự góp sức của đồng bào cơ sở bên trong ấp.

III.2. Nhân dân đấu tranh chống Mỹ rải chất độc hóa học

Ngày 23/4/1962, tiểu khu Biên Hòa công bố kế hoạch 212-63 của Mỹ-Diệm thí điểm rải chất độc hóa học (mà chúng gọi hoa Mỹ là chất khai quang) ở quận Long Thành. Vùng cao su Bình Sơn - An Viễn (tọa độ YS 02.959) là một trong những điểm đầu tiên bị rải chất độc hóa học. Từ ngày 26/5, cứ từ 4 giờ đến 5 giờ sáng sương đêm chưa tan, trời lặng gió, máy bay C.47 Mỹ cất cánh từ sân bay Biên Hòa bay ở độ cao 200 - 300 mét đến tọa độ chấm trước, bắt đầu rải. Chất độc màu da cam rơi xuống, bám chặt vào lá cây, ngọn cỏ. Chỉ vài ngày sau, lá cây có nhựa vàng úa rồi héo quắt, rụng ào ào khi gió thổi, cây trơ cành và khô dần. Ở Bình Sơn, An Viễn hàng chục hecta cao su chết khô. Hàng trăm công nhân lâm cảnh thất nghiệp đói khổ vì không khai thác được mủ thì chủ không trả lương. Diện bị rải chất độc hóa học mở rộng ra nhiều nơi khác.

Huyện ủy Long Thành phát động nhân dân tố cáo tội ác của giặc. Nhiều chị em công nhân Bình Sơn, An Viễn và nông dân các xã đi thành từng nhóm nhỏ kéo về quận lỵ, tay cầm mảnh đạn pháo, cành cây khô héo, trái cây hư thối vì chất độc hóa học để có chứng cớ cụ thể. Đoàn người vào sân quận, viên quận trưởng không tiếp dân mà còn ra lệnh đóng cổng quận đường, cho lính bao vây bên ngoài. Cơ sở ta nắm được tình hình bèn tỏa về các địa phương, vận động thêm lực lượng tiếp sức đấu tranh. Đến chiều, viên quận trưởng phải ra gặp bà con, hứa chấp nhận kiến nghị của dân: đền bù tài sản, báo cáo cấp trên không tiến hành rải chất độc hóa học nữa. Cơ sở ta trong các đồn điền cao su vận động giám đốc người Pháp kháng nghị chính quyền Sài Gòn về thiệt hại do chất độc hóa học gây ra đối với việc làm ăn kinh doanh của họ.

Ở Nhơn Trạch, hàng trăm đồng bào các xã Phú Hữu, Đại Phước, Vĩnh Thanh Phú Hội, Long Tân… kéo về quận lỵ mang theo khẩu hiệu tố cáo “Rải chất độc hóa học là phá hoa màu của dân, là giết dân”, “Phải bồi thường tính mạng tài sản cho dân”… Viên quận trưởng lúc đầu né tránh nhưng sau phải gặp, nhận kiến nghị, hứa hẹn đền bù thiệt hại, không rải chất độc hóa học nữa.

IV. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG CÁC HUYỆN VÀ TỈNH BIÊN HÒA THÀNH LẬP

Từ ngày 16/2 - 3/3/1962, Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam lần thứ nhất đã tiến hành tại căn cứ Trung ương Cục, bầu Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Sau đó các tỉnh, huyện tùy hoàn cảnh cụ thể mà mở Đại hội Mặt trận ở địa phương mình.

IV.1. Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Nhơn Trạch và Long Thành ra đời

Song song với phong trào phá ấp chiến lược, xây dựng thế chiến đấu khu vực lòng chảo, Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo gấp rút chuẩn bị Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng huyện. Các xã đều lập đoàn đại biểu địa phương mình gồm đủ các thành phần, tầng lớp.

Sáng 18/5/1962, Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Nhơn Trạch khai mạc, có gần ba mươi đoàn đại biểu xã, cơ quan, ban, ngành với 250 đại biểu về dự. Đại hội diễn ra tại khu vực gần bìa rừng Đồng Lớn (ở lòng chảo). Đại hội xác định: dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân toàn huyện đoàn kết một lòng, góp phần cùng quân dân cả nước đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đại hội bầu Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Nhơn Trạch gồm 13 vị: Ngô Quang Thanh, đại diện giới tư sản dân tộc, chủ tịch Mặt trận; Nguyễn Văn Bền, thơ ký nông hội huyện, phó chủ tịch; Nguyễn Văn Thông, đại diện Đảng nhân dân cách mạng, phó chủ tịch; Võ Văn Công, Bí thơ Huyện đoàn, tổng thơ ký; Nguyễn Tâm, hội trưởng phụ nữ huyện, ủy viên; Đỗ Thị Thanh Vân, phụ trách công nhân, ủy viên; Nguyễn Văn Sơn, Huyện đội trưởng, ủy viên; Phạm Văn Ngươn (Minh Chính), trưởng ban Binh vận huyện, ủy viên; Nguyễn Văn Đôi, (thượng tọa Thích Đạt Minh) trụ trì chùa Dốc Lớn (Đại Phước), ủy viên; Nguyễn Đắc Cầu, linh mục nhà thờ Phú Hội, ủy viên; Nguyễn Minh Trí, đại diện giới học sinh, ủy viên. Hai vị ủy viên Mặt trận sẽ bổ sung sau.

Tối 18/5, cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi của Đại hội tổ chức tại đồng Ông Trúc có gần một ngàn dân các xã đi bộ, đi xuồng về tham dự. Đồng bào phấn khởi nên hăng hái đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Hàng chục nam nữ thanh niên xung phong đi thoát li kháng chiến. Đợt này xã Phú Hữu đóng góp cho cách mạng 1500 giạ lúa, riêng má Sáu Ngữ góp 150 giạ. Xã Phước Khánh góp 520 giạ. Thóc lúa chở ban đêm bằng xuồng ghe về căn cứ của huyện và tỉnh.

Sau đó ít lâu, Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Long Thành được tổ chức tại gò Me (xã Tam An). Đại biểu các tầng lớp nhân dân các xã tham dự đông, bầu ra 15 đại biểu; đồng chí Tám Huệ được chỉ định làm chủ tịch Mặt trận. Ở đây có sự lặp lại lý thú của lịch sử: năm 1942 đồng chí Trịnh Văn Dục tổ chức Mặt trận Việt Minh quận Long Thành đầu tiên (trong toàn tỉnh Biên Hòa), 20 năm sau, Mặt trận dân tộc giải phóng đầu tiên trong toàn tỉnh Biên Hòa lại ra đời ở Nhơn Trạch và Long Thành.

Chiến trường huyện Vĩnh Cửu bị địch chia cắt, đánh phá ác liệt nên không tổ chức được Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng huyện. Đồng chí Nguyễn Trung Tâm, ủy viên Thường vụ Huyện ủy, được cử làm Chủ tịch Mặt trận. Công tác của Mặt trận được lồng vào các công tác khác trong từng thời kỳ nhất định. Chi bộ nào cũng có một đồng chí phụ trách dân vận Mặt trận và luôn luôn có mục kiểm điểm đã làm công tác Mặt trận thế nào.

IV.2. Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Biên Hòa ra đời

Phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa chuyển biến tích cực. Nhằm đoàn kết tập hợp mọi lực lượng, mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định mở Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng từ ngày 21 đến 27/7/1962 tại căn cứ Suối Cả xã Bình Sơn huyện Long Thành. 86 đại biểu cho các giai cấp, tầng lớp, ngành giới: công nhân, nông dân, tư sản dân tộc, trí thức, học sinh, Phật giáo, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, dân tộc thiểu số Nùng, Hoa, Tày, thanh niên, phụ nữ, quân giải phóng, Công đoàn giải phóng, Văn nghệ giải phóng, hội Mẹ chiến sĩ, đảng Nhân dân cách mạng …

Báo cáo chính trị đọc trước Đại hội nêu: “Nhìn vào thành tích phong trào đấu tranh của đồng bào tỉnh nhà trong thời gian qua, tuy có nhiều gian khổ gay go trước sự đàn áp khủng bố của Mỹ - Diệm  nhưng đồng bào đã vượt qua và từng bước giành thắng lợi vững chắc. Các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đã đoàn kết một lòng hướng về cách mạng, mỗi người mỗi việc góp sức đánh địch. Trong tình hình đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, chiến trường Biên Hòa còn nhiều khó khăn, đồng bào các giới đồng bào trong tỉnh vượt qua muôn vàn khó khăn về dự Đại hội đã thể hiện tấm lòng của mọi người hướng về Tổ quốc. Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh lần này đánh dấu một bước trưởng thành lớn mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong tỉnh chung sức chung lòng đánh bại mọi âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà, Bắc - Nam xum họp”[74].

Ban chấp hành Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Biên Hòa gồm các vị:

1-Chủ tịch: Tô Văn Thanh, đại biểu tư sản dân tộc. 2-Phó chủ tịch: Nguyễn Văn Luông, đại biểu Nông dân giải phóng. 3-Phó chủ tịch: Đô-mi-ni-cô Đỗ Tấn Minh, đại biểu đạo Thiên Chúa. 4-Phó chủ tịch: Nguyễn Văn Trị, đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng. 5-Tổng thơ ký: Nguyễn Văn Vinh, đại biểu Nông dân giải phóng. 6-Ủy viên: Phạm Thị Nghĩa, đại biểu Phụ nữ giải phóng. 7-Ủy viên: Nguyễn Thành A, đại biểu Công nhân giải phóng. 8-Ủy viên: Vày A Xám: đại biểu dân tộc Nùng - Hoa. 9-Ủy viên: Phạm Văn Trắng, đại biểu Thanh niên giải phóng. 10-Ủy viên: Nguyễn Thanh Bình, đại biểu Quân giải phóng. 11-Ủy viên: Nguyễn Trung Tâm, đại biểu Học sinh giải phóng. 12-Ủy viên: Nguyễn Văn Thạch, đại biểu Văn nghệ giải phóng.

 Đại hội đã ra bản kiến nghị 5 điểm:

1- Kịch liệt lên án đế quốc Mỹ võ trang xâm lược miền Nam Việt Nam.

2- Kịch liệt lên án việc kết án tử hình giáo sư Lê Quang Vịnh và xử tù chung thân khổ sai một số sinh viên khác. Đòi chính quyền Mỹ - Diệm phải hủy bỏ lập tức bản án phát xít này.

3- Đòi Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát việc đình chiến ở Việt Nam lập tức bác bỏ báo cáo sai trái và yêu cầu Ủy ban quốc tế phải làm tròn nhiệm vụ của mình thi hành đúng đắn Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, góp phần bảo vệ hòa bình ở Việt Nam và Đông Nam Á.

4- Đòi đế quốc Mỹ phải đình chỉ xâm lược ở miền Nam, giải tán bộ chỉ huy quân sự, rút hết quân đội và võ khí ra khỏi miền Nam để cho các phái hữu quan giải quyết các vấn đề nội bộ của mình.

5- Đòi thành lập một chính phủ liên hiệp ở miền Nam, ban hành tự do dân chủ cho mọi đảng, mọi nhóm chính trị và trả tự do cho các tù chính trị, đình chỉ xây dựng ấp chiến lược và bắt lính, quân sự hóa phụ nữ, đình chỉ các cuộc càn quét đẫm máu.

Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp ủy Đảng xây dựng các cơ quan Mặt trận và đoàn thể: công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ từ tỉnh xuống huyện, xã đảm bảo lãnh đạo nhân dân đấu tranh theo 5 chương trình Mặt trận đã đề ra.

Ở quận Xuân Lộc tỉnh Long Khánh, địch cho quân đi gom dân vào ấp chiến lược. Cán bộ ta với danh nghiã Mặt trận dân tộc giải phóng đã vận động bà con công nhân cao su tay không đoàn kết giành giật với địch từng tấm tôn, tấm lá lợp nhà, cản không cho chúng cày ủi vườn, nương. Nhà bị giỡ, bị đốt tàn bạo, ngay đêm bà con giúp nhau lợp lại, che chòi, dựng lán ở tạm … Được lực lượng vũ trang hỗ trợ, bà con trì hoãn không chịu cảnh cá chậu chim lồng. Phong trào diệt ác, chống địch gom dân vào ấp chiến lược lan ra các ấp, các xã Bảo Vinh, Bảo Bình, Bảo Chánh, Bình Lộc, Gia Kiệm, Gia Ray, Cây Gáo, Suối Tre, Dầu Giây, Cẩm Mỹ … Tại xã Bình Lộc, tháng 6/1962, đồng chí Tư Sửu diệt tên Tài, đốt xe Jeep của Ba Chữ, răn đe một số tề ấp cưỡng bức bà con vào ấp chiến lược.

Trên địa bàn quận Định Quán, ở Tà Lài, đồng bào các dân tộc Mạ, S’tiêng bị gom vào ấp chiến lược Lợi Tân. Địch triệt phá một số nương rẫy, kho tàng của ta trong vùng căn cứ, chốt chặn cửa ngõ phía Đông chiến khu Đ. Phía Nam quốc lộ 20, đồng bào các dân tộc ở Tam Bung, Đồng Xoài, Thanh Tùng, Gia Canh, Cao Cang … bị lùa ra ven lộ 20 ở Túc Trưng, La Ngà, Định Quán.

Tháng 10/1962, lực lượng vũ trang huyện Xuân Lộc thành lập gồm 22 đồng chí. Liên hệ mật thiết với nhân dân, bộ đội huyện nhanh chóng phát triển, làm đòn xeo cho quần chúng chống phá quốc sách ấp chiến lược rất kết quả. Đồng chí Tư Lạc trực tiếp chỉ huy điều nghiên đồn dân vệ xã Túc Trưng. Nắm chắc qui luật hoạt động của địch, đồng chí vận động dân cho mượn chiếc xe be chở bộ đội hóa trang thành lính bảo an đi càn về bất ngờ tiến công, diệt và bắt sống gọn một tiểu đội, thu vũ khí và quân trang quân dụng rồi rút về căn cứ Thọ Vực an toàn.

Xã Bửu Hòa (quận Đức Tu) là vùng địch kềm khá chặt; chúng đã xây dựng các ấp chiến lược từ cuối năm 1961. Ấp Tân Bản gần núi Châu Thới bị lính vào cào nhà, dùng lưỡi lê, báng súng gom dân ra đường đắp mới. Tuy nhiên cán bộ ta vẫn xây dựng được hàng chục cơ sở: bà Hai Đúng, bà Bảy Đen, anh Mười Sa, anh Hai Sớt … sẵn sàng nuôi chứa cán bộ về hoạt động, đóng góp tiền bạc. Các bà, các chị còn làm giao liên đi đường công khai tiếp tế gạo, mua thuốc men chuyển lên căn cứ rừng Cò Mi, Bình Trị.

Ông Lâm Kinh - người Hoa - mở Lâm Kinh trà gia ở khu chợ Đồn. Ông mướn anh Chín Hùng - cán bộ thị xã Biên Hòa đóng vai thợ hồ - sửa lại cửa tiệm khang trang hơn. Anh làm vài bữa, xin ngủ lại vin cớ nhà xa. Anh thấy ban đêm ông vặn nghe đài Bắc Kinh, hết buổi tiếng Hoa đến buổi tiếng Việt. Lúc này Trung Quốc đang nhiệt tình ủng hộ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Qua một số lần trò chuyện thăm dò, ông biết anh là cán bộ hoạt động mật thì tin. Anh báo cáo với Thị uỷ Biên Hòa. Tờ truyền đơn của Mặt trận tỉnh Biên Hòa trao cho ông, cô Sửu, con gái ông, dịch ra tiếng Hoa cho ông nghe. Từ đó ông Lâm Kinh ủng hộ tiền, tiệm trà thành điểm hẹn, móc nối liên lạc, sinh hoạt, dám chứa súng. Ông Lâm Kinh giới thiệu ông Tiếu - người Hoa, bán mì - với anh Chín Hùng, ông này cũng ủng hộ cách mạng. Ông Lý Cẩm - người Hoa, chuyên giết mổ heo ở chợ Đồn - được đồng chí Trung móc nối ở Bình Trị khi đi mua heo về thịt. Ông ủng hộ gạo, tiền, thuốc men một thời gian dài cho đến khi địch phát hiện, gài bẫy bắt.

Nhờ sự giúp đỡ tích cực của các cơ sở trong công tác điều nghiên ấp chiến lược Hóa An, 4 giờ chiều 21/12/1962 lực lượng của đồng chí Năm Thân vào ấp vận động bà con gỡ dây kẽm gai, bẻ trụ sắt ở phía Tây Bắc. Một nhóm du kích mật gỡ lựu đạn địch gài. Chị Hai Có là cơ sở hăng hái vác rựa chặt dây kẽm và trụ rào tre. Trận này ta phá lỏng ấp chiến lược Hóa An bước đầu, tạo điều kiện cho bà con tiếp tục phá rã sau này.

Được nội tuyến và cơ sở thông báo tình hình, dẫn đường, 5 giờ sáng 26/12/1962, lực lượng vũ trang huyện 19/5 và du kích xã hóa trang, đột nhập ấp chiến lược Bến Cộ (xã Đại Phước, quận Nhơn Trạch), bắt tên cảnh sát Hường và bọn dân vệ bên trong. Ta thu 23 súng các loại và toàn bộ đạn dược, lựu đạn. Giáo dục số dân vệ về đường lối cách mạng, ta tha hết, trừ tên Hường ác ôn bị xử lý trước đông đảo bà con, bản án găm tại cổng ấp chiến lược.

Tiếp đó, du kích mật và cơ sở diệt một số mật vụ, do thám, phản bội ở hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch[75]. Tề vệ hoảng sợ, nhiều người bỏ trốn hoặc bỏ việc. Chánh trương Nhậm là trưởng ấp Thái Lạc vin cớ bệnh lao xin nghỉ. Trưởng ấp Liên Kim Sơn là Lê Công Giám bỏ trốn. Chủ tịch hội đồng xã Nguyễn Văn Nhiệm nhờ người mang một thiên lúa ủng hộ cách mạng mong được tha chết.

Địch tập trung mọi lực lượng để gom dân lập ấp chiến lược. Dưới đây là bảng thống kê tình hình thực hiện ấp chiến lược của Mỹ - Diệm đến cuối năm 1962 ở miền Đông Nam bộ (Hồ sơ 19545 fond Đệ I Cộng hòa, Cục Lưu trữ TW 2). 

Tỉnh

TS ấp chiến lược dự trù

TS ấp chiến lược đã thực hiện, tỉ lệ

TS ấp chiến lược đang thực hiện

Dân số trong ấp chiến lược, tỉ lệ so cả tỉnh

Dân số toàn tỉnh

Biên Hòa

180

14= 3,3%

65

153868=65,3%

235.468

Long Khánh

118

57=48,3%

18

75582=69,8%

108.158

Phước Tuy

162

89=54,9%

55

85567=62,4%

136.977

Phước Thành

28

8 = 28,6%

13

16325=33%

49.414

Phước Long

93

49=52,6%

20

27981=62,5%

44.729

Bình Dương

154

83 = 53,8%

46

135662=44,8%

302.654

Bình Tuy

63

35=55,5%

10

28211=50,2%

56.153

Bình Long

67

19=28,3%

36

23422=39,6%

59.003

Gia Định

295

207=0,1%

88

587019=83,2%

705.309

Tây Ninh

180

141 = 78,3%

12

198569=68,9%

         288.184

Tuy các địa phương lãnh đạo nhân dân chống phá quyết liệt, nhưng vùng ta làm chủ bị thu hẹp đáng kể, địa bàn hoạt động bị chia cắt.

IV.3. Cán bộ Mặt trận các địa phương vận dụng ba mũi giáp công góp phần tích cực đánh phá ấp chiến lược

Là một huyện có tiềm năng kinh tế dồi dào song năm 1962 cán bộ, bộ đội, du kích nhiều xã ở Vĩnh Cửu chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn và sống thiếu đói, gần như mất sức chiến đấu. Huyện ủy đã có cuộc họp mở rộng đến các bí thư chi bộ xã tìm biện pháp tháo gỡ: một số cán bộ, đảng viên được phân công đi vận động dưới danh nghiã Mặt trận dân tộc giải phóng mượn hàng chục ha ruộng, mượn lúa giống, trâu cày… của bà con Tân Định, Thiện Tân. Nhờ thực hiện kế hoạch một cách quyết liệt, đời sống cán bộ chiến sĩ cải thiện hẳn; anh em đủ ăn, trả xong nợ ngay khi thu hoạch; ngoài ra còn cung cấp cho một số đoàn khách đi công tác ngang qua. Sức chiến đấu của Đảng bộ Vĩnh Cửu nâng cao rõ rệt.

Tại vùng cao su Bình Sơn, do cán bộ Mặt trận vận động được cơ sở công nhân giúp đỡ, một số đồng chí - trong đó có nữ đồng chí Bảy Phượng (Huỳnh Thị Phượng) đã vào bám trụ hoạt động bên trong ấp. Nhờ làm tốt công tác dân vận, địch vận, đồng chí Bảy Phượng được một số lính gác và tài xế của sở đưa ô tô ra vào ấp an toàn.

 Nhờ vào bám trụ bên trong, cán bộ ta đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị chống đi xâu, chống làm ấp chiến lược diễn ra quyết liệt trong suốt năm 1963. Tại Đại hội thi đua của tỉnh cuối năm 1963, Bình Sơn vinh dự được tặng thưởng huân chương Giải phóng hạng hai. Các bà má Chín Chu, Chín Ngạc, chị Phạm Thị Lệ được tuyên dương là chiến sĩ đấu tranh chính trị. Kinh nghiệm Bình Sơn đã được phổ biến rộng rãi toàn tỉnh.

Tháng 3/1963, Trung ương Cục quyết định sáp nhập hai tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa thành tỉnh Bà Biên. Ban Chấp hành Tỉnh ủy Bà Biên do các Ban Chấp hành tỉnh cũ hợp lại, đồng chí Năm Kiệm (Nguyễn Sơn Hà) được chỉ định làm bí thư. Hưởng ứng phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” do Miền phát động, Tỉnh ủy Bà Biên chủ trương: “Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống phá kế hoạch bình định nông thôn của địch bằng hai lực lượng chính trị và quân sự, kết hợp ba mũi tiến công chính trị, binh vận, vũ trang phá ấp chiến lược, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, xây dựng căn cứ cách mạng, xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt, phát động phong trào du kích chiến tranh, xây dựng làng xã chiến đấu, đẩy mạnh sản xuất tự túc, giải quyết cơ bản vấn đề lương thực cho cán bộ và chiến sĩ trong tỉnh[76]. 

Ấp chiến lược Hưng Nghĩa dài 350 mét, rộng 250 mét có khoảng 500 dân, được rào kỹ, có hai cổng ra vào, 1 trung đội dân vệ ngày đêm canh gác, xét hỏi. Ta có ba cơ sở mật trong đó ông Tám Phường là người chí cốt thường xuyên liên hệ với đội võ trang tuyên truyền, cung cấp tin tức hoạt động địch cho ta. Tháng 4/1963, cơ sở bí mật đưa hai tiểu đội võ trang cắt rào vào trụ trong ấp. Đến 10 giờ đêm, các chiến sĩ đồng loạt tiến công, bắt sống 13 tề ấp, 2 dân vệ gác cổng, thu 13 súng. Anh em tuyên bố giải tán tề, vệ ấp. Lực lượng vũ trang hỗ trợ tích cực cho đồng bào bang phá hàng rào ấp chiến lược. Về sau, địch bỏ luôn không làm lại.

Cùng thời gian trên, chi bộ Bảo Vinh - Bình Lộc lãnh đạo du kích phối hợp với số đảng viên và cơ sở mật mang danh nghiã MTDTGP vận động nhân dân tổ chức phá ấp chiến lược, đáp ứng nguyện vọng nóng bỏng của dân muốn thoát cảnh cá chậu chim lồng. Lúc đầu địch chưa gài mìn và lựu đạn, các đồng chí vận động bà con cắt từng đoạn rào mở lối đi gần nhà, dùng chân giẫm nát cỏ tung tin đánh lừa địch: Việt cộng về phá ấp chiến lược. Địch bắt rào lại, bà con lãn công, rào đoạn này phá đoạn kia, rào ban ngày ban đêm lại phá và lợi dụng trời mưa làm xiêu đổ thêm hàng loạt rào… Chúng gài trái, du kích thay nhau gỡ trang bị cho đội. Một số đoạn rào phá xong, du kích gài trái lại, báo cho bà con biết. Lính bắt dân làm lại, bà con đấu tranh sợ mìn và lựu đạn nổ. Một dân vệ hung hăng thị uy kéo rào, trái nổ làm hắn bị thương nặng khiến địch hoảng sợ. Sau một số lần bị phá, địch bỏ luôn không bắt dân rào lại.

Phong trào phá ấp chiến lược lan rộng từ kinh nghiệm Bảo Vinh. Lực lượng vũ trang Khu hỗ trợ lực lượng vũ trang huyện và du kích xã đồng loạt tiến công giúp cán bộ Mặt trận vận động đông đảo quần chúng nổi dậy phá banh các ấp chiến lược Bảo Bình 1, Bảo Bình 2, Bảo Bình 3, Tân Phong, Bàu Sao, Bàu Sen.

Tại Suối Cát, được cơ sở thông báo qui luật hoạt động của dân vệ, một chiều tháng 6/1963 các đồng chí Sáu Châu, Tám Phụ hóa trang thành sĩ quan quân đội Sài Gòn dẫn hai tiểu đội bất ngờ tấn công bọn dân vệ đang tụ tập nhậu nhẹt ở quán Trường Giang. Bọn dân vệ bỏ chạy tán loạn. Một số tên gom nộp cho ta 13 súng các loại. Các đồng chí tập hợp đồng bào tuyên truyền chủ trương của Mặt trận dân tộc giải phóng, cảnh cáo số làm tay sai, vận động bà con phá ấp chiến lược.

Ở các đồn điền cao su Cẩm Mỹ, Dầu Giây, An Lộc, Bình Lộc, Túc Trưng, Bình Sơn… phong trào kết hợp vũ trang diệt ác, phát động quần chúng phá ấp chiến lược diễn ra sôi nổi. Ban đêm ta tổ chức lực lượng mang súng nghi trang đi đi lại lại ngoài bìa ấp chiến lược rồi cho cơ sở mật tung tin bộ đội giải phóng về rất đông chuẩn bị đánh Bình Sơn. Bọn tề vệ trong ấp hoang mang lo sợ. Cơ sở bên trong vận động công nhân góp tiền mua kềm mỏ két gởi ra ngoài. Ban đêm, cơ sở mật vận động bà con cùng với lực lượng bên ngoài phối hợp cắt rào, phá cọc, nhổ chông, gỡ trái, cắm cờ và rải truyền đơn của Mặt trận. Cuộc chiến phá ấp chiến lược giằng co rất lâu nhờ sự giúp đỡ tích cực của đông đảo công nhân. Qua cuộc đấu tranh, thực lực cách mạng Bình Sơn phát triển mạnh, kết nạp được một số đảng viên: đồng chí Chiêu - lái xe cho chủ sở - chị Ngọc, chị Lệ… Chi đoàn thanh niên tăng, tích cực trong công tác trinh sát, giao liên, nắm tin… Số nòng cốt cũng tăng hơn trước. Giữa năm 1963, cơ sở mật nắm chắc sơ hở của địch đã đưa lực lượng vũ trang cao su C.207 phối hợp với C.4 của Khu và du kích diệt trung đội dân vệ chốt ở ấp chiến lược Bình Sơn. Hàng chục thanh niên công nhân xin gia nhập lực lượng vũ trang địa phương. Mở được vùng Bình Sơn, An Viễn, các cơ quan của Biên Hòa có chỗ dựa và Bình Sơn trở thành cửa khẩu hậu cần của cách mạng.

Giữa năm 1963, trước yêu cầu phát triển mạnh của cách mạng, hàng loạt cửa khẩu mở ra xung quanh chiến khu Đ. Ta vận động bà con các xã Tân Bình, Bình Mỹ, Vĩnh Tân … dùng hàng trăm xe bò đêm đêm chở gạo vào căn cứ Đoàn hậu cần 81. Ta còn móc được cả vợ con sĩ quan quân đội Sài Gòn dùng xe tải quân sự chở lương thực, thuốc men, dụng cụ y tế, xăng nhớt bán cho Mặt trận Dân tộc giải phóng. Nắm được tình hình này, địch tiến hành khám xét gắt gao dọc đường đi hướng Tân Bình, Bình Mỹ [77]

Dù địch cấm đoán hăm dọa nhưng dòng gạo vẫn đêm đêm chảy ra các cửa khẩu hậu cần. Hạt gạo thấm máu đồng bào trên đường vận chuyển vì pháo, mìn gài của địch …

Ban cán sự di cư do đồng chí Năm Triết làm Bí thư nhận định: vùng Bàu Hàm có đủ điều kiện xây dựng thành căn cứ vững chắc để phát triển hoạt động ra toàn vùng. Việc vận động đồng bào dân tộc Nùng - Hoa không kém gay go phức tạp. Mỗi lần anh em ra bám dân, nói chuyện với bà con, họ đều: “Mâu xức coỏng, mâu xức phéng” (không hiểu, không biết). Các anh không nản, đeo bám đi làm rẫy, hái thuốc lá, hái đậu giúp dân… dần dần tìm hiểu phong tục tập quán, chinh phục cảm tình của bà con. Đồng chí Năm Triết gặp một nông dân là Ba xị đế cùng họ Lê, tiến tới kết nghĩa anh em. Ông Ba dẫn anh gặp những người cùng họ để nhận dòng tộc, từ đó anh tạo mối quan hệ gắn bó với dân. Các đồng chí Sáu Mỹ, Tám Huệ… cũng bám được dân, thực hiện ba cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) mà tuyên truyền giáo dục cách mạng: chính sách đoàn kết dân tộc của Mặt trận dân tộc giải phóng, phải chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai… Qua đó, ta phát triển một số nòng cốt và cảm tình ở Bàu Hàm: chị Tư Mùi, ông Xập Dách, Dương Phúc Sinh, Chương Phúc Dưỡng, Năm Tắc Sinh, Voòng Bát… Ban cán sự tổ chức các tổ đoàn kết gồm 15 - 20 gia đình làm rẫy ở sát nhau, mỗi người làm tổ trưởng một ngày để ai cũng có trách nhiệm với tập thể, với cách mạng. Từ tổ chức nông dân, ta phát triển lập đoàn thể thanh niên, phụ nữ và đội tự vệ hơn 20 người.

Địch càn quét gom dân ra ấp chiến lược Sông Thao, đốt chòi và phá rẫy, cấm mua gạo các nơi về Bàu Hàm. Được cán bộ ta vận động, bà con kiên quyết không rời nương rẫy, hàng trăm đồng bào kéo lên trụ sở quốc hội Sài Gòn đưa đơn cho Voòng A Sáng - dân biểu - yêu cầu được tự do đi lại, làm ăn sinh sống. Chính quyền Sài Gòn can thiệp hứa không bắn pháo bừa bãi, không gom dân vào ấp chiến lược, để bà con tự do ra rẫy sản xuất.

Theo nhận định của Tỉnh ủy, địch có ý đồ đánh khu lòng chảo Nhơn Trạch. Huyện ủy Nhơn Trạch huy động khoảng 100 dân công các xã băm nát 16 đoạn tỉnh lộ 19 từ km 5 đến km 12 ngăn xe chạy. Trung tuần tháng 8/1963 địch càn các lõm căn cứ ven lộ 15 các xã Tam An, Tam Phước. Trong vòng vây, lực lượng ta chỉ có 37 đồng chí với 20 súng các loại chia thành các tổ lợi dụng rừng cây, bụi rậm ẩn nấp gài trái, bắn tỉa. Sau ba ngày cầm cự, ta diệt 56 lính, ta có 8 chiến sĩ hi sinh, 17 anh em luồn rừng vượt vây, còn 12 người vẫn trong vòng vây và kiệt sức, hết đạn. Đêm 19, anh em rút về khu chùa Tam Phước. Sư cụ Phan Văn Tập (hiệu Hoàng Sào) cho người làm công quả ở chùa nấu cơm, sau đó cử người bí mật dẫn anh em vượt vòng vây của địch về căn cứ an toàn.

Giữa năm 1963 việc phá ấp chiến lược diễn ra sôi động trong vùng: Tân Phước, Bình Trị, Tân Hạnh, Hóa An, Tân Vạn, Bửu Hòa. Phong trào cách mạng xã Tân Hạnh phục hồi và phát triển, cán bộ ta vận động nhân dân mua nhiều kềm mỏ két. Các em thiếu nhi đi chăn trâu bò phát hiện chỗ gài trái, báo du kích tháo gỡ. Đêm đêm, lực lượng bên ngoài đột vào ấp phát động nhân dân phá rào. Đêm 26/9/1963, du kích liên xã Bình Trị, Hóa An, Tân Hạnh đánh bót Hóa An diệt 1 tiểu đội dân vệ, gây thối động toàn vùng.

Ngày 1/11/1963 Diệm - Nhu bị giết trong cuộc đảo chánh quân sự do đế quốc Mỹ chủ mưu thay ngựa giữa đường. Nội bộ nước Mỹ nảy sinh nhiều mâu thuẫn gay gắt dẫn đến việc Tổng thống Kennedy bị ám sát ở Dallas sau Diệm một tháng. Các tướng lĩnh Sài Gòn lên cầm quyền liên tục đấu đá, hất cẳng nhau làm tình hình Sài Gòn khủng hoảng, căng thẳng, không ổn định.

Huyện ủy Vĩnh Cửu lập ban chỉ đạo phá ấp chiến lược[78]. Theo dự kiến, khi thời cơ thuận lợi, ta sẽ phá banh ấp chiến lược Đại An và kêu gọi đồn Trị An đầu hàng theo kinh nghiệm bức hàng bót Giồng Cát (Phước An) năm 1960. Đồng chí Mười Đê - đảng viên mật ở Đại An - gợi một sáng kiến: huy động lực lượng cấp tập chất các bó rơm ở cánh đồng vào hàng rào rồi đốt thì mìn và lựu đạn gài sẽ nổ, mặt khác lửa cháy tác động mạnh tinh thần địch toàn vùng.

Đêm 24/11/1963, một bộ phận lực lượng vũ trang huyện kết hợp du kích ba xã Đại An, Tân Định, Thiện Tân và một số cơ sở mật nhanh chóng gom chất các bó rơm quanh hàng rào ấp chiến lược Đại An rồi đồng loạt tưới dầu, đốt cháy khiến vòng lửa sáng rực góc trời, lựu đạn và mìn gài nổ liên tiếp. Lính bảo an, dân vệ, thanh niên chiến đấu trong ấp kinh hoàng, chống trả yếu ớt rồi bỏ chạy. Bộ đội và du kích nổ súng diệt một số tên, hỗ trợ cơ sở và bà con nổi dậy phá rã ấp chiến lược. Cùng đêm, ta phát loa kêu gọi lính đồn Trị An đầu hàng. Chúng không nổ súng; chỉ có 2 anh lính vác súng về với cách mạng.

Tin chiến thắng Đại An lan rộng toàn vùng, số tề, vệ ở các ấp chiến lược khác rúng động, co lại trong khi nhân dân rất phấn khởi. Phong trào phá ấp chiến lược phát triển ra các nơi. Ở Tân Định, Thiện Tân, Bình Long, Lợi Hòa, Tân Phú cán bộ ta chỉ đạo bà con đấu tranh buộc lính và dân vệ gác cổng phải cho dân đi sớm về tối, không xét hỏi gắt như trước. Anh em du kích, cán bộ ban đêm đột ấp dễ hơn trước.  

Để phù hợp với nhiệm vụ lãnh đạo chiến trường trong tình hình mới, Trung ương Cục quyết định tách tỉnh Bà Biên vào tháng 12/1963[79] . Tỉnh ủy Biên Hòa trở về căn cứ suối Cả, nghiên cứu chiến trường đánh địch. Tỉnh ủy chủ trương: “Khẩn trương phát động một phong trào đấu tranh quân sự, chính trị kết hợp với công tác binh vận rộng khắp, mạnh mẽ trong toàn tỉnh, kiên quyết đánh phá “bình định”, phá ấp chiến lược của địch, phá banh, phá rã tạo điều kiện cho dân bung ra sản xuất làm ăn, đồng thời tích cực phát triển lực lượng về mọi mặt, phát động phong trào du kích chiến tranh, xây dựng xã, ấp chiến đấu, mở rộng vùng giải phóng[80].

Trụ sở hội đồng xã Xuân Lộc nằm ở trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh, có một trung đội dân vệ thay nhau canh gác phối hợp với số cảnh sát tiểu khu. Ông Hai Cưa - cơ sở mật - báo cáo tình hình và qui luật hoạt động địch thường xuyên. 7 giờ tối mùng 4/1/1964, đồng chí Tư Lạc chỉ huy hai tiểu đội hóa trang dân làm rẫy và lính bảo an vượt rào ấp chiến lược, chém gục tên gác cổng. Số dân vệ trong trụ sở thì đứa nằm, đứa ngồi, chưa kịp phản ứng đã bị súng chĩa vào mặt, đều úp mặt vào tường giơ tay hàng. Trận đột kích nhanh gọn, ta thu 41 súng các loại và hai máy truyền tin HT1 rồi rút lui an toàn. Các cán bộ, đảng viên và cơ sở nội ô mở đợt tuyên truyền sâu rộng tin chiến thắng làm đà cho phong trào diệt ác, phá ấp chiến lược ở An Lộc, Dầu Giây, Cẩm Mỹ …

Tháng 2/1964, được cơ sở mật giúp đỡ, lực lượng vũ trang Long Khánh hỗ trợ, cán bộ ta giải thích chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đối với ngoại kiều. Chủ sở cao su Hàng Gòn đồng ý nhận đóng thuế cho cách mạng 3 triệu rưỡi đồng mỗi năm. Qua công tác vận động, giám đốc các sở cao su An Lộc, Bình Lộc, Dầu Giây, sở 97…  đều chấp hành nghiêm chính sách thuế của Mặt trận.

Huyện ủy Vĩnh Cửu tiếp tục chỉ đạo phương thức dùng ba mũi tiến công để bức hàng đồn Trị An. Đồn này trên đồi cao có một trung đội bảo an - một số là con em nhân dân địa phương - đóng giữ, án ngữ phía Đông Bắc sân bay Biên Hòa, chặn phía Nam chiến khu Đ. Chiều tối ngày 2/2/1964, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện, một bộ phận C.240 của tỉnh, cơ sở và du kích địa phương  bí mật đào công sự gần chân đồi, ém quân. Một bộ phận khác triển khai lực lượng chặt cây, đốt cầu 20 để chặn viện. Chi bộ mật vận động hàng trăm dân - trong đó thân nhân lính đồn đi đầu - kéo ra chân đồn Trị An. Lực lượng vũ trang ta xen kẽ với gia đình binh sĩ đồn Trị An phát loa kêu gọi: “Chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã sụp đổ, anh em binh sĩ hãy mang súng trở về với nhân dân …” . Tiếng loa binh vận của cha mẹ, vợ con lính liên tục vang lên. Lính đồn rọi đèn pin thấy rõ gia đình họ và bộ đội giải phóng, nên kéo xuống, hai tay giơ cao. Ban chỉ đạo cử cán bộ giáo dục số này, sau đó gọi gia đình nhận lãnh về nhà. Bộ đội vào đồn thu 20 súng và toàn bộ đồ quân trang quân dụng. Sáng 3/2, 4 tên trong đó có trưởng đồn Châu và ba tên an ninh bị trừng trị. Xã Trị An là xã đầu tiên của tỉnh Biên Hòa được hoàn toàn giải phóng bằng ba mũi giáp công không tốn hao xương máu.

IV.4. Mặt trận Dân tộc giải phóng các địa phương lãnh đạo mở mảng, mở vùng, góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của                                                                                                                  Mỹ

Tháng 3/1964, hội nghị Trung ương Cục lần thứ hai xác định nhiệm vụ năm 1964: “ … phải quyết tâm đạt cho được hai mục tiêu chính là:

1- Làm thất bại âm mưu gom dân lập ấp chiến lược của địch.

2- Tiêu diệt sinh lực địch và làm tan rã từng bộ phận quân đội địch.

Để thực hiện hai nhiệm vụ nói trên, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ hai vạch ra những công tác lớn sau đây:

1- Phá ấp chiến lược và xây dựng xã chiến đấu.

2- Hoạt động và xây dựng lực lượng vũ trang.

3- Đẩy mạnh và xây dựng lực lượng chính trị.

4- Xây dựng căn cứ địa và quản lý vùng giải phóng.

5- Phát triển phong trào đấu tranh ở đô thị.

6- Đẩy mạnh công tác binh vận, ngụy vận.

7- Có kế hoạch cụ thể thúc đẩy công tác kinh tế, tài chánh của Trung ương Cục.

8- Tích cực chống do thám gián điệp và xây dựng lực lượng an ninh các cấp.

9- Tiếp tục tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

10- Tăng cường sự lãnh đạo của các ấp ủy Đảng đối với phong trào cách mạng.

11- Động viên chính trị toàn quân, toàn dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ cách mạng to lớn trước mắt.”[81]

Ở vùng hữu ngạn sông Đồng Nai thuộc huyện Tân Uyên, Huyện ủy chỉ đạo các xã phát huy vai trò Mặt trận Dân tộc giải phóng để vận động cơ sở và quần chúng kết hợp hai chân ba mũi tấn công vũ trang đi đôi vận động binh lính đẩy mạnh phong trào phá ấp chiến lược. Đến gần giữa tháng 5/1964, toàn bộ ấp chiến lược mé Tây chiến khu Đ từ An Long, An Ninh, Phước Sang, Bố Mua qua Phước Hòa, Bình Mỹ, Bà Đã cho đến Thái Hòa, Thạnh Hội, Bình Chánh, Khánh Vân, Tân Hoà Khánh, Tân Nhựt… bị phá banh hoặc phá rã.

Giữa tháng 5/1964, Khu ủy và Bộ Tư lệnh quân khu quyết định mở đợt hoạt động hè thu nhằm phá âm mưu càn quét (để lập lại các ấp chiến lược) của địch, phá thế bị bao vây, mở rộng hành lang vùng chung quanh căn cứ chiến khu Đ. Bộ đội chủ lực Khu phối hợp bộ đội các huyện và du kích các xã mở chiến dịch bức rút, phá tan các bót Bàu Cá Trê, Sình, Bà Đã, Giáng Hương, chi khu Hiếu Liêm.

Tháng 7/1964, Khu ủy mở hội nghị ở Suối Linh, quán triệt nghị quyết của Trung ương Cục đánh giá: Mỹ và bọn tay sai bị đánh mạnh khắp nơi, có thể xảy ra hai khả năng: 1-Mỹ chịu thua, rút quân về nước; 2-Mỹ có thể leo thang chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ. Do đó ta phải mở mảng, mở vùng, diệt nhiều sinh lực địch, quyết tâm đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt của chúng. 

Giữa tháng 7/1964, một bộ phận tiểu đoàn 800 của Khu phối hợp với lực lượng vũ trang Long Khánh được cơ sở bên trong phục vụ tin tức đánh ấp chiến lược Đồng Hiệp (Định Quán). Trung đội dân vệ Đồng Hiệp bị diệt, ta bắt giáo dục, cảnh cáo số tề vệ, hỗ trợ đồng bào phá rã ấp chiến lược. 

Đồn điền cao su Cây Gáo nằm ở bờ phải sông Đồng Nai được địch xây dựng thành ấp chiến lược vững chắc kềm kẹp khoảng 6000 dân (công nhân và gia đình, một số nông dân làm ruộng rẫy, một số làm be, một số buôn bán…). Tháng 7/1964, tiểu đoàn 800 quân khu được cơ sở công nhân bí mật hướng dẫn tiến công tiêu diệt hoàn toàn đồn Cây Gáo, bắt sống 19 tên, thu 40 súng các loại. Ấp chiến lược Cây Gáo bị phá banh, viên giám đốc Pháp chịu đóng thuế cho Mặt trận dân tộc giải phóng. Quan trọng hơn, Huyện ủy Vĩnh Cửu phát triển nhiều cơ sở hợp pháp, xây dựng nơi đây thành cửa khẩu hậu cần cho tỉnh, Khu và Miền. Ta mở rộng vùng làm chủ phía Nam chiến khu Đ, thông hành lang giao liên chiến lược với quốc lộ 20.

Đêm 12/9/1964, tiểu đoàn 800 diệt chi khu Hiếu Liêm do một đại đội bảo an đóng giữ. Chiến thắng dồn dập cổ vũ phong trào chiến tranh du kích huyện Vĩnh Cửu. Nhờ sự giúp đỡ của cơ sở, lực lượng vũ trang huyện và du kích xã Bình Long tổ chức đột nhập ém sẵn trong đồn khi bọn lính bót Bình Long ra bên ngoài phục kích. Sáng hôm sau lính quay về bót, ta nổ súng diệt 20 tên, bắt sống 1 tên, thu 20 súng - trong đó có 1 trung liên. Thắng lợi này cổ vũ phong trào phá ấp chiến lược ở địa phương; du kích các xã bám trụ đánh lính đi càn quét xóm ấp, hỗ trợ đồng bào bung ra làm ruộng và ban đêm ta làm chủ nhất là ấp 7 (Thiện Tân), ấp Cây Da (Tân Phú), ấp Dỏ Sa (Lợi Hoà), Bình Long …, vốn là vùng địch kềm chặt.

Tạo hành lang cho bộ đội chủ lực Miền về hoạt động ở vùng Bà Rịa, Tỉnh ủy Biên Hoà và Huyện ủy Vĩnh Cửu chỉ đạo lực lượng vũ trang huyện kết hợp một bộ phận tiểu đoàn 800 bao vây, bức hàng đồn Trị An lần thứ hai. Đúng nửa đêm 16/9, Huyện ủy cho nhân dân, cán bộ và chiến sĩ cầm đuốc lồ ô tẩm dầu đi phô trương lực lượng quanh chân đồn. Ban binh vận huyện dùng loa kêu gọi binh sĩ bót quay về với nhân dân. Đồn Trị An bị vây chặt, ta hoàn toàn làm chủ xã Trị An. Sau 57 ngày đêm bị bao vây và bị tiến công bằng ba mũi, ngày 19/11/1964 lính đồn Trị An tháo chạy. Xã Trị An được giải phóng lần thứ hai. Quân dân Vĩnh Cửu mở được hành lang chiến lược từ chiến khu Đ xuống Long Thành, Bà Rịa nối thông ra biển Đông để nhận chi viện vũ khí từ miền Bắc chi viện bằng những con tàu không số, tạo điều kiện mở chiến dịch Bình Giã thắng lợi vào cuối năm 1964.

Giữa tháng 10/1964, Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định tiến hành Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ nhất để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội kiểm điểm tình hình phong trào đấu tranh cách mạng thời gian qua, nêu nhiệm vụ trước mắt: “tập trung lực lượng chính trị, vũ trang, binh vận phối hợp lực lượng trên đánh bại quốc sách ấp chiến lược của địch, cùng toàn Miền đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy. Mở rộng vùng giải phóng nông thôn, đi đôi xây dựng căn cứ vững mạnh; xây dựng cơ sở quần chúng, tạo địa bàn đứng chân vùng ven thị xã Biên Hòa cùng lực lượng trên tấn công các căn cứ quân sự lớn của địch trong thị xã; tích cực xây dựng các cửa khẩu hậu cần, đảm bảo nguồn cung ứng cho các lực lượng cách mạng địa phương[82].

Ban Chấp hành Tỉnh ủy được bầu gồm các đồng chí: 1-Phan Văn Trang, Bí thư Tỉnh ủy. 2-Phạm Thị Nghĩa (hội Phụ nữ giải phóng). 3-Võ Văn Lượng (bí thư h. Vĩnh Cửu). 4-Nguyễn Văn Thông (Bí thư h. Nhơn Trạch). 5-Thái Văn Thái (bí thư h. Long Thành). 6-Lê Dân (trưởng ban Binh vận). 7-Nguyễn Hồng Phúc (Tỉnh đội phó, tham mưu trưởng). 8-Nguyễn Hải (trưởng ban An ninh).  Khu ủy bổ sung ba đồng chí vào Tỉnh ủy: Châu Văn Lòng (Tỉnh đội trưởng), Nguyễn Hoàng Nam (trưởng ban Tổ chức), Nguyễn Văn Thuấn (Tỉnh đội phó).

IV.4.1. Công nhân khu kỹ nghệ Biên Hòa đấu tranh đòi quyền dân sinh

 Trên vùng căn cứ du kích Bình Đa năm xưa (nay thuộc phường An Bình), hàng loạt nhà máy: giấy Cogido, hóa chất Vicaco, cán kéo dây đồng Thamyco … lần lượt mọc lên. Ủy ban nghiên cứu của Công ty khuếch trương kỹ nghệ SONADEZI (Société nationale pour le développement des zônes industrielles) đệ trình phủ Tổng thống tờ trình dự án lập khu kỹ nghệ tại đây vì những lý do: an ninh tốt, đất rộng và nền đất vững chắc, giá đất rẻ … có thể xây dựng nhà máy hiện đại ít tốn kém, phân tán bớt người lao động khỏi Sài Gòn, phát triển tư sản bản xứ (làm cơ sở xã hội cho chủ nghĩa thực dân mới) …

Một số đảng viên và cơ sở nòng cốt được Thị ủy Biên Hòa cài cắm, âm thầm phát triển lực lượng công nhân dưới danh nghĩa Mặt trận dân tộc giải phóng hoặc Công đoàn giải phóng. Xưởng Dofitex chuyên dệt bao bố có khoảng 250 công nhân hầu hết theo đạo Thiên Chúa, hai phần ba là nữ. Ở đây chỉ có tổ chức nghiệp đoàn Dofitex (chịu ảnh hưởng Tổng liên đoàn lao công của Trần Quốc Bửu). Tháng 10/1964, chủ nhà máy định sa thải 22 công nhân. Đồng chí Năm Trung (Nguyễn Công Trung) - đảng viên mật - bàn với ông Chữ - một nòng cốt - lợi dụng tổ chức nghiệp đoàn, họp bàn với một số anh em, đề ra yêu sách bốn điểm: chủ thu nhận lại 22 người bị sa thải, tăng lương vì đời sống đắt đỏ, thêm tiền phụ cấp đắt đỏ, có xe đưa rước thợ ở Hố Nai, Tân Mai, Bến Gỗ. Ban thụ ủy đại diện công nhân triệu tập cuộc họp, toàn thể thợ nhất trí thông qua kiến nghị gửi chủ nhà máy và ty Lao động Biên Hòa ngày 5/10/1964. Sau mười ngày yêu sách chưa được giải quyết, ngày 15/10 toàn xưởng đình công từ 11 giờ trưa đến 6 giờ chiều, sản lượng trong ngày giảm 1/3. Cảnh sát Biên Hòa mời anh Năm Trung về ty cảnh sát xét hỏi, anh nói cho họ biết nguyên do đình công. Ở xưởng, anh Năm Bảo chuẩn bị phát động đình công tiếp. Anh Năm Trung được về ngay sau đó. Một tuần lễ nữa trôi qua, chủ nhà máy chưa đáp ứng yêu sách, ban thụ ủy vận động toàn thể thợ bãi công ở cổng xưởng. Chủ một mặt gọi điện báo cảnh sát dã chiến, một mặt rước linh mục tới khuyên nhủ con chiên. Nhưng cả vũ lực và thần quyền không thắng nổi tinh thần đoàn kết đấu tranh quyết liệt chính đáng của thợ. Cuối cùng chủ phải nhận lại số bị sa thải, tăng 50% lương và phụ cấp đắt đỏ, có xe đưa rước… Noi gương Dofitex, công nhân nhiều nhà máy khác cũng lập nghiệp đoàn, từ đó phong trào đấu tranh của công nhân khu kỹ nghệ Biên Hòa luôn luôn sôi sục.

IV.4.2. Nhân dân Long Thành - Nhơn Trạch đấu tranh chống vụ thảm sát trên sông Ông Kèo

 Chiều ngày 27/9/1964, hàng trăm xuồng ghe của đồng bào các xã Phú Hữu, Đại Phước, Phước Khánh, Vĩnh Thanh… và một số bà con ở Cần Giờ, Nhà Bè, Long An, Bến Tre… đi làm củi, đăng câu về tập trung ở bến ngã ba Giồng Sắn nối với sông Ông Kèo (thuộc xã Phú Hữu). Bà con đang đưa củi, cá tôm lên bờ thì bỗng hàng đàn máy bay địch xuất hiện. Chúng thi nhau bổ nhào cắt bom xuống nơi ghe xuồng đậu đông nhất. Những cột khói và bùn đất trộn nước tung tóe, những tiếng kêu thét xé ruột của phụ nữ, trẻ em vang lên. Hàng chục đợt xối bom đã làm tan nát gần 200 ghe xuồng các loại, 536 dân thường chết phần lớn không toàn thây, nhiều người khác bị thương …

Sáng hôm sau, Huyện ủy hai huyện Nhơn Trạch, Long Thành lấy danh nghĩa Mặt trận Dân tộc giải phóng hai huyện vận động hàng ngàn dân các xã tổ chức biểu tình ngay nơi giặc thảm sát đồng bào. Sau đó số bà con biểu tình chia ba đoàn kéo nhau về quận lỵ, lên Biên Hòa, đi Sài Gòn với bản tố cáo Phản đối hành động giết hại dân lành hàng loạt. Chiều 28/9, các phóng viên nước ngoài đã đến quay phim, chụp ảnh. Thông tấn xã Giải phóng miền Nam đã kịp thời đưa tin tố cáo tội ác Mỹ ngụy. Cả nước cùng với nhân dân tiến bộ yêu chuộng hoà bình khắp thế giới đã biểu tình, mít tinh, cực lực lên án hành động dã man của Mỹ ngụy. Liên tiếp những ngày sau đó, đài Tiếng nói Việt Nam cực lực tố cáo tội ác man rợ trời không dung, đất không tha của Mỹ ngụy với thế giới. Các đài Manila, BBC … đều phát đi sự kiện này.

Ngã ba Giồng Sắn, đời đời ghi nhớ tội ác của Mỹ ngụy.

IV.4.3. Nhân dân Biên Hòa giúp quân giải phóng pháo kích sân bay quân sự Biên Hòa, phục vụ tích cực chiến dịch Bình Giã

Từ lâu, máy bay Mỹ cất cánh từ sân bay Biên Hòa đánh phá cách mạng, gieo rắc biết bao tang thương chết chóc cho nhân dân toàn Miền. Cũng từ lâu, cán bộ chiến sĩ trinh sát đặc công được nội tuyến và cơ sở mật giúp điều nghiên sân bay về mọi mặt: cách bố phòng doanh trại, khu để máy bay, kho bom đạn … Nhiều tư liệu quan trọng, sơ đồ, bản đồ được gửi lên Bộ chỉ huy quân sự Miền nghiên cứu. Pháo binh Miền vạch kế hoạch pháo kích sân bay. Thị ủy Biên Hòa, các Huyện ủy Tân Uyên, Vĩnh Cửu đã huy động dân công tải đạn, chuẩn bị lương thực, người dẫn đường, khoảng 20 xuồng ghe qua sông … 23 giờ 30 phút, ngày  31/10 các đơn vị pháo của Miền và Khu[83] bắn cấp tập. Sân bay Biên Hòa rực cháy với những tiếng nổ như sét đánh, làm rung chuyển cả tỉnh lỵ Biên Hòa và vùng ven. Ta phá hủy 59 máy bay (trong đó có 21 chiếc B.57 tối tân vừa đưa từ Philippines qua, 11 chiếc AD.6, 1 máy bay do thám gián điệp U.2 …), gây thương vong cho 293 tên địch, làm nổ tung 2 kho đạn, cháy 1 kho xăng, 1 đài quan sát, 18 căn trại lính. Đại sứ Mỹ Taylor hôm sau lên thị sát đã than thở: “Rõ ràng Việt cộng làm một việc chưa hề có … Tôi không muốn nhìn thấy cảnh tượng này nữa…”. Trận pháo kích Biên Hòa là kết quả tổng hòa của công tác dân vận, binh vận, kế hoạch tác chiến đúng, yếu tố bí mật bất ngờ, kỹ thuật bắn tập trung đạt hiệu suất cao …

Dự kiến địch sẽ đánh phá ta ngày càng ác liệt, đồng thời thực hiện chỉ đạo của Trung ương cục nơi nào giải phóng thì xây dựng xã ấp chiến đấu, cán bộ Mặt trận xã Phước An vận động nhân dân cùng tham gia đào địa đạo, xây dựng ô ụ chiến đấu. Ô ụ đầu tiên làm tại dốc đầu ấp Bà Trường, dài khoảng 150 mét, từ lộ 19 vào rừng giồng. Từ trục hào chính dích dắc, ta đào nhiều ngách liên kết với nhau, phía trước và hai bên ụ chiến đấu cắm chông, hố đinh, gài mìn và lựu đạn. Kinh nghiệm xây dựng làng xã chiến đấu ở Phước An nhân rộng, ta có thể lấy ít chống nhiều, lấy vũ khí thô sơ thắng vũ khí hiện đại mà vẫn bảo tồn lực lượng để đánh lâu dài.

Theo chỉ đạo của Miền, để phục vụ chiến dịch Bình Giã, Tỉnh ủy Biên Hòa thành lập Hội đồng cung cấp của tỉnh gồm 30 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Văn Thông làm chủ tịch; Huỳnh Văn Đậm, phó chủ tịch phụ trách trưởng tiểu ban dân công; Lê Kim, ủy viên phụ trách trưởng tiểu ban kế hoạch và tân binh; Nguyễn Văn Hoành, ủy viên phụ trách trưởng tiểu ban lương thực thực phẩm; Nguyễn Văn Liên, ủy viên phụ trách trưởng tiểu ban căn cứ, kho tàng và đời sống. Nhiệm vụ của Hội đồng cung cấp: phối hợp chặt chẽ với kinh tài hậu cần và Đảng bộ, Mặt trận cơ sở động viên sức người, sức của, thu mua lương thực thực phẩm, phát động phong trào tòng quân, phát động và tổ chức lực lượng dân công … đáp ứng kịp thời các nhu cầu chiến trường và phục vụ chiến đấu. Hội đồng cung cấp tỉnh kết hợp chặt chẽ với Mặt trận (gồm các đoàn thể nông hội, công đoàn, thanh niên, phụ nữ) tập trung mở một loạt cửa khẩu Bình Sơn, Phước Thái, Long Phước, Long An, Bàu Hàm, Trảng Bom, Cây Gáo). Hội đồng cung cấp các huyện Long Thành và Nhơn Trạch mở các cửa khẩu Tam An, Phước Nguyên, An Lợi, Phước Thiền, Long Tân, Phú Hội, Phước Long, Phước Thọ, Phước An.

Để trực tiếp phục vụ chiến dịch Bình Giã, Hội đồng cung cấp tỉnh và các huyện thông qua tổ chức Mặt trận cơ sở đã vận động gần 200 thanh niên tham gia tòng quân và khoảng 1000 lượt dân công hỏa tuyến - trong đó có một số đồng bào dân tộc Ch’ro ở Phước Thái và vài chục công nhân các sở cao su - tham gia vận chuyển vũ khí từ bến Lộc An về Bà Rịa, Biên Hòa, chiến khu Đ. Rút công nhân cao su đi dân công hỏa tuyến là việc khó vì địch kiểm soát chặt. Người đi không có thu nhập thì đời sống gia đình không bảo đảm, họ không an tâm phục vụ. Phát động quần chúng, anh chị em nảy ra sáng kiến: mỗi tổ 10 người thì 1 người đi, 9 người còn lại thực hiện “6 người cạo, 3 người trút mủ” các người ở lại làm choàng phần việc người đi vẫn bảo đảm sản lượng mủ giao nộp và bảo đảm thu nhập cho cả 10 người, nói gọn là “6 cạo, 3 trút, 1 đi”. Nhờ sáng kiến này, về sau ta còn có thêm chính sách cho người đi dân công hưởng chế độ thương binh (nếu bị thương) hoặc liệt sĩ (nếu hi sinh khi làm nhiệm vụ ở chiến trường).

V. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ ĐẠI ĐOÀN KẾT ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA MỸ

V.1. Mỹ và quân chư hầu đổ vào Biên Hòa

Báo chí Mỹ và Sài Gòn trước đây đánh giá đại ý: chiến thắng Ấp Bắc chứng tỏ Việt cộng không thua Mỹ. Nay chiến thắng Bình Giã và một loạt chiến thắng khác ở Plây Me, Ba Gia, Đèo Nhông, Dương Liễu, Đồng Xoài, Phước Long … của quân dân miền Nam đã làm chiến lược “chiến tranh đặc biệt” phá sản, chế độ Sài Gòn đứng bên bờ vực sụp đổ.

Tháng 1/1965, Hội nghị lần thứ ba Trung ương Cục nhận định: “Những thắng lợi và tiến bộ to lớn của quân và dân ta trong việc đánh tiêu diệt và làm tan rã lớn lực lượng ngụy quân, ngụy quyền đã đưa đến thuận lợi căn bản là quyền chủ động ở chiến trường đã bắt đầu chuyển từ tay địch đến tay ta … Những tháng cuối năm 1964 với sự xuất hiện vai trò của quân chủ lực của ta trên các chiến trường quan trọng đã tạo ra những điều kiện mới nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu diệt địch và phát triển chiến tranh du kích … Việc đế quốc Mỹ đưa lực lượng quân chiến đấu vào miền Nam có thể từ 150.000 đến 200.000 tên là một chính sách phiêu lưu táo bạo của chúng ở miền Nam, nhưng hành động đó có nhiều nhược điểm và sẽ gặp nhiều mâu thuẫn, chứ quyết không phải là một thế mạnh của bọn xâm lược. Vì vậy, đường lối phương châm đấu tranh giành thắng lợi ở miền Nam đã nêu ra trong các nghị quyết trước đây là không có gì thay đổi”[84].

Phái đoàn Mac Namara-Taylor báo cáo với chính phủ Mỹ: “Tình hình Nam Việt Nam nghiêm trọng và sẽ nghiêm trọng hơn nữa, quân đội Việt Nam cộng hòa không thể đương đầu với Việt cộng, tương quan lực lượng ở mức báo động, quyền chủ động đã về tay cộng sản”.  Ngày 6/4/1965, Mỹ công bố bị vong lục “Hành động an ninh quốc gia” số 328 thông báo Tổng thống Mỹ Johnson quyết định leo thang chiến tranh, thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Ông ta đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, trực tiếp tác chiến trên bộ “tìm và diệt” lực lượng chủ lực ta thay quân đội Sài Gòn trong vòng 25 – 30 tháng với kế hoạch ba giai đoạn[85].

Biên Hòa và Long Khánh tiếp giáp Sài Gòn ở phía Đông, liên hoàn với căn cứ chiến khu Đ, miền nam Tây Nguyên nên đế quốc Mỹ và tay sai xây dựng tuyến phòng thủ mạnh, bố trí lực lượng đủ sức ngăn chặn mũi tiến công của cách mạng để bảo vệ đầu não Sài Gòn.

Ngày 5/5/1965, lữ đoàn dù 173 Mỹ và một tiểu đoàn lính Hoàng gia Úc vào đóng ở một số địa điểm ở Biên Hòa. Bộ Tư lệnh hậu cần và Bộ Tư lệnh lục quân Mỹ, Bộ Tư lệnh dã chiến 2 đóng ở Long Bình. Khu vực Long Bình được xây dựng thành tổng kho hậu cần lớn nhất của đội quân xâm lược ở miền Nam. Kho bom Thành Tuy Hạ mở rộng. Căn cứ sư 101 Mỹ ở Dĩ An, ở hóc Bà Thức, căn cứ Nước Trong (Long Thành); tiểu đoàn 33 pháo binh đóng ở căn cứ Hoàng Diệu (Long Khánh), căn cứ kỵ binh thiết giáp Suối Râm (Long Khánh) và nhiều chốt dã ngoại di động. Tính ra trên phạm vi các tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy địch củng cố và lập 431 đồn bót lớn nhỏ.

Quân Mỹ và chư hầu nhảy vào miền Nam, với khối lượng phương tiện chiến tranh hiện đại khổng lồ có sức hủy diệt lớn, tác động không nhỏ đến cuộc sống, tư tưởng các tầng lớp nhân dân ta. Nhưng chúng vào giữa lúc phong trào chiến tranh du kích đang mở rộng và nâng cao ở vùng nông thôn và cao su rộng lớn. Bộ đội và du kích đã nâng trình độ tác chiến lên mức cao hơn[86] sau chiến thắng Bình Giã và nhiều trận đánh lớn nhỏ khác.

Chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược mùa khô thứ nhất (1965-1966), quân Mỹ và tay sai ủi phá rừng, hủy diệt địa bàn căn cứ ta. Chúng phát quang mở rộng hai bên đường 10 từ Long Thành vào Bình Sơn mỗi bên 20 mét, nối dài lên Cẩm Đường, Cẩm Mỹ; mở rộng đường 25 từ sở SIPH lên An Viễn, Dầu Giây. Chúng ủi phá cao su dọc liên tỉnh lộ 2, khu vực rừng nằm giữa tam giác quốc lộ 1- quốc lộ 15 - tỉnh lộ 2 nhằm chia cắt căn cứ cách mạng, đẩy các lực lượng vũ trang ta ra xa các trục đường giao thông quan trọng. Đồng thời chúng đẩy mạnh việc bình định, gom dân vào ấp tân sinh, ấp đời mới, ấp bình định.

Ở mỗi quận chúng tổ chức một đoàn gồm khoảng từ 50 - 70 cán bộ bình định được đào tạo tại Vũng Tàu. Bọn này cũng thực hiện ba cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với nhân dân để tuyên truyền việc lập các loại ấp, củng cố bộ máy tề vệ ấp, phân loại quần chúng, làm lại tờ khai gia đình để kiểm soát chặt bà con; gây chia rẽ, nghi ngờ trong nội bộ nhân dân. Lính chủ lực và bảo an, dân vệ, cảnh sát càn bố cưỡng bức gom dân vào các loại ấp do chúng tổ chức.

V.2. Mặt trận Dân tộc giải phóng Biên Hòa và Long Khánh tiếp tục vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phá ấp chiến lược bằng ba mũi vũ trang, chính trị, binh vận        

Đầu tháng 4/1965, các Huyện ủy Long Thành, Nhơn Trạch triển khai tinh thần Nghị quyết đánh Mỹ cho các xã. Mặt trận huyện và các xã vận động thanh niên địa phương bổ sung lực lượng du kích. Anh em được huấn luyện quân sự, đào hầm bí mật dự trữ lương thực, nước uống để chuẩn bị đánh Mỹ. Các địa đạo, giao thông hào và ô ụ chiến đấu ở Tam Phước, Phú Hội cơ bản làm xong, địa đạo Phước An dài khoảng 1200 mét đang gấp rút hoàn thành.

Ở Long Khánh, địch ra sức kiểm soát chặt, không cho dân các xã tới tỉnh lỵ Long Khánh mua bán gạo. Huyện ủy Xuân Lộc cử đồng chí Lê Thành Phụ kịp thời cùng cán bộ Mặt trận phát động quần chúng đấu tranh đòi tự do lưu thông thóc gạo. Tháng 4/1965, hơn 250 phụ nữ người Nùng, Hoa, Kinh ở Bảo Bình, Bảo Định - trong đó có 12 nòng cốt - kéo về chi khu Xuân Lộc đưa đơn yêu cầu cho bà con được mua bán gạo để sinh sống. Viên quận trưởng hù dọa, sai lính bắt một số chị. Đoàn biểu tình kiên quyết đấu tranh đòi thả số người bị bắt, nếu y không giải quyết đoàn sẽ kéo đi gặp tỉnh trưởng Long Khánh. Cuối cùng quận trưởng Xuân Lộc phải chấp nhận yêu sách của chị em (thả hết số bị bắt, cho mua bán gạo bình thường).

Hơn 1000 công nhân các đồn điền cao su Trảng Bom, Suối Tre, An Lộc, Dầu Giây, Cẩm Mỹ, Hàng Gòn đã kéo về Sài Gòn, cùng với công nhân Sài Gòn và các tỉnh đưa yêu sách cho Tổng liên đoàn lao động đòi can thiệp để chủ trả đủ 25 kg gạo/người mỗi tháng, tăng lương từ 37 đồng lên 45 đồng/ngày. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi.

Ở Bàu Hàm, nhiều gia đình đồng bào Nùng và Hoa tiếp tục sống trong các chòi rẫy. Trung tâm xã có vài chục hộ buôn bán. Địch đưa về 1 trung đội dân vệ chốt ở đồn Lò Than và đồn 66; 1 trung đội cán bộ bình định nông thôn phân tán trong dân. Tháng 5/1965, đội vũ trang của Ban cán sự phối hợp với lực lượng vũ trang của Huyện đội Vĩnh Cửu, được cơ sở thông báo tin tức và giúp đỡ đưa đường đã tập kích trung đội bình định, bắt sống tên đoàn trưởng bình định và tổng Kim đưa đi trừng trị. Trận này làm bọn tề vệ ác ôn thối động mạnh, co thủ lại. Hoạt động vũ trang kết hợp xây dựng phát triển cơ sở mật tạo cho xã Bàu Hàm thế vươn lên làm bàn đạp và cửa khẩu hậu cần của tỉnh và khu. Các đội công tác Hoa vận củaả tỉnh và Khu đứng chân tại Bàu Hàm vươn ra các nơi để công tác.

Sau quá trình điều nghiên, được cơ sở tận tình giúp đỡ, một bộ phận trung đoàn 4 kết hợp bộ đội huyện Xuân Lộc tập kích yếu khu và trung tâm huấn luyện Gia Ray. Ta diệt 3 đại đội học viên hạ sĩ quan địch, 1 đại đội bảo an và 1 trung đội dân vệ bảo vệ yếu khu, thu 150 súng, 5 tấn đạn, 3 toa xe chở hàng quân sự … giải phóng hơn 7000 dân, làm chủ các xã Bảo Chánh, Bảo Bình, Suối Cát … và vùng dọc lộ 1 tới Đá Mài, Rừng Lá mở thêm cửa khẩu hậu cần.

Bà Hai - nhân viên hậu cần hợp pháp - do đồng chí Ba Bùi (Lê Thành Ba) chỉ đạo, đã khéo nắm quận trưởng Định Quán, tỉnh trưởng Long Khánh và viên thiếu tá chỉ huy khu vực Rừng Lá, sử dụng gia đình họ chuyên chở bán cho ta hàng trăm tấn gạo, thuốc men, vũ khí, đồ dùng quân sự khác.

Sau vài trận đầu đụng độ lính Mỹ[87], cán bộ huyện ủy và Mặt trận huyện Long Thành với sự phối hợp của tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 4 (chặn địch từ quận lỵ về), đại đội 240 của tỉnh cùng du kích xã Phước Thái liên tục tổ chức tuyên truyền võ trang trên tuyến quốc lộ 15, tố cáo tội ác Mỹ ngụy.

Anh Lê Văn Hạnh là cơ sở người Chơro ở Túc Trưng được giao nhiệm vụ trinh sát đồn Túc Trưng do đại đội 623 bảo an đóng giữ. Nhiều lần, anh mang gùi vào đồn trao đổi hàng hóa với lính để nắm tình hình. Thiếu úy Bình là nội tuyến đã móc ráp ngày giờ nổ súng, gần tới thời điểm rằm tháng 8 âm lịch (tháng 9/1965) bí mật tháo khóa nòng các khẩu trung liên, đại liên ở các công sự. Đúng 11 giờ 15 phút đêm 11/9/1965, bộ đội huyện phối hợp du kích xã Túc Trưng chia làm ba mũi tiến công đồn. Bọn địch bị bất ngờ, tháo chạy tán loạn. Ta diệt 1 tiểu đội, thu 23 súng các loại. Sau trận đánh, thiếu úy Bình đi thoát li tham gia kháng chiến luôn. Lực lượng du kích xã phát triển 1 tiểu đội. Mạng lưới cơ sở, cốt cán mật được xây dựng vững mạnh, bước đầu hình thành các tổ mẹ chiến sĩ, chi hội thanh niên giải phóng, chi hội phụ nữ giải phóng, nông hội các ấp.

Để tổ chức lại chiến trường, tháng 9/1965 Trung ương Cục quyết định nâng thị xã Biên Hòa lên một đơn vị tương đương cấp tỉnh, phiên hiệu U1[88] Ban Chấp hành Tỉnh ủy U1 gồm 7 đồng chí: Năm Kiệm (Nguyễn Sơn Hà), Bí thư Tỉnh ủy; Ba Lễ (Trương Văn Lễ), Phó bí thư Tỉnh ủy kiêm Bí thư Thị ủy; Hai Cà (Trần Công An), ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh đội trưởng; Tiêu Như Thủy, Tỉnh ủy viên, trưởng ban Tổ chức và Tuyên huấn; Chín Hàm (Huỳnh Văn Nghi), Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Vĩnh Cửu; Nguyễn Thanh Bình, Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội phó; Nguyễn Văn Thắng, Tỉnh ủy viên. Căn cứ U ủy đặt ở Bàu Sao, Bàu Sình, Bàu 17 phía Bắc Trảng Bom. Tỉnh ủy U1 có nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng cơ sở nội thành Biên Hòa, tạo điều kiện cho bộ đội đặc công thọc sâu đánh hiểm vào các cơ quan đầu não, căn cứ quân sự địch (sân bay, kho tàng …), phá hủy các phương tiện chiến tranh của chúng, chi viện đắc lực cho chiến trường toàn Miền.

Thượng sĩ Giai - nguyên phó chi khu Nhơn Trạch - về làm trưởng đồn Bình Sơn, tuyên bố: “Ngày nào tôi còn sống thì Việt cộng đừng hòng lọt vào khu vực này”. Mới ba tháng nhậm chức, y tổ chức khoảng 40 cuộc đột kích các ấp, đốt 59 nhà đồng bào, bắt tra khảo 21 người - trong đó có 13 phụ nữ. 7 giờ sáng 25/12/1965, một tổ du kích Bình Sơn do đồng chí Hai A trực tiếp chỉ huy, cải trang thành công nhân cao su, dùng xe chở mủ do cơ sở Sáu Quân lái chạy thẳng vào đồn. Tên Giai bị đền tội, 19 tên khác bị tiêu diệt, ta bắt sống 12 tên, giáo dục rồi thả. Bọn tề ấp hoảng sợ trốn hết. Cuộc tiến công quân sự này tạo điều kiện đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và đòi quyền dân sinh của công nhân cao su Bình Sơn cũng như nhiều sở khác vào thời gian sau đó. Nhân dân xã Bình Sơn được thưởng huân chương Chiến công giải phóng hạng hai vào dịp tết Bính Ngọ (1966).

V.3. Mặt trận Dân tộc giải phóng các cấp phục vụ đắc lực nhiệm vụ chống phá bình định, đánh Mỹ diệt bọn chư hầu

V.3.1. Cán bộ ta làm tốt công tác vận động đồng bào công giáo di cư

Từ khi Mỹ đổ quân trực tiếp tham chiến trên chiến trường Biên Hòa, Long Khánh, các Tỉnh ủy U1, Biên Hòa và Long Khánh càng quan tâm xây dựng củng cố các Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh và các cấp dưới, đưa người có đủ uy tín vào để tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân. Ta cũng củng cố phát triển các đoàn thể: công đoàn giải phóng, nộng hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ … thực hiện nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước. Chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng đã đi vào mọi tầng lớp, các giới đồng bào: nhiều nhà tư sản ủng hộ tiền và mua giùm gạo, thuốc men. Nhiều nhà sư và linh mục ủng hộ đường lối của Mặt trận, nhiều thanh niên Phật giáo và Thiên Chúa giáo xung phong tham gia chiến đấu dũng cảm. Các nhân sĩ trí thức tham gia tuyên truyền cho Mặt trận dân tộc giải phóng nhất là với binh sĩ, sĩ quan Sài Gòn và gia đình họ. Công nhân khu kỹ nghệ Biên Hòa và các đồn điền cao su dưới sự chỉ đạo của cán bộ công đoàn giải phóng liên tục đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, cải thiện đời sống, gây mất ổn định ngay trong lòng địch. Đông đảo nông dân là lực lượng chủ yếu vừa đấu tranh quyết liệt chống gom dân lập ấp chiến lược, chống khủng bố, vừa đóng góp nhiều sức người, sức của cho cách mạng. Đặc biệt giới phụ nữ, hội mẹ chiến sĩ ủng hộ đóng góp tích cực cho cách mạng gạo, thuốc men … cũng là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh chính trị, trong công tác binh vận, đảm bảo đường dây giao liên bí mật, công khai từ căn cứ ra vào thị xã, thị trấn trong nhiều hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo.

Vùng Gia Kiệm, Gia Tân là khu vực đồng bào di cư từ miền Bắc vào sống tập trung, đối với ta là vùng trắng, vùng yếu. Sống trong vùng địch kềm chặt, thường xuyên nghe địch tuyên truyền nói xấu cộng sản nên đồng bào rất sợ cán bộ, sợ cách mạng. Ban đầu từng tốp đi làm rẫy thấy cán bộ ta, bà con tấp vào rừng hoặc bỏ chạy, nếu gặp bất ngờ thì lảng tránh quay mặt đi, có cô gái chui vào bụi rậm nấp.

Tháng 10-1966, Huyện ủy Trảng Bom thực hiện nghị quyết 26 Trung ương Cục về việc chuyển vùng trắng, vùng kềm lên vùng tranh chấp, đã thành lập chi bộ Gia Kiệm. Đồng chí Năm Triết (Lê Văn Triết) - Huyện ủy viên - làm bí thư, các đảng viên gồm: Nguyễn Đức Đầy, Ba Tài, Ba Hòa, Tư Trung, Tư Kiệt, Bảy Cao, Bảy Khá, Tám Quyết, Tám Thành, Ba Tùng … Căn cứ của chi bộ ở chân núi Sóc Lu, Hóc Cây Điều, Bàu 17 … Chi bộ thống nhất quan điểm: bản thân người công giáo là người lao động lam lũ, hàng ngày phải lội bộ đến 10 km để vào làm rẫy. Nhiệm vụ của chi bộ gồm các bước: bước một, thâm nhập để tuyên truyền chính sách của Mặt trận; bước hai, xây dựng cơ sở cách mạng trong đồng bào công giáo; bước ba, hướng dẫn nhân dân đấu tranh với địch để bảo vệ quyền lợi dân sinh, chống bắt lính… kết hợp diệt ác phá kìm.

Để đột phá, các đồng chí nhẫn nại bám dân, chí tình giúp dân. Hàng ngày ra rẫy ở các ấp Thanh Sơn, Võ Dõng, Phát Hải, Kim Thượng, Phúc Nhạc, Gia Yên, Bạch Lâm, Dốc Mơ, anh em hóa trang như dân làm rẫy. Lần đầu tiên đội gặp một thanh niên nhớn nhác tìm kiếm, các anh hỏi thì được biết cặp bò nhà anh nọ bị lạc. Các đồng chí cử người về Bàu Hàm tìm thấy, dẫn về; việc làm này gây được cảm tình, từ đó đồng bào dần dần bớt lo sợ khi đi rẫy gặp cán bộ ta. Anh em nói với dân: “Chúng ta chung nòi giống, cùng máu mủ, cùng nỗi đau Tổ quốc chưa độc lập, là người lao động cùng cảnh ngộ, cần thương yêu nhau, sao lại sợ? Chúng tôi không bao giờ làm hại đồng bào, phá đạo như bọn phản động cố tình dựng chuyện để chia rẽ cán bộ giải phóng với dân …”. Anh em đến thăm hỏi làm quen, âm thầm cuốc đất, làm cỏ giúp bà con, chặt cây dựng chòi, giúp thu hoạch: chuối và đập đậu khi dân chưa làm kịp; đến mùa thì giúp dân tỉa đậu … Có lúc săn được thú rừng, anh em chia một phần thịt cho bà con quen. Những việc làm thiết thực đó từng bước làm người dân di cư theo đạo Thiên Chúa hiểu phẩm chất tốt đẹp của cán bộ Mặt trận, những luận điệu tuyên truyền của Mỹ và chính quyền Sài Gòn: Giải phóng trả thù người di cư, họ bắt bớ thanh niên, hãm hiếp phụ nữ … là bịa đặt. Tiếng lành đồn xa, dần dà bà con làm rẫy thấy cán bộ ta không lẩn tránh mà chuyện trò, mời uống nước … Bám dân được thời gian ngắn, anh em yêu cầu bà con về đừng báo cho địch, tiến tới nhờ bà con mua giùm một vài món thiết yếu để thử thách, sau đó giao việc khó hơn.

Dân vận bằng những công việc cụ thể, mang lợi ích đến cho quần chúng, Chi bộ Đảng xã Gia Kiệm xóa được thành kiến với cách mạng (do luận điệu sai trái phản động của địch) trong bà con giáo dân sau 5 tháng lăn lộn vất vả. Cơ sở đầu tiên ở ấp Dốc Mơ là ông trùm Bính, sau đó phát triển thêm các cơ sở khác là các ông Hai Dậu (Phạm Văn Dậu)[89], Ba Bôi, Tư Minh, Tư Xinh, anh Bảy Lệ … gia đình bà trùm Thư. Một số nữ thanh niên như cô Sương, cô Hoàng, cô Oanh … làm tốt công tác giao liên, thông báo tin tức. Một số ông già, trẻ em nhặt được đạn, lựu đạn của lính đã cất giấu ở rẫy, chuyển cho du kích. Thông qua ông trùm Ngọ ở ấp Thanh Sơn, cán bộ ta liên hệ được với linh mục Văn, Linh mục Đỗ Anh Huyn, các ông Hai Mạnh, Nguyễn Hữu Nam (bố cô Sương), Nguyễn Đình Khả, Nguyễn Đức Tính (ấp Võ Dõng); các anh Hải, Tư thợ điện, Tư thợ máy … (ấp Phát Hải); ông Bảy Nghi và năm cơ sở (ấp Phúc Nhạc); ông Tư Búp, Năm Phu (ấp Lạc Sơn), Năm Miên, bà Nguyễn Thị Ngà (ấp Dốc Mơ) và ba cơ sở Việt kiều ở Campuchia về. Ấp Bùi Chu có các cơ sở là ông Từ Văn Bách, Huỳnh Văn Thưởng… Cơ sở mật ở Gia Kiệm tổ chức những hũ gạo nuôi quân ở ngoài rẫy để giúp giải phóng. Ông Hai Mạnh làm toán trưởng phòng vệ dân sự ở Võ Dõng nắm tình hình địch, phục vụ cho ta diệt ác phá kềm. Ông Nguyễn Đức Tính - cơ sở - là thư ký hội đồng xã Gia Kiệm cung cấp cho chi bộ nhiều tin tức giá trị, kịp thời báo cho ta biết những cuộc càn quét, phục kích của địch. Ông mua giùm và chở hàng xe gạo (từ 2 - 3 tấn/chuyến) vào căn cứ cho ta, chưa kể giấy mực, thuốc men các loại. Các đồng chí vận động một số thanh niên đi thoát li tham gia kháng chiến: Tám Chánh, Hàn, Quyền, Hai Khuê, Thành, hai anh em anh Nhân … bổ sung cho du kích xã và đội vũ trang huyện Trảng Bom. Tính đến cuối năm 1966, các địa bàn huyện Trảng Bom không còn vùng trắng, phong trào cách mạng phát triển đều khắp; các xứ đạo, họ đạo Bắc Hòa, Bùi Chu, Trà Cổ, Thanh Hóa (Hố Nai), Thanh Sơn, Võ Dõng, Phát Hải, Phúc Nhạc, Lam Sơn, Dốc Mơ, Gia Kiệm đều có cơ sở, nòng cốt trong giáo dân.

Xây dựng được hệ thống cơ sở, nòng cốt ở vùng công giáo di cư là thắng lợi của đường lối dân vận của Đảng, chính sách đoàn kết tôn giáo của Mặt trận dân tộc giải phóng các cấp.

V.3.2. Ban Kinh tài các cấp vận động thu mua lương thực

Ban Kinh tài tỉnh do đồng chí Tư Định (Võ Văn Lượng) làm trưởng ban (kiêm phó chủ tịch Hội đồng cung cấp tỉnh), Năm Y (Nguyễn Văn Y) là ủy viên, Sáu Kim (Huỳnh Văn Kim) là ủy viên phụ trách bộ phận quân nhu, Năm Văn (Văn Công Văn) ủy viên phụ trách đội an ninh vũ trang thu thuế … Ban Kinh tài có nhiệm vụ: thu mua lương thực thực phẩm, chỉ đạo bảo vệ mùa màng, thu thuế …

Ban Kinh tài xác định trong điều kiện địch kiểm soát, phong tỏa kinh tế, chỉ có làm tốt công tác vận động quần chúng mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ. Ngay năm 1965, để đáp ứng nhu cầu 10 ngàn tấn gạo phục vụ lực lượng vũ trang và các đoàn khách qua lại, với danh nghĩa Mặt trận Dân tộc giải phóng cán bộ ta vận động nhờ dân mua gạo và nhu yếu phẩm, thuốc men các loại rồi chuyển vào những nơi qui định trong rừng. Một số chủ be và lái xe be khi đi chở gỗ rừng cũng mang theo một số bao gạo, giao ở vùng gần căn cứ. Buôn bán gạo lãi không nhỏ nên một số gia đình binh lính và sĩ quan cũng tham gia. Ở một số địa điểm, pháo địch bắn vào gần nơi đổ hàng, dứt trận pháo báo hiệu thì ô tô chở gạo tắp luôn vào. Khối lượng gạo mua qua các cửa khẩu chiếm tỉ lệ cao, đáp ứng phần lớn nhu cầu của bộ đội chủ lực hoạt động dọc quốc lộ 15, dọc lộ 2, chiến trường Châu Đức …

Một công tác khác mà Tỉnh ủy và ban Kinh tài quan tâm: chỉ đạo bảo vệ mùa màng ở các vùng trọng điểm lúa Long Phước, Long An, Tam An, Phước Nguyên, Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Thiền, Phước Kiểng, Tân Định, Thiện Tân … Tỉnh cử các đoàn cán bộ về các xã kể trên vận động bà con cắt lúa xong cứ để ngoài đồng, sẽ có đội vận tải đến chân ruộng chuyển đi. Bà con nhận tiền lúa, mua gạo ngoài chợ về ăn. Cách làm này bảo đảm bí mật cho người bán, địch không thể gây khó dễ cho dân, mà chúng ta bảo đảm mua được nhiều. Đề phòng địch vặn vẹo khi xét hỏi, cán bộ ta bày cho dân cách trả lời hợp lý. Thí dụ nếu chúng hỏi:

- Tại sao gặt xong không chở ngay lúa về nhà?

- Chúng tôi chưa chuyển kịp … 

Trí tuệ nhân dân rất sắc sảo, dồi dào, bà con tùy trường hợp cụ thể mà có câu trả lời làm địch không bắt bẻ được. Nếu chúng bắt người, ta bàn với cơ sở lo lót để địch thả người đó ra. Nhân dân các xã Long An, Long Phước đã được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam thưởng huân chương Giải phóng về việc huy động và bán lúa cho cách mạng. 

Lúa cất ở nhiều nơi, có lúc ta gửi trong dân. Khu vực Suối Cả gần căn cứ Tỉnh ủy có các kho ở rẫy K.95 chứa hàng mấy ngàn giạ gạo.

Ban Kinh tài có đội vũ trang an ninh phục vụ công tác thu thuế. Đội tài chính thu thuế của dân làm be, các tiệm buôn ở thị trấn, các vườn cây ăn trái, các đồn điền cao su. Ở vùng sâu, vùng yếu thì ta lấy danh nghĩa Mặt trận dân tộc giải phóng tuyên truyền vận động bà con đóng đảm phụ và ủng hộ cách mạng. Nhờ cán bộ kinh tài vào dân hoạt động theo tinh thần của Mặt trận nên nói chung công tác hậu cần đạt kết quả tốt, ta có gạo, có tiền đảm bảo chống Mỹ lâu dài.

V.3.3. Vận động nhân dân xã Phú Hội đấu tranh chống địch gom dân

Địch đánh giá: xã Phú Hội là căn cứ của Việt cộng; chúng lấy xã này làm thí điểm nếu bốc được 2000 dân ở đây đi nơi khác thì sẽ làm tiếp xã khác có nhiều cơ sở Việt cộng và Mặt trận Dân tộc giải phóng. Đầu tháng 3/1966, máy bay địch phát loa xã là nơi tự do oanh kích hăm dọa đồng bào phải dời ngay đi nơi khác. Tiểu đoàn biệt động quân Mãnh hổ kéo về có 20 xe tăng và xe bọc thép yểm trợ, cùng lính bảo an, dân vệ lùng sục, càn quét xúc tát dân. Chúng đốt nhà cửa, bà con chạy ra vàm Đồng Môn rồi lại kéo về. Tuần thứ hai, chúng chà xát suốt ngày đêm, bà con đành phải bỏ làng sau khi tên đồn trưởng trả lời thản nhiên: “Bà con phải ra khỏi xã, còn muốn đi đâu thì đi…”. Một số chạy về xã Long Tân, Phước Thọ, Phước Thiền, khoảng 500 người chạy ra khu đền Phước Lộc gần cầu Xéo sống chen chúc cực khổ. Thường vụ Tỉnh ủy cử đoàn cán bộ về cùng Huyện ủy thông qua cơ sở và nòng cốt, chỉ đạo đồng bào làm đơn đòi về xóm ấp cũ làm ăn, sinh sống. Gần 1000 người kéo nhau về quận lỵ Nhơn Trạch đấu tranh với những lá đơn tới 2000 chữ ký. Một đoàn do ông Lư Văn Thiên dẫn đầu cùng các ông Năm Tố, Bảy Chu, Quách Văn Nhiêu và nhiều bà con kéo về tòa tỉnh trưởng Biên Hòa. Tỉnh trưởng Trần Văn Hai xé đơn, quát tháo: “Phú Hội chứa chấp Việt cộng, tất cả phải đi để quân đội quốc gia ném bom hủy diệt!” và y cho lính đuổi dân về. Đoàn biểu tình kéo lên phủ Tổng thống, lính không cho vào. Đoàn có sáng kiến tranh thủ các nhà sư ở Viện Hóa đạo, để trình kiến nghị với Nguyễn Cao Kỳ.

Đến 9 giờ sáng, Nguyễn Cao Kỳ tiếp đoàn, coi đơn. Ông Thiên trình bày: “Hiện giờ hai ngàn dân xã tôi rất khổ, phải bỏ nhà, bỏ ruộng vườn lánh nạn các nơi. Lính các ông cướp phá, kẻ gian cũng lợi dụng cướp theo, nhân dân căm giận các ông. Nếu không cho về, dân sẽ kéo hết vô rừng theo cộng sản …”. Nguyễn Cao Kỳ cho cấp dưới về ngay Nhơn Trạch điều tra. Đến 11 giờ trưa, Kỳ giải thích với đoàn đại biểu nhân dân Phú Hội: “Phủ tổng thống không có lệnh đuổi dân. Trường hợp này là ở dưới đó các ông ấy làm sai. Đề nghị bà con trở về, tôi sẽ điện về tỉnh”.

Ngay chiều hôm đó, Nguyễn Cao Kỳ bay về Biên Hòa trao đổi với tỉnh trưởng Trần Văn Hai rồi điện cho quận trưởng Nhơn Trạch là Lê Quang Trọng. Vài ngày sau, máy bay địch phát loa kêu gọi đồng bào Phú Hội trở về quê cũ làm ăn. Bà con làm bản kê khai thiệt hại, chính quyền Sài Gòn đền bù một số hòng mua chuộc tình cảm bà con. Âm mưu tát dân đi nơi khác để biến một xã thành vùng đất không người (no man’s land) bị thất bại sau một tháng nhân dân đồng lòng đấu tranh kiên quyết theo hướng dẫn của cán bộ Mặt trận.

V.3.4. Mặt trận xây dựng thực lực ở các xã ven thị xã Biên Hòa

Xã Tân Vạn[90] được địch đánh giá là vùng tuyệt đối an toàn vì nhiều năm liền không xảy ra cuộc đấu tranh hoặc không có dấu hiệu Việt cộng về hoạt động: không có vụ diệt ác phá kềm nào, không có trận đánh nào. Đây là vùng địch kềm chặt nhưng phong trào cách mạng vẫn tồn tại. Ta xây dựng được 1 tiểu đội du kích (một nửa mật, một nửa thoát ly); đào một số hầm bí mật ở các lò gạch Sáu Phai, lò ông Ba Tụ, lò ông Bảy Bê, lò Hai Trung, trong nhà ông Năm Gai, nhà ông Năm Dách, hầm ở gò Bà Khâm, hóc Mây, gò Đá …

Dưới vẻ ngoài hoàn toàn yên tĩnh, cán bộ ta âm thầm xây dựng cơ sở: ông Tư Cử, ông Năm Báo, bà Năm Trà, bà Bưởi, ông Mười Quang … Vợ chồng ông bà Nguyễn Văn Bi - Lữ Thị Lê dùng xuồng chăn vịt tiếp tế lương thực, thuốc men cho anh em; ông Kèm, ông Hai Sửu, ông Tư Lèo mua máy chữ và văn phòng phẩm chuyển vào căn cứ. Từ năm 1966, một số cán bộ thị xã Biên Hòa về đây: Tư Minh, Năm Hiền, Năm Thắng, Năm Truyền, Bảy Thành … Ngoài ra Huyện ủy Thủ Đức có các đồng chí Sáu Mạnh, Chín Hựu … Anh Năm Trung, cán bộ công vận Thị ủy Biên Hòa tổ chức được ba lõm chính trị để cán bộ đi về hoạt động. Đồng chí Năm Thơi, cán bộ công đoàn giải phóng Sài Gòn - Gia Định cũng lui tới, lấy đây làm một bàn đạp vươn vào nội đô công tác. Xã Tân Vạn là cái túi chứa thanh niên trốn quân dịch, đồng bào đùm bọc và báo tin kịp thời mỗi khi địch lùng sục. Ta nắm được và xây dựng cơ sở Cai, Út Đồng trong bộ máy hành chính xã, những cơ sở này chở che số thanh niên trốn lính, làm ngơ những cuộc quyên góp, nuôi giấu cán bộ nằm vùng.

Xã Tân Hạnh thuộc vùng sâu, sau một thời gian chi bộ củng cố, đã phát động cơ sở lãnh đạo quần chúng đấu tranh kết hợp ba mũi. Khu vực miễu Bòng Bong xây dựng thành khu tử địa, du kích đào hầm hố, cắm chông dày đặc, gài lựu đạn. Anh em cho nổ một trái gây tiếng vang và tung tin: đây là nơi bất khả xâm phạm của bộ đội giải phóng khiến lính và dân vệ không dám léo hánh. Bộ đội huyện kết hợp du kích các xã Tân Hạnh, Tân Hiệp, Bình Trị tổ chức nhiều cuộc võ trang tuyên truyền, phát loa tuyên truyền chính sách của Mặt trận … Anh em đi đi lại lại xéo nát nhiều đám cỏ bên ngoài các ấp rồi hôm sau cơ sở ra báo với xã “Giải phóng về đông lắm, khiêng theo súng lớn có đạn như bắp chuối …” để hù dọa gây hoang mang tinh thần địch. Mỗi khi xóm ấp nổi trống mõ, ta vận động số gia đình binh sĩ và tề vệ địa phương đánh trước rồi các gia đình khác đồng loạt đánh theo làm số tề vệ phải nương tay không dám ra mặt khủng bố dân. Số tề nói chung là dân địa phương cầu an bảo mạng, chỉ có Năm Hoành làm chỉ điểm ngầm của phòng nhì tiểu khu Biên Hòa. Sau nhiều lần đưa thư cảnh cáo giáo dục, y không hối cải, Chi bộ và cơ sở mật phải xử lý để đảm bảo an ninh cơ sở.

Máy bay Mỹ rải chất độc hóa học phá hoại mùa màng, chi bộ chỉ đạo cơ sở nòng cốt vận động bà con làm đơn đòi bồi thường thiệt hại lên quận Dĩ An, lên tỉnh trưởng Biên Hòa. Kết quả chúng phải đền bù những hoa màu, cây ăn trái bị chết.

Gây bất ổn cho địch, cán bộ và du kích ta đi thu đốt sổ cư trú (sổ gia đình), vận động bà con ra hội đồng xã xin cấp sổ khác. Địch hăm he dọa nạt, bà con nói thẳng: “Chúng tôi dân gốc sở tại cần gì sổ cư trú, nhưng lính xét biết đưa giấy gì ? Giữ sổ trong nhà, mấy ông giải phóng lại về lấy thôi …”.

Địch càn quét ngoài đồng và ven rừng ác liệt, đồng bào che giấu cho cán bộ bám trụ bên trong. Một số má và chị được xây dựng thành giao liên đi đường công khai không hề bị lộ, tin tức tài liệu từ căn cứ chuyển vào, báo cáo gửi ra đều trót lọt.

V.3.5. Công nhân khu kỹ nghệ Biên Hòa đấu tranh bảo vệ quyền lợi

Nhà máy tôn xi măng của một công ty Pháp, giám đốc là Gô-chi-ê (Gauthier), lúc đầu lấy tên SOVINAC, sau đổi thành ETERNIT, thành lập năm 1963. Nhà máy vừa xây dựng vừa sản xuất, chỉ trong vòng hai năm đã thu hồi vốn. Chủ hãng lãi lớn nhưng lương công nhân rất thấp. Ban công vận thị xã cài được một số đảng viên mật và cơ sở nòng cốt vào đây như: Sáu Khinh, Hai Hồng, Hai Ngọc, Năm Tui …

Để bảo vệ quyền lợi công nhân, đầu năm 1966, các đảng viên mật vận động số nòng cốt và cảm tình trong nghiệp đoàn làm đơn với các yêu sách: tăng lương 30%; công nhân hàng năm được phát hai bộ đồ bảo hộ lao động; thay cà phê trong ca đêm bằng cháo thịt hay cháo đường. Viên giám đốc không giải quyết, ta chuyển bản kiến nghị lên thanh tra lao động tỉnh Biên Hòa. Cuộc đấu tranh được tổ chức chu đáo với đại diện công khai là anh Đinh Thành Quốc. Viên giám đốc hành chính của hãng, đồng ý chấp nhận tăng lương cho thợ đàn ông từ 50 đồng lên 62 đồng/ngày, thợ đàn bà từ 36 lên 40 đồng; mỗi năm cấp hai bộ quần áo, ăn cháo thịt vào ca đêm. Viên giám đốc Pháp có thái độ hống hách xúc phạm nhân phẩm và định sa thải vô cớ ông Khởi, anh chị em thúc đẩy nghiệp đoàn đấu tranh chống đuổi thợ và đòi tăng lương 50%, Gauthier phải công khai xin lỗi trước toàn thể công nhân và chấp nhận tăng lương hàng quí do vật giá leo thang. Qua thực tế, anh chị em công nhân hiểu muốn hưởng quyền lợi chính đáng, phải đoàn kết không thể trông chờ “lòng tốt” của giới chủ.

Ở Nhà máy giấy Đồng Nai - thương hiệu COGIDO - là xí nghiệp đầu tiên xây dựng ở khu kỹ nghệ Biên Hòa, đông công nhân nhất. Hòa nhịp với phong trào công nhân và lao động Sài Gòn sôi nổi đòi quyền dân sinh dân chủ, vào dịp Quốc tế lao động 1966, nghiệp đoàn Cogido - có cán bộ công đoàn giải phóng chỉ đạo ngầm - tổ chức cho anh chị em họp thảo luận “bản thỏa ước” với giám đốc nhà máy. Nội dung bản thỏa ước: yêu cầu tăng lương và phụ cấp đắt đỏ, thêm một bộ quần áo bảo hộ lao động, có xe đưa rước, lập quĩ dự phòng thất nghiệp … Yêu sách đưa lên, tổng giám đốc không trả lời; trong khi công nhân các nhà máy lân cận đều được giới chủ giải quyết đòi hỏi chính đáng. Sau khi xin ý kiến Thị ủy Biên Hòa, đồng chí Năm Trung - đảng viên mật - tổ chức họp 30 đại biểu công nhân - trong đó có hàng chục cơ sở nòng cốt công đoàn giải phóng phát triển từ trước - có cả cảnh sát tham dự. Các đại biểu bầu ban chỉ đạo và các tiểu ban: bảo vệ, trật tự,cứu hỏa, y tế, nấu ăn, thông tin đối ngoại. Mỗi tiểu ban chọn thêm ba đến bốn chục người tốt.

Ngày 16/6/1966, toàn thể 700 công nhân đồng loạt đình công chiếm xưởng. Nhà máy ngưng sản xuất cổng đóng chặt không cho ai ra vào. Công nhân ăn ngủ tại xưởng, đeo phù hiệu để dễ phát hiện kẻ lạ trà trộn phá hoại. Ban bảo vệ trang bị gậy gộc tuần tra cẩn mật. Ban thông tin cho in truyền đơn, bản tin kêu gọi công nhân các nơi ủng hộ cuộc đấu tranh này. 7 giờ sáng, tổng giám đốc từ Sài Gòn lên, sau đó tỉnh trưởng Biên Hòa cũng tới, theo sau là một đại đội cảnh sát dã chiến với vài xe vòi rồng. Ban Công vận thị ủy chỉ đạo chặt chẽ, vận động hơn hai chục xí nghiệp trong khu kỹ nghệ Biên Hòa ủng hộ gạo, thực phẩm, thuốc men. 1 nhà máy ở Dĩ An và 2 xí nghiệp ở Sài Gòn cử đại biểu lên thăm, nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần đấu tranh của công nhân Cogido. Cuộc đình công được vài ngày, cảnh sát dã chiến lại kéo xuống nhưng anh chị em thuyết phục, họ đã rút lui.

Cuộc đình công chiếm xưởng kéo dài bảy ngày, giám đốc Nha cảnh sát Sài Gòn là Nguyễn Ngọc Loan, tỉnh trưởng Biên Hòa và thanh tra lao động tỉnh phải về xem xét và công nhận cuộc đình công hợp pháp. Tổng giám đốc nhà máy phải chấp nhận yêu sách của anh chị em. Cùng thời gian này, 10 nghiệp đoàn khu kỹ nghệ cũng đưa kiến nghị cải thiện đời sống; giới chủ khôn ngoan chấp nhận ngay để tránh thiệt hại lớn.

Phong trào đấu tranh liên tục của công nhân khu kỹ nghệ Biên Hòa đã góp phần làm sôi động thêm phong trào đấu tranh ở đô thị, vạch trần bản chất của tư bản câu kết cùng ngụy quyền, bảo vệ được quyền lợi chính đáng của người lao động.

Thực tế số đảng viên mật ở khu kỹ nghệ chỉ có vài ba đồng chí hoạt động đơn tuyến, nhưng có thể lãnh đạo đấu tranh thắng lợi chính là nhờ vào việc vận động quần chúng, xây dựng được mạng lưới cơ sở khá đông trong công nhân và nhân dân xung quanh khu kỹ nghệ.

Hỗ trợ cuộc đấu tranh của công nhân, rạng sáng 22/6/1966, các chiến sĩ đặc công U1 do các đồng chí Bùi Văn Hòa, Nguyễn Tấn Vàng, Nguyễn Văn Thái chỉ huy đã bí mật đột nhập khu đồi 51 trong tổng kho Long Bình, đặt mìn hẹn giờ phá hủy 40 ngàn trái bom và đạn pháo[91]. Chiến công vang dội của bộ đội đặc công U1 đánh lủng dạ dày địch góp phần bẻ gãy đợt phản công mùa khô lần thứ hai của Mỹ. Chiến công đó có sự đóng góp không nhỏ của cán bộ, cơ sở mật Vĩnh Cửu.

Các anh Năm Tuyền (Nguyễn Thanh Tuyền), Tám Quang (Lê Văn Lộc) được Thị đoàn Biên Hòa bố trí bám trụ ở xã Hiệp Hòa trong cánh CZ.2 thị xã. Các anh xây dựng cơ sở trong học sinh thanh niên mà trọng điểm là trường trung học Ngô Quyền. Tỉnh ủy U1 bố trí nữ đồng chí Ba Anh (Huỳnh Lang Anh) vào cánh CZ.1. Chị bám trụ ở Bửu Long và nhà bà Bảy Vết ấp Lân Thành. Bằng nhiều hình thức công khai, chị vận động được một số thanh niên ấp Lân Thành, Tân Mai, Vĩnh Thị … trong đó có nhiều học sinh trường Ngô Quyền: Hiền Thảo, Lan, Thân, Tám Hoa, Mai … Chị tổ chức cho một số cảm tình lên điểm hẹn ở căn cứ Hưng Lộc để họ tận mắt thấy cảnh chiến tranh hủy diệt ác liệt. Chị chuyển gần ba trăm cuốn Sống như Anh viết về Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi cho nhiều thanh niên tốt đọc. Lực lượng thanh niên do chị tổ chức nhiều lần tham gia rải truyền đơn ở các ấp Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị … và thu lượm tin về lực lượng biệt kích Mỹ (My Force) đóng ở gần nhà máy cưa Tân Mai báo cho cán bộ ta.

Tháng 10/1966, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định thành lập Huyện ủy Trảng Bom trên cơ sở Ban cán sự di cư. Đồng chí Ba Thái (Thái Văn Thái) làm bí thư, các ủy viên Thường vụ: Hai Kéo là huyện đội trưởng, Mười Yên là huyện đội phó; các Huyện ủy viên: Hai Liên (Nguyễn Thị Ngọc Liên) là huyện đội phó, Sáu Lố, Năm Triết … Huyện ủy Trảng Bom bám trụ địa bàn Bàu Cá, Bàu Hàm để chỉ đạo hoạt động công tác trong vùng đồng bào công giáo di cư và đồng bào Nùng, Hoa.

Cũng trong tháng 10, Khu ủy quyết định sáp nhập hai Huyện ủy Long Thành, Nhơn Trạch thành Huyện ủy Long Thành do đồng chí Hai Thông (Nguyễn Văn Thông) làm bí thư[92]. Căn cứ Huyện ủy Long Thành di động giữa Tam An, Tam Phước, lòng chảo Nhơn Trạch.

Tháng 1/1967 Tỉnh ủy U1 mở cuộc họp cán bộ huyện và các xã huyện Vĩnh Cửu, thành lập lại Ban cán sự huyện Vĩnh Cửu gồm: đồng chí Hà Quang Minh làm bí thư, hai đồng chí Ba Tài, Bảy Ô là ủy viên. Sau mỗi đợt lực lượng vũ trang ta tiến công mạnh ở tỉnh lỵ Biên Hòa thì quân Mỹ và quân đội Sài Gòn lại càn quét ác liệt các xã Thiện Tân, Tân Định, Bình Long, Tân Phú … hòng triệt phá bàn đạp tiến công của ta. Ban cán sư huyện chỉ đạo: cán bộ cần bám chặt dân để xây dựng cơ sở, du kích và cán bộ được bộ đội đặc công giúp đỡ cũng đẩy mạnh võ trang tuyên truyền trong các ấp. Tại ấp 7 Thiện Tân, Chi bộ và cơ sở mật làm được 5 hầm bí mật với đủ lương thực thực phẩm và vũ khí cho đặc công tỉnh. Nhân dân các ấp 7 và ấp Ông Hường nắm tin tức hoạt động của địch, dùng đèn làm hiệu để cán bộ chiến sĩ vào ấp công tác an toàn dù Mỹ đóng chốt trong ấp. Ở các xã Bình Long, Tân Phú, Bình Thạnh … dù bị kềm chặt, các chi bộ lãnh đạo dân từng lúc đấu tranh bung về đất cũ để trồng tỉa, làm ăn, chống địch bắn pháo bừa bãi ra ruộng.

Tháng 2/1967, Mỹ mở cuộc hành quân Gian-xơn Xiti (Junction City) đánh vào khu căn cứ Dương Minh Châu của Miền thì U1 nhận được lệnh phải đánh mạnh tổng kho Long Bình và sân bay Biên Hòa. Ngày 4/2/1967, đại đội 2 đặc công U1 do đồng chí Tư Già (Nguyễn Văn Thái) chỉ huy đã bí mật đột nhập dùng mìn hẹn giờ đánh liền 40 kho bom đạn, phá khoảng 800.000 trái các loại. Chiến công này góp phần hỗ trợ chiến trường chung đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ và quân đội Sài Gòn.

Phát huy chiến thắng Long Bình, Tỉnh đội U1 cử hai anh Sáu Châu và Sáu A trong đội biệt động thị xã đi đánh kho xăng Biên Hòa. Đây là kho xăng dầu lớn, địch canh gác cẩn mật. Hai cơ sở mật ở Gò Me (ấp Lân Thành) là Trần Văn Hai và Năm Luỹ dùng xe Honda chở các anh đi điều nghiên. Tháng 3/1967, đội biệt động với kỹ thuật đặc công đột vào, dùng mìn hẹn giờ đánh cháy 2 triệu lít xăng và 2000 phuy nhớt suốt hai ngày đêm. Bộ Tư lệnh quân khu thưởng huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất cho trận đánh này.

V.3.6. Đội thiếu nhi Bình Sơn tham gia đánh Mỹ và chư hầu Thái

Đầu năm 1967, chi bộ Bình Sơn chỉ đạo thành lập đội Thiếu niên tiền phong Bình Sơn. Thoạt đầu chỉ có một tổ với ba em: Mơ (tổ trưởng), Mười và Tâm, rồi phát triển thêm một tổ ba em Lý, Phụng, Ri; mấy tháng sau đội đã có 33 em. Các đoàn viên phụ trách đội tổ chức cho các em vui chơi ca hát đồng thời lấy thực tế Mỹ bắn phá, giết chóc nhân dân, tàn phá quê hương để giáo dục lòng căm thù địch. Lính Mỹ hay đùa giỡn với trẻ em, bộc lộ nhiều sơ hở. Các em đội viên thiếu niên Bình Sơn lợi dụng cơ hội thuận tiện, đã lấy được súng đạn, bản đồ … cho du kích. Các em còn trinh sát nắm tin tức, làm giao liên phục vụ các chú, các anh đánh địch. Một đêm lợi dụng lính Mỹ ngủ say ở chốt, Lý bí mật bò vào ném một trái lựu đạn diệt 3 tên, làm 5 tên bị thương làm lính bảo an hoang mang, tưởng đâu “Việt cộng xuất quỉ nhập thần từ trên trời rớt xuống”. Một đêm khác, Lý bí mật bám đuôi một toán lính Mỹ vào xóm Đình phục kích. Khi từng tên đi qua chiếc cầu nhỏ, Lý ném liền hai trái lựu đạn, chúng tưởng bị Việt cộng phục kích, ù té chạy tán loạn, sau đó quay lại khiêng 2 xác chết và dìu 2 tên bị thương về chốt. Lý trở thành “dũng sĩ thiếu niên diệt Mỹ” đầu tiên ở Bình Sơn. Một đơn vị lữ 199 Mỹ đóng quân ở bìa rừng An Viễn. Các em Lý, Hoan, Kim làm như đi lượm vỏ đồ hộp, nhanh chóng phân công nhau đốt tranh, gió thổi làm đám cháy lan rộng, bốc cao. Lính Mỹ dập không kịp, đạn và lựu đạn thi nhau nổ làm chúng bỏ chạy. Ba chốt dã ngoại gồm 64 lều bạt ra tro, 3 khẩu đại liên hư, gần 30 thùng đạn và lựu đạn nổ tung …  Các em còn đào hầm bí mật, ngụy trang kỹ để cất giấu lựu đạn, mìn. Ngày 27/11/1967, Lý và Trung gài mìn, diệt 9 lính Thái “Mãng xà vương” ngay khu vực nhà máy chế biến mủ.

Các cô chú cán bộ, du kích ở căn cứ thiếu thuốc chữa bệnh. Địch biết, phong tỏa ngặt không cho vận chuyển thuốc, nhất là các loại kháng sinh (hồi đó gọi là trụ sinh). Cơ sở mua và bọc thuốc kỹ như trái banh vải, đưa các em làm như say sưa rê dắt đá trái banh đó từ trong ấp qua cổng lính gác một quãng xa, rồi có người tới nhận, nhờ vậy căn cứ có thuốc chữa bệnh giải quyết phần nào khó khăn. Tuổi nhỏ song đội thiếu nhi Bình Sơn với tinh thần Trần Quốc Toản góp phần cùng các cô chú, anh chị đánh địch, thể hiện rất rõ phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương.

Thiếu nhi xã Phước An cũng có hành động tương tự. Cơ sở ta mua thuốc và sữa bao gói thành trái banh rồi cho một nhóm thiếu nhi chơi trò đá bóng. Trái bóng rê dắt từ giữa ấp, lần lần lăn qua cổng trạm gác của lính rồi có người mang trái bóng sữa - thuốc đi vào căn cứ Rừng Sác.

V.3.7. Phong trào nông dân và công nhân cao su phát triển

Trên chiến trường Long Khánh, đội biệt động thị xã vừa xây dựng lực lượng vừa tổ chức đánh 14 trận vào nhà ở của cố vấn Mỹ, đánh sân bay Long Khánh, đánh căn cứ chiến đoàn 43 sư 18, diệt 670 tên Mỹ, ngụy. Công nhân và du kích mật các sở cao su Hàng Gòn, Ông Quế đi dân công mang vác đạn ĐKB phục vụ trung đoàn pháo 274 bắn phá căn cứ thiết giáp Suối Râm của Mỹ.

Trong khi đó phong trào công nhân các đồn điền cao su liên tục đấu tranh đòi tăng lương, liên tục đấu tranh chống Mỹ bắn phá hủy diệt cây cao su, chống rải chất độc hóa học xuống các sở cao su Suối Tre, Bình Lộc, Cẩm Đường, Hàng Gòn, Ông Quế … Trong lãnh đạo đấu tranh, ta vận động được các chủ đồn điền ủng hộ, bởi địch phá hoại cao su tức đụng chạm quyền lợi của tư bản. Mỹ buộc giám đốc Pháp đóng cửa sở cao su, lấy công nhân đi làm đường cho chúng, công nhân ta tranh thủ sự ủng hộ của người Pháp nên hạn chế việc bắt phu và Mỹ phải bồi thường mỗi cây cao su chặt hạ 700 đồng cho sở. Số nam công nhân chỉ bằng 1/5 tổng số lao động các đồn điền cao su nhưng cán bộ ta vẫn vận động được hàng trăm anh em đi tham gia kháng chiến qua việc tổ chức tương trợ các gia đình. Nữ công nhân và các bà lớn tuổi làm công tác binh vận tùy trường hợp. Bà Lê Thị Diệp ở Suối Tre gọi được 20 dân vệ về với nhân dân. Vì không biết tiếng Anh, khi gặp lính Mỹ, một phần các bà các chị ra hiệu bằng tay hoặc tranh thủ số thông ngôn để dịch giùm, có lúc đưa truyền đơn vận động lính Mỹ đòi hồi hương, phản chiến tận tay bọn chúng. Binh vận lính Mỹ, ta đã hạn chế phần nào sự tàn ác, phá hoại của chúng. Đội du kích Cẩm Mỹ phần đông là nữ liên tục bao vây căn cứ Mỹ. Má Nguyễn Thị Nhâm ở Bảo Vinh đang làm rẫy đã dũng cảm chặn đường 13 xe tăng và thiết giáp Mỹ càn khiến chúng phải đổi hướng, bảo vệ bộ đội và du kích ta đóng phía sau nhà má “Tao sợ chúng bay chết hơn sợ xe tăng nó!”.

Để phối hợp và phục vụ hoạt động vũ trang, Tỉnh ủy và Tỉnh đội U1, Ban cán sự huyện Vĩnh Cửu lãnh đạo các chi bộ Thiện Tân, Tân Định huy động đội dân công tải đạn DKB. Đêm 11/5/1967, trung đoàn pháo 274 của Miền từ Chiến khu Đ về vùng đồi Tân Tịch lập trận địa. Chi bộ Tân Phú, Bình Long huy động cơ sở tổ chức trận địa giả ở bờ sông Đồng Nai. 1 giờ sáng 12/5, 48 khẩu DKB và 2 khẩu ĐKZ 75 nã đạn vào sân bay Biên Hòa, những lằn chớp giật và sét đánh tới tấp làm sáng rực góc trời, rồi những cuộn khói bốc lên không ngớt. Ta phá hủy 150 máy bay các loại, diệt nhiều sĩ quan lái và nhân viên kỹ thuật Mỹ tại đây.

Lấy công tác dân vận của Mặt trận làm cơ sở, phong trào đấu tranh hai chân ba mũi kết hợp xây dựng thực lực, cách mạng huyện Trảng Bom phát triển rộng nhưng mạnh nhất ở hai xã Hưng Lộc và Bàu Hàm. Huyện đội Trảng Bom vận động tổ chức được đội nữ pháo cối khoảng 10 người do chị Ba Vui phụ trách. Đội pháo cối Trảng Bom nhiều lần phối hợp với bộ đội huyện đánh các đồn Sông Thao, Bàu Hàm, Trảng Bom, Bàu Xéo.

Chi bộ xã Bàu Hàm qua thử thách công tác thực tế đã phát triển một số đảng viên mật: Dương Phúc Sinh, Hồ Bát, Chương Phát Dưỡng. Hàng chục bà con trở thành cơ sở, cảm tình của Mặt trận. Tiểu đội du kích trang bị đủ súng đạn, vừa tự động đánh địch vừa cung cấp tình hình và dẫn đường cho bộ đội đánh địch. Ta cài các anh Vòong Xi, Xú Quai Thấm vào làm nội tuyến lính bảo an, anh Vòong A Tài làm trung đội phó nghĩa quân (dân vệ); các anh em này nhiều lần thông báo tin tức để ta ứng phó kịp thời, tránh bớt tổn thất cho cách mạng. Tổ binh vận gồm bà Ba Hằng, các chị Ba Nhung, Tư Mùi, Năm Sào … làm nòng cốt thường vận động binh lính người địa phương không đi phục kích, không theo lệnh chỉ huy đi phá nương rẫy của bà con.

Xã Hưng Lộc cũng phát triển một số đảng viên mật: Tư Việt, Tư Xương, bà Hai Điểm, bà Hai Thịnh … Bà Tám Tiền có hai con đi lính, một người là sĩ quan. Khi ta đánh đồn Sông Thao, một con bà bị chết. Cán bộ địa phương đến nhà chia buồn, tuyên truyền đường lối chính nghĩa của Mặt trận dân tộc giải phóng. Hiểu ra, bà cho người con út đi theo kháng chiến, bản thân bà trở thành cơ sở cốt cán, luôn luôn đi đầu trong các cuộc đấu tranh vận động binh sĩ Sài Gòn bỏ ngũ về với cách mạng. Chị Năm Cần là giáo dân trở thành cơ sở tin cậy của cán bộ chiến sĩ ta. Tổ binh vận tổ chức cho các bà các chị vào đồn lén rải truyền đơn Mặt trận, làm hàng chục binh sĩ bỏ ngũ. Ba nội tuyến được cắm vào các đơn vị bảo an, dân vệ đồn Sông Thao, ấp Hưng Nghĩa, ấp Nguyễn Thái Học. Ở khu vực Kiệm Tân, bộ đội huyện và du kích xã nhiều lần phục kích diệt bọn nghĩa quân, phá rã phòng vệ dân sự hai ấp Võ Dõng, Lạc Sơn. Được cơ sở báo tin và dẫn đường, đồng chí Tư Đầy đột nhập ấp Thanh Sơn diệt một tên tình báo do tiểu khu Long Khánh phái về do thám. Du kích diệt hai tên mật vụ và một công an chìm ở sở cao su Bình Lộc.

Chi bộ xã Hố Nai  do đồng chí Tư Kiệt làm bí thư đã tổ chức thêm một số cơ sở là đồng bào công giáo di cư. Một số vị linh mục trong đó có linh mục Ngự vận động giáo dân tổ chức cho thanh niên trốn bắt lính tại nhà thờ, ủng hộ cách mạng.

Để kịp thời chỉ đạo, Huyện ủy Định Quán chuyển từ căn cứ Bình Lộc về căn cứ vùng chảo Túc Trưng. Các đồng chí Ba Côn, Mười Hai, Tư Đức, Tư Hồng Lạc, Năm Hoà, Chín Nhiều … là cán bộ huyện được cử về tăng cường cho các xã. Đội công tác cao su do đồng chí Bảy Mai phụ trách có thêm các đồng chí Bảy Hạnh, Tám Thọ và một số công nhân cao su: anh Di, Được, Trí, Trung, Hòa … Qua vận động công nhân, hàng tháng anh chị em công nhân đóng góp tiền, gạo … cho tổ chức công đoàn giải phóng mật gửi ra vùng căn cứ ủng hộ cách mạng. Thực lực phát triển mạnh nhất toàn huyện là xã Túc Trưng. Ở đây có hai chi bộ với chín đảng viên[93] và hàng chục nòng cốt cơ sở rải ra các ấp. Tiểu đội du kích xã thường đột nhập các ấp diệt ác phá kềm, đánh lính bảo an, dân vệ. Tổ binh vận có một số nội tuyến trong lính bảo an, dân vệ; cung cấp cho ta nhiều tin quan trọng, chuyển ra ngoài hàng trăm lựu đạn, hàng ngàn viên đạn các loại nên du kích xã không thiếu vũ khí.

Các xã La Ngà, Định Quán, ấp cây số 110 đều tổ chức được chi bộ mật. Chi bộ mật ở ấp cây số 110 do đồng chí Thu Hà làm bí thư, chị trực tiếp chỉ huy đội du kích mật đánh nhiều trận táo bạo khiến tề vệ hoảng sợ co lại. Chị Út Xinh là cơ sở dám đào hầm bí mật nuôi giấu các anh Hai Tâm, Ba Ngào, Mười Miên, Út Thiện … Bà Ba Hoành làm vách lá hai lớp để anh em du kích đột ấp có chỗ trú ẩn khi địch lùng xét. Cây số 125 trước kia rất thưa dân, về sau một số gia đình từ Bến Nôm (và các nơi khác) đến làm ăn mới đông dần. Cán bộ ta móc nối với dân Bến Nôm; các ông Ba Tôn, Tư Hổ, các chị Nở, Năm Bắc … trở thành cơ sở nòng cốt báo tin, mua lương thực, hàng hóa cho các đơn vị hậu cần.

Để vận chuyển và thu mua hàng thuận lợi, Đoàn hậu cần 84 dùng nhiều cách, kể cả dùng tiền lo lót các đồn bót trên dọc lộ 20 để xe chở lương thực, hàng hóa dễ dàng qua các trạm kiểm soát của địch. Anh Ba Long - một cơ sở mật - khéo móc nối với viên trung úy đồn trưởng đồn 125, điện về tiểu khu cho rút 6 cố vấn Mỹ khỏi đây để chúng không gây khó dễ cho việc vận chuyển hàng cho ta. Một cơ sở khác là anh Hai Quỳ dùng giấy tờ hợp pháp chuyển mỗi lần hai, ba xe gạo dưới danh nghĩa chở gạo cho cô nhi viện Đà Lạt. Nhờ nhiều cơ sở, Đoàn hậu cần đã tích trữ được 500 tấn lương thực, 100 tấn thực phẩm và nhu yếu phẩm, thuốc men trong các kho ven lộ 20 ở Túc Trưng, Vĩnh An, Phương Lâm, Trà Cổ, Định Quán.

Huyện ủy Định Quán chủ trương dùng tổ chức Mặt trận các cấp vận động nhân dân đấu tranh bung ra ruộng rẫy trồng tỉa, cán bộ ta càng dễ tiếp xúc móc nối với dân, càng dễ tuyên truyền cách mạng. Nhìn chung, thế làm chủ của ta trên toàn địa bàn huyện ngày càng rộng và mạnh mẽ. Đây là điều kiện huyện phục vụ đắc lực cho cuộc tiến công và nổi dậy đầu Xuân Mậu Thân 1968 về sau.

V.3.8. Đấu tranh với lính chư hầu Thái Lan

Ngày 5/7/1967, lữ đoàn Mãng xà vương của Thái Lan tới Long Thành, mới đầu chúng đóng ở căn cứ Nước Trong, sau phân ra đóng một tiểu đoàn ở sở cao su Hê-lê-na (Héléna), một tiểu đoàn ở căn cứ phía Tây quốc lộ 15 án ngữ phía sông Đồng Nai đi lên, còn ban chỉ huy đóng ở Tam An. Trung tuần tháng 9/1967, địch đổ thêm sư đoàn Báo đen mở rộng phạm vi chiếm đóng: một tiểu đoàn về đóng ở khu vực chùa Nước Nhỉ và ở ngã ba đường ủi, một tiểu đoàn xuống ấp Phước Hòa lập cụm chỉ huy, một tiểu đoàn về đóng ở Bình Sơn. Chúng cho xe ủi mở rộng đường ngã ba Phước Lai cắt qua khu lòng chảo tới Vũng Gấm, Hang Nai. Một số đóng bót Phước Long, chốt Vườn Điều xã Phước Thọ … khống chế Rừng Giồng, Rừng Sác.

Huyện ủy Long Thành tổ chức đợt học tập cho cán bộ, chiến sĩ sau đó triển khai rộng trong nhân dân về việc quân chư hầu Thái vào đây. Mỹ đưa mấy trăm ngàn quân vào miền Nam âm mưu nhờ vũ khí hiện đại có thể đánh mau thắng mau. Nhưng chúng không làm được, phải đưa quân Thái vào chết thay cho lính Mỹ.

Lính Thái Lan rất mị dân, mua chuộc dân bằng cách cho của cải và đồ đạc, đi càn bố ít cướp bóc. Chúng rất mê tín, đi càn thì càn rất kỹ, liên tục kết hợp với lính Sài Gòn phục kích khắp nơi: ngày 28/8 phục kích bắn chết 4 đồng chí, bắt 2 người; giữa tháng 11 đồng chí Tư Thanh, bí thư xã Phước An hi sinh vì địch phục kích. Tình hình khá ác liệt nhưng chi bộ và nhân dân Phước An không giao động. Nhiều gia đình cơ sở: bà Hai Hầu, bà Tư Xuyến, bà Năm Nhỏi, các chị Hai Rõ, Hai Biển, Hai Tập, Ba Tuấn, Năm Bé, Năm Nhã, Bảy Ngọn … được chi bộ vận động bám đất Bà Bông để lấy tin và tiếp tế cho bộ đội, du kích. Đêm nào, các bà, các chị ở Bà Bông, Vũng Gấm cũng lén tìm cách chuyển gạo ra căn cứ, nhờ vậy các chiến sĩ Đoàn 10 đặc công, bộ đội huyện và du kích xã vẫn có cái ăn. Một lần bà Hai Tiên và bà Bảy mua gạo Vũng Gấm gánh xuống Bà Bông thì lính Thái chặn bắt. Bà Năm Nhỏi nghe tin, đến nói với bọn lính: “Gạo tôi mua về ăn, vì tôi có bầu, gánh không nổi phải nhờ hai bà này gánh giùm”. Một lần lính Thái càn Đồng Lớn vào nhà chị Bảy Ngọn. Chúng lục thấy ba bao gạo trong lu chứa lúa, một số đường sữa, bột ngọt giấu trong tủ chén (gạc-măng-giê). Chúng hỏi: “Gạo, đường này để làm gì?”. Chị bình tĩnh trả lời qua viên thông ngôn: “Nhà tôi đông con nhỏ, phải trữ gạo ăn, sợ Việt cộng vô thấy đòi mua nên phải giấu. Còn đường, sữa sợ con nít ăn vụng nên cũng phải giấu”. Nghe có lý, chúng không gây khó dễ.

Để chống càn, chi bộ qua Mặt trận cơ sở phát động nhân dân và du kích làm hàng ngàn hố chông - đinh, gài mìn và lựu đạn ở Gò Cát, Vũng Gấm, miễu Ông Tùng, có nơi cách bót chỉ 200 mét. Các gia đình bám trụ Bà Bông cũng được vận động làm, gài mỗi nhà dăm bàn chông trong vườn, hàng chục bàn chông trên đường đi. Lính Thái càn tới, bà con báo cho biết: Các ông đi cẩn thận, quanh đây các ông Việt cộng đều làm hầm chông, nếu có làm sao đừng đổ tội cho tụi tui không báo”. Vài tên không tin, hung hăng đi bừa, sa hầm chông của các bà, các chị. Từ đó chúng ngán, ít dám lùng sục bừa bãi.  

Ngày 19/9, lính Thái từ chùa Nước Nhỉ càn vào xóm Hố xã Phú Hội. Du kích xã do đồng chí Hai Lực chỉ huy dùng mìn ĐH.10 chặn đánh trên đường bờ làm 36 tên thương vong, chúng phải rút và gọi pháo bắn. Chiều hôm đó, một tiểu đoàn Thái có xe tăng - thiết giáp yểm trợ tràn vào xóm Hố, đốt phá không sót nóc nhà nào để trả thù. Trên đường rút quân ngang ấp 2 xã Phước Lai, chúng ập vào bắt heo, gà. Lúc này ba du kích do đồng chí xã đội trưởng Minh chỉ huy vẫn đánh. Lực lượng quá chênh lệch, anh Minh ở lại cản đường cho hai đồng đội rút lui. Hết đạn, anh bị chúng bắt rồi bắn chết. Đêm 20/9, lính Thái đồn Phước Long phục kích bắt được một trinh sát ta, chúng bắn chết rồi chặt thây làm ba khúc.

Huyện đội Long Thành lập kế hoạch trừng trị bọn này. Đêm 26/9, tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 4 kết hợp với C.240 đánh đồn Phước Long diệt 63 tên, bắt sống một số, phá tan chốt này. Ở ven quốc lộ 15, bộ đội huyện phối hợp với du kích An Lợi phá tan cuộc càn của lính Thái vào xóm Quán diệt gọn 1 trung đội địch thu nhiều vũ khí và 1 máy vô tuyến điện. Sau trận này, lính Thái bỏ chốt An Lợi, dồn về căn cứ Nước Trong.

V.3.9. Chiến trường được bố trí lại, chuẩn bị tạo bước ngoặt lịch sử mới

Tháng 7/1967, Trung ương Cục quyết định bố trí lại chiến trường, giải thể Khu ủy miền Đông, thành lập 5 phân khu (thêm phân khu 6 nội đô) hình thành 5 mũi tiến công vào Sài Gòn - Gia Định. Địa bàn tỉnh lúc ấy gồm: U1 trực thuộc Trung ương Cục, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh và Phân khu 4 [94] .

Thường vụ Trung ương Cục đánh giá tỉnh lỵ Biên Hòa có vị trí rất quan trọng (vì có sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình, nhiều căn cứ quân sự Mỹ …) nên bố trí nhiều cán bộ có năng lực. Thị ủy Biên Hòa tổ chức hai ban cán sự[95].

Tháng 10/1967, đồng chí Lê Đức Anh, Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền được Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền cử về phổ biến nội dung, nhiệm vụ cụ thể cuộc tổng tiến công và nổi dậy sắp tới cho Tỉnh ủy U1 và Đảng ủy sư đoàn 5 ở căn cứ Bàu Sao (phía bắc Trảng Bom): “Yêu cầu của cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân là đánh sâu tận sào huyệt địch ở đô thị Sài Gòn và các thành thị ở miền Nam, tiêu diệt một bộ phận quân viễn chinh Mỹ và chư hầu; đánh phá kho tàng, phương tiện chiến tranh của Mỹ nhằm đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ thay đổi ý đồ chiến lược; xuống thang chiến tranh”[96]

Công tác chuẩn bị hậu cần (lương thực thực phẩm, thuốc men, vận chuyển vũ khí …) được tiến hành gấp rút, bí mật ở hầu hết các xã. Chi bộ và Mặt trận tích cực vận động bà con cơ sở nòng cốt thực hiện tốt việc trữ gạo, đường sữa, bột ngọt … cho giờ phút trọng đại sắp tới.

Cánh CZ.2 liên tục cử cơ sở bám sát, nắm qui luật hoạt động của hai tên phản bội Hà Tư và Mười Lồi đang sống ở tỉnh lỵ Biên Hòa. Hai tên này vẫn liên tục theo dõi cán bộ, cơ sở ta ra vào nội ô để chỉ điểm cho địch bắt. Tối 12/12/1967, đồng chí Năm Thắng phụ trách cánh CZ.2 giao nhiệm vụ cho hai tổ biệt động, mỗi tổ 2 người làm nhiệm vụ. Tổ thứ nhất diệt Hà Tư tại nhà riêng ở hẻm gần dốc Sỏi (nay thuộc phường Quang Vinh) không mấy khó khăn. Tổ thứ hai đến nhà Mười Lồi nhưng cả hai người chưa ai biết mặt y. Nhà Mười Lồi có khoảng 10 người đang ăn nhậu. Bằng sự nhanh trí, đồng chí nữ tự vệ mật phát hiện chính xác tên phản bội, nổ súng diệt và rút lui an toàn. Cả hai vụ diệt ác tiến hành trong một buổi tối thành công tốt đẹp.

Trong khi Mỹ đang ráo riết chuẩn bị đợt phản công mùa khô thứ ba thì Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12/1967 xác định nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân: “Động viên nỗ lực toàn quân, toàn dân ở hai miền đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định đạt những mục tiêu sau đây: tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở Nam Việt Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, và ta đạt mục tiêu trước mắt là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập ở miền Nam tiến tới thống nhất nước nhà[97].

Quân dân Biên Hòa, Long Khánh cùng quân dân toàn Miền chuẩn bị vào đợt tiến công và nổi dậy tạo bước ngoặt mới cho phong trào cách mạng miền Nam.

VI. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM HIỆU TRIỆU TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968

VI.1. Chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy[98] Xuân Mậu Thân

Yêu cầu của cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân là đánh tận sào huyệt địch ở đô thị Sài Gòn và các thành thị ở miền Nam, tiêu diệt một bộ phận quân viễn chinh Mỹ và chư hầu; đánh phá kho tàng, phương tiện chiến tranh của Mỹ nhằm đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ thay đổi ý đồ chiến lược, xuống thang chiến tranh.

Trung ương dự kiến ba khả năng:

Khả năng 1- Ta thắng lớn, công kích và khởi nghĩa thành công ở các đô thị. Địch thua đến mức không gượng dậy được nữa, phải đàm phán kết thúc chiến tranh theo yêu cầu của ta.

Khả năng 2- Tuy ta giành thắng lợi lớn nhưng địch tăng thêm lực lượng từ ngoài vào, giành lại những vị trí quan trọng - nhất là Sài Gòn - dựa vào các căn cứ lớn để tiếp tục chống ta.

Khả năng 3- Mỹ huy động nhiều lực lượng mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, sang Lào và Campuchia hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh, gỡ thế thua.

Tư tưởng chỉ đạo xác định: ta phải cố gắng phi thường giành thắng lợi cao nhất theo khả năng thứ nhất; đồng thời sẵn sàng đối phó với khả năng thứ hai; khả năng thứ ba rất ít xảy ra nhưng phải đề phòng để chủ động đối phó kịp thời. 

Trung ương Cục, Quân ủy Miền, Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam và các Tỉnh ủy Biên Hòa, Bà Rịa - Long Khánh xác định mục tiêu đánh địch trên các địa bàn:

Tỉnh lỵ Biên Hòa có các mục tiêu quan trọng: sân bay quân sự Biên Hòa, tổng kho Long Bình, Bộ Tư lệnh dã chiến 2 Mỹ, sở chỉ huy quân đoàn 3, tòa hành chính tỉnh, ti cảnh sát, … các quận lỵ Đức Tu, Công Thanh, Long Thành, Nhơn Trạch, yếu khu Trảng Bom.

Các mục tiêu quan trọng của tỉnh lỵ Long Khánh: tòa hành chính tỉnh, sở chỉ huy khu 33 chiến thuật, các quận lỵ Xuân Lộc, Định Quán.

Trong khi bộ đội chủ lực tiến công tiêu diệt các mục tiêu chính thì các địa phương (xã, đồn điền cao su …) Mặt trận Dân tộc giải phóng huy động quần chúng nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân.

Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại này, các cấp ủy Đảng và Mặt trận đã bí mật vận động cơ sở và quần chúng từng địa phương chuẩn bị sẵn sàng khối lượng lương thực thực phẩm (gạo, đường, sữa, bột ngọt), thuốc men… đáng kể chỉ trong thời gian ngắn. Các giao liên chuyển theo đường công khai nhiều vũ khí (súng đạn, lựu đạn, thuốc nổ), truyền đơn từ ngoài căn cứ vào lót ổ trong nhiều cơ sở nội ô, thị trấn. Nhiều cán bộ Thị ủy Biên Hòa thuộc hai cánh CZ.1 và CZ.2 vào trụ sẵn ở 5 khu nội ô Biên Hòa. Đã có 5 chi bộ của 5 khu hoạt động ở các mức độ khác nhau. Nhà bà Bảy Vết gần chợ cao su ấp Lân Thành[99] được chọn làm nơi đặt bộ phận điện đài cho cánh CZ.1, có hầm bí mật chứa một số vũ khí. Nhà ông Năm Lộc gần hãng Dầu (đầu cầu rạch Cát) dự kiến là địa điểm chỉ huy của cánh CZ.1. Nhân dân các xã ven: Tam Hiệp, Hiệp Hòa, Bửu Hòa, Bửu Long, Tân Vạn, Hóa An, Tân Hạnh, Bình Trị, Tân Đông Hiệp … cũng tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến công và nổi dậy sắp tới. Tỉnh đội U1 dẫn Bộ chỉ huy tiền phương mặt trận Biên Hòa đi nghiên cứu các mục tiêu tại thực địa chiến trường. Ở khu vực Hố Nai, các cơ sở như chị Ba Khánh (Bắc Hòa), ông Khoảng (Bùi Chu), gia đình ông trùm Na, ông Dương … đã mua cả thảy hàng trăm mét vải may cờ Mặt trận giải phóng.

Trưa 30 tết Mậu Thân (31/1/1968), hòa vào dòng người đi lễ Tết, các đội viên đội biệt động thị xã Biên Hòa từ căn cứ Hưng Lộc được chở vào các điểm ém quân trong nội ô. Các đoàn viên và du kích mật được lệnh tập trung tại nhà cơ sở, chuẩn bị dẫn đường cho lực lượng chủ lực từ bên ngoài vào nội ô đánh chiếm các mục tiêu đầu não. Cờ và truyền đơn của Mặt trận hiệu triệu nhân dân đô thị nổi dậy giành quyền làm chủ, các phương tiện phát thanh (ampli, loa) được cán bộ và cơ sở chuẩn bị sẵn sàng. 

VI.2. Nhân dân cùng lực lượng vũ trang tham gia cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân

Đúng giao thừa 0 giờ đêm 31/1, pháo ĐKB ta từ trận địa Hiếu Liêm bắn vào sân bay Biên Hòa làm hiệu lệnh mở màn cuộc tiến công. Sư đoàn 5 từ căn cứ chiến khu Đ tập kết ở Hóc Ông Tạ (Đại An). Một bộ phận chủ lực sư đoàn 5 đánh vào sân bay, Đại đội đặc công sư đoàn 5 và lực lượng biệt động thị xã Biên Hòa đánh phía Tây sở chỉ huy quân đoàn 3. Ở tổng kho Long Bình, tiểu đoàn 2 đặc công U1 đột nhập khu điểm cao 55, phá hủy nhiều kho bom đạn Mỹ, tiếng nổ và khói lửa suốt mấy ngày đêm làm rung động cả tỉnh lỵ Biên Hòa và vùng phụ cận. Tiểu đoàn 2 và đơn vị đặc công sư đoàn 5 đánh vào sân bay Bộ Tư lệnh dã chiến 2 phá hủy nhiều máy bay trực thăng địch. Quân Mỹ phản kích bao vây đơn vị, các chiến sĩ ta chiến đấu quyết liệt và chịu nhiều tổn thất …

Chỉ trong ngày tiến công đầu tiên, lực lượng sư đoàn 5 bị thương tới 250 cán bộ chiến sĩ chưa kể số hi sinh. Bộ chỉ huy cho củng cố, bổ sung đội hình, cử hai đồng chí Phó chính ủy Phan Văn Trang và Phó Tư lệnh Trần Công An tổ chức lực lượng chuyển thương binh về phía sau. Nhiều cơ sở ở Tân Uyên, Vĩnh Cửu ven sông Đồng Nai dùng xuồng ghe dũng cảm chở thương binh qua sông dưới làn bom đạn địch.

Khi tiếng súng tiến công bắt đầu, các cơ sở và du kích mật tiến hành treo cờ Mặt trận, rải truyền đơn, phát loa tuyên truyền chính sách Mặt trận tại nhiều ấp, xã: Lân Thành, Tân Thành, Bửu Long, Bình Đa, khu kỹ nghệ Biên Hòa, Hiệp Hòa, Tân Hạnh, Bửu Hòa, Bình Trị … Nhân dân không nổi dậy được vì lực lượng chủ lực không làm chủ tình thế như dự kiến, song bọn tề vệ các địa phương này nằm im không có phản ứng gì. Ở ấp Lân Thành, cơ sở và quần chúng binh vận làm rã một tiểu đội dân vệ. Các đoàn viên thanh niên thị xã Biên Hòa tập trung tại một số nhà cơ sở ở ấp Lân Thành, gần chùa Một cột (xóm Cây Chàm) … sẵn sàng dẫn đường cho bộ đội đánh chiếm các mục tiêu định trước. Nhưng vì bộ đội không vào được nên sau một đêm chờ đợi, các nhóm này được lệnh giải tán.

Địch tập trung lực lượng phản kích, sáng mùng 3 tết (2/2/1968) Bộ chỉ huy mặt trận Biên Hòa cho lệnh rút. Hơn một chục chiến sĩ đội biệt động thị xã trụ lại trong trường Mỹ nghệ Biên Hòa được một người gác dan che giấu và bà Hai Thai - cơ sở ở trường Trịnh Hoài Đức nuôi, sau đó được em Lê Minh Tâm (cu Đen) - 15 tuổi, con bà Bảy Vết - dẫn đường rút qua sông Đồng Nai an toàn. Hơn một chục chiến sĩ sư đoàn 5 khi rút khỏi tỉnh lỵ, bị lạc đường và địch bao vây nhiều ngả đã được chị Hai Hồng và nhân dân ấp Bình Đa nuôi giấu mấy ngày liền, sau đó cơ sở mật tìm đường dẫn anh em về căn cứ an toàn.

Ở Trảng Bom, bộ đội đánh yếu khu, diệt nhiều địch nhưng chúng phản ứng mạnh, ta làm chủ thị trấn một ngày. Một bộ phận lực lượng vũ trang huyện và C.25 công binh làm chủ ngã ba Dầu Giây và các ấp dọc quốc lộ 1, treo cờ giải phóng và rải truyền đơn của Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng hiệu triệu các tầng lớp nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Nhân dân đã xuống đường tiếp tế cho anh em và làm chủ ba ngày ở một số quãng đường. Lực lượng xã Hố Nai đánh sập cầu suối Đỉa, bám các ấp Thanh Hóa, Trà Cổ … võ trang tuyên truyền, phát động quần chúng nổi dậy truy lùng số ác ôn. Bà con giáo dân ấp Trà Cổ mang bánh và nấu hàng trăm vắt cơm tiếp tế cho bộ đội, du kích. Tại xã Trảng Bom, chi bộ xã phát động cơ sở nổi dậy diệt xã trưởng Quang ác ôn, bắt một tên tình báo đội lốt nhà sư. Công nhân cao su tiếp tế cơm nước cho bộ đội và tham gia đắp mô cản xe cơ giới trên quốc lộ 1. Hai mũi võ trang tiến công xã Hưng Lộc đánh lính bảo an, dân vệ và bình định giạt ra lô cao su giúp các cơ sở phát động nhân dân hoàn toàn làm chủ ấp Hưng Nghĩa. Bà con phấn khởi, mang các thứ bánh, thịt … ra đãi cán bộ, chiến sĩ, du kích. Hàng trăm người mang băng khẩu hiệu, cờ Mặt trận họp mít tinh mừng chiến thắng lớn của cách mạng. Ở khu vực Gia Kiệm, công nhân cao su, cơ sở mật các ấp Võ Dõng, Thanh Sơn, Ninh Phát … tham gia chặt hạ một số cao su, đắp mô, treo cờ Mặt trận, dựng vật cản trên quốc lộ 20 …

Tại Vĩnh Cửu, lực lượng vũ trang huyện tiến công chi khu Công Thanh. Chi khu bị vây hãm ba ngày liền, du kích và cơ sở mật các xã Tân Định, Đại An, Lợi Hoà diệt một số ác ôn, chỉ điểm. Khi Bộ chỉ huy mặt trận Biên Hòa cho lực lượng rút lui thì lực lượng vũ trang huyện Vĩnh Cửu cũng nhận lệnh rút lui về trụ bám ấp Cây Da (Tân Phú). Ngày 2/2/1968, 10 xe tăng - thiết giáp Mỹ từ căn cứ hóc Bà Thức đi giải tỏa chi khu Công Thanh, số lính ở đây được tăng viện mới bung ra đánh ấp Cây Da. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, đến chiều thì ấp bị hủy diệt vì bom pháo dồn dập suốt ngày. Đến tối, anh em rút qua sông Đồng Nai sau khi ta hi sinh 13, phá hủy 14 xe tăng - thiết giáp Mỹ, diệt 80 tên địch.

Trong đêm giao thừa (31/1/1968), lực lượng vũ trang huyện Long Thành pháo kích vào chi khu diệt 24 tên. Cơ sở mật rải nhiều truyền đơn của Mặt trận dân tộc giải phóng trên đoạn đường dài hàng cây số ở thị trấn Long Thành. Ta đánh sập các cầu Đúc, cầu sông Buông (Phước Tân). Tại hầu hết các xã trong huyện, du kích hỗ trợ nhân dân nổi dậy đánh trống, mõ uy hiếp tinh thần địch làm tề vệ xã, ấp phần đông bỏ chạy. 17 dân vệ bót Đất Mới mang súng ra hàng cách mạng. Ở xã Long Phước, du kích và nhân dân đốt đuốc đắp mô trên quốc lộ 15, phát loa kêu gọi dân vệ ra hàng. Tại Nhơn Trạch, bộ đội huyện diệt 1 trung đội bảo an ở bót Nhà Mồ thu toàn bộ súng đạn. Du kích các xã dọc lộ 19 nổ súng, hỗ trợ đồng bào nổi dậy tham gia bao vây tiến công các đồn Phước Long, Phước Thọ, Gò Cát. Khi bộ đội Đoàn 10 bắn súng cối vào kho Thành Tuy Hạ thì tại Phú Hữu, bà con và du kích bao vây đánh đồn giồng Ông Đông diệt 7 tên, bắt sống 4 trong đó có viên trung sĩ trưởng đồn.

Ở đồn điền cao su Bình Sơn, lực lượng ta chỉ có 15 đảng viên lộ và mật, 10 đoàn viên thanh niên và hàng chục cơ sở cốt cán, đã huy động hàng trăm quần chúng và công nhân đổ ra đường tuần hành mang theo băng cờ, khẩu hiệu kéo đến bao vây khu vực nhà máy. Nhiều truyền đơn rải khắp các nẻo đường, cờ Mặt trận treo lên, cờ ngụy 3 sọc bị hạ xuống. Tổ binh vận dùng loa kêu gọi lính bảo an, dân vệ buông súng về với nhân dân. Ta tổ chức nhiều gia đình binh sĩ mang thư vào đồn vận động chồng, con, em … trở về với gia đình, không làm bia đỡ đạn cho Mỹ - Thiệu. Địch co thủ, không phản ứng gì trước cao trào của quần chúng. Ta tranh thủ binh vận số lính Mỹ đóng ở nhà chủ sở người Pháp, số này án binh bất động. Chiều mùng 3 tết, Mỹ và lính bảo an, dân vệ bắt đầu phản kích. Chúng bung ra đóng một số chốt ngoài nhà máy. Để bảo toàn lực lượng, du kích rút ra căn cứ nhưng số cán bộ chủ chốt: Bảy Phượng, Bảy Lệ, Hai Bình, Sáu Thống đều bám trụ cơ sở bên trong, bí mật hoạt động.

Ở tỉnh lỵ Long Khánh, tiểu đoàn 440 của tỉnh, đội biệt động thị xã, lực lượng K.8 Xuân Lộc tiến công các mục tiêu chủ yếu: khu 33 chiến thuật, tòa hành chính tỉnh Long Khánh, trụ sở CIA Mỹ, sở chỉ huy pháo binh, khu thiết giáp phá 10 lô cốt, 2 dãy trại lính, làm sập nhà thông tin, diệt nhiều sinh lực, phá 6 khẩu pháo và xe quân sự. Kết hợp mũi tiến công vũ trang, Thị ủy Long Khánh tổ chức các cơ sở mật phát động quần chúng nổi dậy lùng diệt số ác ôn, cảnh sát. Ở xã ven, đội dân vệ xã có anh Hai Đoan là nội tuyến đã lùng bắt số ác ôn, cùng nhân dân bao vây binh vận làm rã một đại đội bảo an.

Tại huyện Định Quán, lực lượng K.9 huyện, Đoàn hậu cần 814 và du kích xã, du kích sở cao su bao vây tiến công chi khu Định Quán. Ta làm chủ khu vực quận lỵ 7 ngày liền. Tại xã Bình Hoà (tức khu vực đồn điền cao su Túc Trưng), du kích hỗ trợ quần chúng tiến hành binh vận tiến công yếu khu Túc Trưng, làm chủ ấp Cây Xăng, cắt đứt giao thông trên quốc lộ 20 một tuần lễ.

Cho đến giữa tháng 3/1968, theo chỉ đạo của Bộ chỉ huy mặt trận, bộ đội ta tiếp tục tiến công tỉnh lỵ Long Khánh bằng pháo và lực lượng đặc công diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Ta còn tập kích quân Mỹ ở Trảng Bom diệt 250 tên Mỹ, phá hủy 60 xe quân sự. Đoàn 724 ĐKB pháo kích tổng kho Long Bình, phá 40 kho bom đạn.

Ngày 5/5/1968, cuộc tiến công đợt 2 Mậu Thân bắt đầu. Trung đoàn 724 pháo kích tổng kho Long Bình và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn Mỹ ở Trảng Bom. Trung đoàn 4 diệt gọn 1 tiểu đoàn chủ lực địch trên quốc lộ 20 và diệt yếu khu Túc Trưng. Đoàn 10 đặc công Rừng Sác bắn cháy một tàu 10 ngàn tấn trên sông Lòng Tàu, bắn chìm một tàu 7000 tấn.

Để phối hợp với chiến trường chung, ban cán sự cánh CZ.2 chỉ đạo Thị đoàn Biên Hòa phụ trách công tác học sinh sinh viên mở cuộc võ trang tuyên truyền tại trường trung học Ngô Quyền [100]. 2 giờ chiều mùng 3/5/1968 bốn anh: Năm Tuyền, Trị, Châu (Đinh) và Dự đi hai xe Honda tới trường[101]. Dây điện thoại bị cắt, các anh phát truyền đơn vào các lớp. Nhóm võ trang tuyên truyền kêu gọi các thầy cô giáo và học sinh ủng hộ Mặt trận dân tộc giải phóng, chống đế quốc Mỹ và bè lũ Thiệu - Kỳ tay sai bán nước. Cuộc vũ trang tuyên truyền bất ngờ gây được tiếng vang lớn trong học sinh và thầy cô giáo trường trung học Ngô Quyền và trong tỉnh.

Đợt 3 Mậu Thân, trong các tháng 8 và 9/1968, các lực lượng vũ trang ta đánh tỉnh lỵ Long Khánh, các yếu khu Túc Trưng, Gia Ray và 26 đồn bót khác. Các chi bộ phát động cơ sở và quần chúng (khoảng 6000 lượt người) phá giao thông địch trên các quốc lộ 1, 15, 20 … Đây là hoạt động hỗ trợ chiến dịch trọng điểm của Trung ương Cục trên chiến trường Tây Ninh - Bình Long.

Cuộc tập kích chiến lược tết Mậu Thân thể hiện quyết tâm, cố gắng vượt bậc thực hiện các Nghị quyết của Trung ương Đảng và Trung ương Cục của các Đảng bộ, quân dân U1, Long Khánh và Phân khu 4. Tổ chức Mặt trận các cấp tích cực vận động cơ sở nòng cốt và đông đảo các tầng lớp nhân dân hết lòng góp phần phục vụ mọi mặt đảm bảo cho lực lượng vũ trang cách mạng đánh bí mật, bất ngờ tận sào huyệt địch ở các tỉnh lỵ, quận lỵ, tiêu diệt tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Lần đầu tiên, nhân dân Mỹ và thế giới hàng ngày tận mắt chứng kiến qua màn ảnh nhỏ chiến tranh Việt Nam đang diễn biến bất lợi cho Mỹ như thế nào. Cuộc tấn công tết Mậu Thân rõ ràng là cuộc chiến tranh nhân dân. Chiến thắng vang dội xuân Mậu Thân góp phần làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Tướng Westmoreland bị cách chức, tổng thống Mỹ Johnson phải tuyên bố không ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa, ngừng ném bom miền Bắc. Ngày 13/5/1968 Mỹ nhận lời hòa đàm với ta ở Paris.

Tuy nhiên sau đợt 1, ta mở liên tiếp các đợt 2,3 vào lúc sức mạnh quân sự của ta đã giảm, nhiều cơ sở bị thiệt hại nặng do bộc lộ. Ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất. Ta tiêu diệt được nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch nhưng không đạt mục tiêu đề ra, ngược lại bị địch phản kích ác liệt, tiến hành các đợt bình định đẩy lực lượng cách mạng ra xa đô thị, thị trấn, thị xã. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương (khóa 3) nhận định: “Việc mở tiếp các đợt tấn công 3, 4, 5 là sai lầm nghiêm trọng dẫn đến tiêu hao sinh lực của ta và làm mất đất, mất dân”. Khi cuộc tập kích chiến lược Mậu Thân xảy ra, một số cán bộ chiến sĩ có ảo tưởng ta mau chóng giải phóng Sài Gòn rồi giải phóng luôn miền Nam. Đến khi địch phản kích ác liệt, một số ít hoang mang dao động nên đã ra đầu hàng đầu thú. Một bộ phận cán bộ chiến sĩ, nhân dân nảy sinh tâm lý bi quan chán nản. [102]

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


CHƯƠNG VII

MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG CÁC TỈNH BIÊN HÒA, LONG KHÁNH  - GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” TIẾN TỚI GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

(1969-1975)

 

I. MỸ ĐỔI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ SANG CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH

I.1. Mỹ thay đổi chiến lược sau thất bại nặng nề Tết Mậu Thân

Ngày 20/1/1969 nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ, Nixon thú nhận: Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho nước Mỹ khủng hoảng tinh thần, xâu xé, chia rẽ xơ xác tơi bời. Ông ta đề ra học thuyết Nixon vận dụng vào miền Nam Việt Nam, đó là chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Các nhà báo phương Tây gọi đó là “sự thay đổi màu da của xác chết”. Nội dung cơ bản chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh là Mỹ rút quân dần dần, gánh nặng tác chiến trút lên đầu quân đội Sài Gòn theo công thức: quân đội Sài Gòn + viện trợ và phương tiện chiến tranh hiện đại Mỹ + tòa đại sứ Mỹ chỉ đạo. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh thực hiện theo ba giai đoạn[103]

Ngay từ giữa năm 1968, địch đẩy mạnh kế hoạch bình định cấp tốc, tăng cường các cuộc hành quân của đủ mọi sắc lính chủ lực, bảo an, dân vệ, cảnh sát nhằm kiểm soát dân chặt hơn, đẩy các lực lượng ta ra xa các thành phố, thị xã, thị trấn, chiếm các địa bàn nông thôn làm mất chỗ đứng của ta. Địch mở trường đào tạo cán bộ bình định ở Vũng Tàu để thành lập các đoàn bình định (mỗi đoàn 59 tên) ở các tỉnh. Tại Biên Hòa, Long Khánh địch lập hội đồng chỉ đạo bình định do các tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trực tiếp điều hành. Mỗi tỉnh thành lập một ủy ban phụng hoàng nhằm vô hiệu hóa hạ tầng cơ sở Việt cộng, bình định quần chúng nhân dân. Ở các quận, xã, thị trấn chúng lập các trung tâm điều hợp gồm hội đồng xã, cuộc cảnh sát (do một viên thiếu úy hay trung úy làm cuộc trưởng) và vài nhân viên phụng hoàng, thiên nga làm công cụ bình định. [104] Địch củng cố phòng thủ, tăng cường canh gác các căn cứ quân sự, cơ quan đầu não.

Ở vòng ngoài, quân Mỹ, lính chư hầu và Sài Gòn phản kích ác liệt vùng Bắc Trảng Bom, hai bên Nam Bắc quốc lộ 1, hai phía Đông Tây liên tỉnh lộ 2, khu lòng chảo Nhơn Trạch. Địch dùng máy bay B.52, pháo bầy cùng máy ủi hạng nặng để phá quang rừng giồng lòng chảo Nhơn Trạch, vùng Cây Gáo, Bàu 17, Bàu Sình, Bàu Hàm, Vũng Rễ (Vĩnh Cửu). Chúng càn quét chà đi xát  lại các địa bàn căn cứ Hưng Lộc, Cẩm Đường, suối Cả, sông Buông … Ở nhiều vùng rừng, rẫy lính Mỹ và chư hầu đóng nhiều chốt dã ngoại, tổ chức phục kích, gài mìn claymore ngăn chặn giao thông ta. Tại các tỉnh lỵ Biên Hòa và Long Khánh, các thị trấn Long Thành, Trảng Bom … chúng tăng cường hành quân cảnh sát. Số công an chìm, chỉ điểm, số đầu hàng phản bội được giăng ra các đầu mối giao thông đông người qua lại để phát hiện cán bộ, cơ sở. Nhiều trạm kiểm soát xe cộ lập ra để khám xét hàng hóa vận chuyển hòng tìm vũ khí, truyền đơn, tài liệu từ căn cứ đưa vào. Lực lượng phòng vệ dân sự được tăng cường, chúng buộc thanh niên từ 17 trở lên cho đến số trung niên 50 tuổi đêm đêm phải đi canh gác khóm, ấp … Do bộc lộ lực lượng, do không bảo đảm nghiêm kỷ luật ngăn cách bí mật mà cánh CZ.2 Thị ủy Biên Hòa bị địch đánh phá, bắt giữ khá nhiều cán bộ và cơ sở nội ô. 

I.2. Tiếp tục thọc sâu đánh hiểm

Trước tình hình địch đẩy mạnh quét và giữ, đẩy lui các lực lượng cách mạng ra xa, đầu năm 1969, Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị 71/CTTV nêu rõ: “Nhiệm vụ của đợt là: tiêu diệt, tiêu hao sinh lực, phương tiện Mỹ, cơ sở hậu cần, làm tan rã một phần quân ngụy; đẩy mạnh hoạt động nông thôn, diệt ác phá kềm, phá thế chia cắt bao vây; đánh âm mưu bình định, mở rộng vùng làm chủ; đưa phong trào đấu tranh chính trị, binh vận ở đô thị lên một bước, đẩy mạnh công tác binh vận và xây dựng lực lượng mật. Phương châm và tư tưởng đợt tiến công xuân Kỷ Dậu 1969 là: tích cực, kiên quyết, linh hoạt, táo bạo, vững chắc, kết hợp ba mũi, ba thứ quân, ba chân”. [105]

Kế hoạch đợt tiến công xuân Kỷ Dậu ở tỉnh lỵ Biên Hòa được Bộ chỉ huy Miền trực tiếp chỉ đạo. Mục tiêu chính: sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình, trụ sở quân đoàn 3, ti cảnh sát Biên Hòa, tòa hành chính Long Khánh, trụ sở tiểu khu Long Khánh … Bộ đội[106] sẽ hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt ác.

Để phục vụ cho đợt tiến công, cán bộ Thị ủy Biên Hòa đã về xóm Gò Me vận động hai cơ sở mật Trần Văn Hai và Năm Lũy mua ván gỗ, bí mật làm khoảng 10 hầm bí mật ở bên ngoài nhà máy giấy Tân Mai, đủ chỗ dung trú cho quân số một đại đội chủ lực và đội biệt động thị xã trong khoảng thời gian ngắn. Vũ khí được vận chuyển từ căn cứ Hưng Lộc vào cất giấu an toàn ở nhà các cơ sở xóm Gò Me, ấp Bình Đa, An Hảo. Tuy nhiên tên Thế - phó ban tác chiến sư đoàn 5 - ra đầu hàng hai ngày trước khi vào đợt, địch nắm được kế hoạch ta liền tăng cường phòng thủ các mục tiêu quan trọng.

Đúng 2 giờ sáng mùng 7 tết Kỷ Dậu (23/2/1969) pháo ĐKB nã vào sân bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình mở màn chiến dịch, gây cho địch nhiều thiệt hại. Bộ đội chủ lực, bộ đội U1, Phân khu 4, Long Khánh đồng loạt tiến công hai thị xã Biên Hòa và Long Khánh, chi khu Long Thành, chi khu Nhơn Trạch, yếu khu Trảng Bom, các ấp chiến lược Bàu Hàm, Bảo Định … Cơ sở mật là đoàn viên công đoàn giải phóng trong công nhân hãng Cogido đánh cháy bồn dầu nhà máy giấy Cogido ở khu kỹ nghệ Biên Hòa. Ở ấp Lân Thành, cán bộ Thị ủy và cơ sở diệt tên công an chìm Trần Cát Bụi và trưởng ấp Lân Thành. Đội biệt động thị xã đánh vào ty cảnh sát, địch dùng máy bay lên thẳng và xe bọc thép giải vây, phản kích ác liệt nên anh em phải rút qua Cù Lao Phố (xã Hiệp Hòa). Đại đội trinh sát của sư đoàn 5 đánh một tiểu đoàn biệt động quân địch mới tăng viện ở ga Biên Hòa, trụ được một ngày, sau đó rút về Gò Me; đến tối hôm sau được cơ sở dẫn đường về căn cứ. Ta không dứt điểm được mục tiêu nào song tiếng súng ầm vang giữa lòng địch báo hiệu cách mạng vẫn tồn tại.

Tại hội nghị tổng kết đợt xuân Kỷ Dậu tại Suối Ràng (chiến khu Đ), đồng chí Lê Trọng Tấn biểu dương quân dân U1 đã hoàn thành nhiệm vụ mà Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền giao dù phải chịu đựng một số hi sinh không nhỏ. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tặng thưởng Đảng bộ và quân dân U1 huân chương Thành đồng hạng hai.

Sau đợt xuân Kỷ Dậu, tư tưởng bi quan giao động nảy sinh trong một số cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang và quần chúng vì khó khăn ngày càng tăng. Địch tiếp tục bình định lấn chiếm địa bàn nông thôn, chúng dùng nhiều bom pháo, chất độc hóa học khai quang nhằm buộc dân vùng tranh chấp phải vào sống trong vùng kềm hoặc ấp chiến lược. Nhiều thôn xóm ruộng vườn trở nên hoang hóa; cơ sở nội ô và vùng ven tiếp tục bể bạt.

Tháng 5/1969, Thường vụ Trung ương Cục tiếp tục chỉ đạo mở đợt tiến công mới trên toàn chiến trường mà trọng điểm là miền Đông Nam bộ. Biên Hòa và Long Khánh là hướng phối hợp (chiến trường chính là hướng Tây Ninh - Bình Long).

Đội biệt động thị xã Biên Hòa được các cơ sở của lõm chính trị hai ấp Bình Quan và Hòa Quới giúp đỡ, đã bám trụ từ sau tết Kỷ Dậu. Tại đây, lực lượng ta đào hàng chục hầm bí mật rải ra ở hơn một chục cơ sở chí cốt đủ ém khoảng hai chục đồng chí với đủ vũ khí và điện đài, chờ hiệu lệnh vào đợt 2 Kỷ Dậu (đầu tháng 5/1969) sẽ bung ra đánh một số mục tiêu. Chi bộ mật làm trong sạch địa bàn, diệt vài tên tình báo, chỉ điểm, đồng thời cài một số cơ sở tham gia phòng vệ dân sự để nắm tin, báo cho lực lượng vũ trang kịp thời đối phó.

Ngày 25/4/1969, Tô Hoàng Thắng - đại đội phó đặc công được phái về nghiên cứu đánh cầu Đồng Nai và cầu Gành - do giao động, ra đầu hàng địch từ mờ sớm. Y dẫn địch về đánh từng hầm của đội biệt động suốt nửa ngày. Gần một chục đồng chí hi sinh - trong đó có đồng chí Năm Hiền (Nguyễn Thị Thanh Vân), Tỉnh ủy viên dự khuyết U1 đánh địch đến viên đạn cuối cùng. Một số anh em mở đường máu thoát ra ngoài, chờ đến tối tìm đường về căn cứ. Vài đồng chí bị bắt. Địch rất tức tối, đốt một số nhà ở Bình Quan, Hòa Quới, bắt hàng chục cơ sở và một số dân thường.

Tỉnh ủy U1 và Thị ủy Biên Hòa cài cắm sâu được đội biệt động giữa lòng địch trong thời gian mấy tháng để phục vụ ý đồ chiến lược là một kỳ công. Điều đó chứng tỏ các cơ sở và nhân dân hai ấp Bình Quan, Hòa Quới (xã Hiệp Hòa) có truyền thống yêu nước nồng nàn, dám chấp nhận hi sinh tính mạng, tài sản để phục vụ cách mạng giải phóng dân tộc[107].

Từ tháng 6/1969, các đơn vị quân Mỹ: lữ dù 173, lữ 199 bộ binh, trung đoàn thiết giáp 11 ở suối Râm, trung đoàn lính Hoàng gia Úc, các đơn vị lính Thái và sư 18 quân đội Sài Gòn phân tuyến: chiến khu Đ, quốc lộ 1, quốc lộ 15, tỉnh lộ 2 … tăng cường đánh phá vùng chân thang, đẩy lực lượng vũ trang ta ra xa các đường giao thông nhằm đảm bảo an toàn cho việc rút quân về nước của chúng. Các địa bàn căn cứ chiến khu Đ, suối Cả, Cẩm Đường, suối Quít, Phước An … đều bị đánh phá ác liệt. Căn cứ các Tỉnh ủy, Phân khu ủy di dời liên tục. Địch phong tỏa kinh tế nên nhiều cửa khẩu hậu cần không còn. Ta vừa thiếu lương thực thực phẩm, vừa thiếu thuốc chữa bệnh. Lực lượng vũ trang và cán bộ các ngành bám dân ở các khu vực Hưng Lộc, Bàu Hàm để mua chuối, đậu nành … về ăn. Địch phục kích chốt chặn, các đường giao liên trở thành con đường máu, có lúc đi đột ấp cõng gạo cũng hi sinh. Có lúc tình hình ngặt nghèo, cấp trên gợi ý Tỉnh ủy U1 dời căn cứ qua chiến khu Đ song từ kinh nghiệm trận lụt năm 1952, các đồng chí quyết tâm bám trụ địa bàn thì nhất định tồn tại.

II. CÁN BỘ BIÊN HÒA, LONG KHÁNH BÁM TRỤ CÙNG NHÂN DÂN CHỐNG PHÁ BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH

Đợt hè 1969, bộ đội chủ lực sư đoàn 5 và bộ đội Long Khánh đánh thiệt hại nặng 2 trung đoàn thuộc sư 18 địch trên hướng Long Khánh (ở Tam Bung, lộ 20, đồn Hoàng Diệu, yếu khu Gia Ray …). Lực lượng K.8 Xuân Lộc phối hợp du kích các xã phá lỏng bộ máy kềm kẹp địch ở Bảo Bình, Bảo Lộc, Bảo Vinh, suối Cát, Tân Phong … Ở Bình Sơn, trung đoàn 4 diệt 2 tiểu đoàn Thái Lan ở Bình Sơn.

Tin chiến thắng của bộ đội giải phóng nhanh chóng lan ra toàn vùng. Các chi bộ Trảng Bom, Bàu Hàm chỉ đạo cơ sở mật tổ chức loan tin, bàn tán xôn xao gây thối động tinh thần địch. Đồng thời ta đẩy mạnh tuyên truyền chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng làm binh vận khiến 28 lính bảo an, dân vệ hai nơi này bỏ ngũ (được giúp tiền bạc trở về quê làm ăn); riêng đội phòng vệ dân sự Bàu Hàm trả súng không canh gác.

Một số hoạt động vũ trang địa phương được tiến hành hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị[108]. Mỹ cho máy bay rải chất độc hóa học xuống vùng Bàu Hàm phá địa bàn căn cứ ta, làm 1200 mẫu rẫy và cây ăn trái của dân chết hết, hàng trăm người bị ảnh hưởng phải đi cấp cứu. Chi bộ Bàu Hàm lãnh đạo cơ sở và nòng cốt vận động quần chúng đấu tranh tố cáo tội ác man rợ của Mỹ ở nhà hội xã cho đến tòa tỉnh trưởng Long Khánh, buộc chúng phải bồi thường mọi thiệt hại.

Trong tình hình khó khăn mới thấy hết tấm lòng của nhân dân với kháng chiến. Trong vòng kềm kẹp của địch, cơ sở trong công nhân, nông dân sáng tạo nhiều hình thức tiếp tế cho bộ đội, du kích và cán bộ bên ngoài. Nhân dân Hưng Lộc nhường cả rẫy chuối cho các đơn vị trung đoàn 33, trung đoàn 4 sử dụng[109]. Ở Bình Sơn, An Viễn, lính Thái Lan liên tục càn quét, lùng sục nhà dân, tra xét công nhân gắt gao để chặn tiếp tế từ trong ra ngoài căn cứ. Lính Thái đi càn bắn chết hai người Pháp: một giám đốc, một phụ tá cùng lái xe người Việt. Lấy cớ mất an ninh, bọn chủ đồn điền cao su cho đóng cửa sở, cho công nhân nghỉ việc đi nơi khác làm ăn (chúng muốn rũ bỏ trách nhiệm về đời sống đối với công nhân, sa thải số cũ nhận người mới nhằm tẩy sạch ảnh hưởng cách mạng). Nắm âm mưu địch, chi bộ chỉ đạo hơn 30 đại diện công nhân lên liên đoàn lao công tỉnh Biên Hòa đấu tranh đòi tổ chức này can thiệp buộc chủ Pháp mở lại sở cho công nhân đi làm trở lại. Thêm 60 công nhân tăng cường, đoàn người kéo đến tòa hành chính tỉnh đòi gặp tỉnh trưởng. Tỉnh trưởng lệnh cho tổng thư ký nghiệp đoàn dẫn các đại biểu đến trụ sở cố vấn Mỹ ở Biên Hòa … Sau tám ngày kiên trì đấu tranh với lời lẽ có lý, có tình song bảo đảm nguyên tắc, chính quyền tỉnh Biên Hòa can thiệp với giới chủ sở mở cửa đồn điền trở lại để công nhân đi làm; ngoài ra còn tăng lương 20%, cấp 700 gam gạo/ngày.

Mặt khác bà con công nhân tìm mọi cách qua mặt địch, mang cơm tiếp tế cho cán bộ, du kích bám trụ ngoài lô. Từ cơm lô ra đời do năm sáu công nhân chỉ ăn một suất, phần còn lại gom vào một bịch treo một chỗ định trước, ban đêm cán bộ chiến sĩ ta ra nhận. Ta đánh xe lính Thái đi kèm xe chở công nhân ra lô cao su, bọn này đổi cách: đi cùng xe với công nhân. Bà con bỏ xuống, không đi làm với lý lẽ: Mấy ông đi xe tăng còn bị Việt cộng đánh được huống chi đi xe dân, Việt cộng đánh chết tụi tui thì làm sao?. Khi lính Thái xuống xe, bà con mới lên xe đi làm. Ở ngoài lô, ta tổ chức một số nữ công nhân trẻ cạo xong phần cây thì rủ lính Thái đóng chốt đi chơi ra xa bìa rừng để số khác tranh thủ tiếp tế cho anh em … [110]

Ở Long Thành và Nhơn Trạch, Huyện ủy chỉ đạo lực lượng vũ trang bám đất bám dân, đánh địch để giữ địa bàn đứng chân. Phong trào đấu tranh hai chân ba mũi phát triển, nhất là đấu tranh chống dồn dân, đòi bồi thường thiệt hại cho bom pháo địch gây ra[111].

Để tăng cường hoạt động ngoại giao, liên tục tiến công địch về chính trị nhằm phục vụ cho chiến trường đánh mạnh, giành thắng lợi to lớn, ngày 6/6/1969, Đại hội đại biểu quốc dân toàn miền Nam đã bầu ra Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam[112]. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cử bà Nguyễn Thị Bình làm bộ trưởng Bộ Ngoại giao, cầm đầu phái đoàn đàm phán hòa bình tại Paris.

Tháng 8/1969, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng các tỉnh tổ chức hội nghị hiệp thương cử ra Ủy ban cách mạng lâm thời các tỉnh, là tổ chức chính quyền cách mạng có nhiệm vụ tập hợp, huy động sức người sức của, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:

- Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa do đồng chí Phan Văn Trang làm chủ tịch.

- Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Long Khánh do đồng chí Phạm Lạc làm chủ tịch.

- Ủy ban cách mạng lâm thời Phân khu 4 (gồm các huyện Long Thành - Nhơn Trạch - Cao Su - Thủ Đức) do đồng chí Võ Văn Định làm chủ tịch.

Các ủy ban này chưa có bộ máy tổ chức riêng mà kết hợp với Mặt trận dân tộc giải phóng các cấp hoạt động dưới sự chỉ đạo toàn diện của các cấp ủy Đảng.

Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh tạ thế. Các cơ quan đơn vị, Mặt trận toàn huyện đều tổ chức tang lễ. Cho đến chiều ngày 6/9 các tiệm quán, sạp tạp hóa ở Long Thành, Nhơn Trạch và các chợ đều không còn nhang bán. Khắp các vùng căn cứ từ chiến khu Đ đến chiến khu rừng Sác, các căn cứ Suối Cả, Bình Sơn, Bàu Hàm, các vùng du kích, lễ tang Bác Hồ đều được tổ chức trang trọng. Đồng bào dân tộc Ch’ro ở Thái Thiện (Phước Thái) kết vải dù thành đài liệt sĩ ở bến Cây Me, có mấy trăm người tham dự lễ truy điệu Bác. Đình Phú Mỹ (xã Phú Hội) treo ba bức hoành phi ở gian giữa, mỗi bức viết một câu chữ nho:

Hồ nhiên nhi thiên

Chí vọng thâm ân

Minh hoài hậu đức[113]

Ghép ba từ đầu mỗi bức hoành, ai cũng thấy đó là lời ca tụng Bác.

Đình Phước Thiền có đôi liễn khắc gỗ công khai ca tụng Bác:

Hồ lập dựng cơ đồ, giúp đỡ nhân dân, tô điểm non sông nên gấm vóc;

Chí ân bài minh thạnh, bao gồm thiên hạ, nhìn xem Nam Bắc vẻ xanh tươi”.

Nổi đau và tấm lòng của Đảng bộ và quân dân Biên Hòa, Long Khánh thêm động lực để tất cả cùng nổ lực vươn lên trong đấu tranh.

Nhìn chung, do Trung ương Cục, các Tỉnh ủy chuyển hướng chỉ đạo chậm, thực lực cách mạng Biên Hòa, Long Khánh bị nhiều thiệt hại nhưng cán bộ chiến sĩ ta vẫn kiên cường bám trụ địa bàn, bám dân, tranh thủ sơ hở của địch mà giáng cho chúng nhiều đòn đích đáng. Đó là bài học kinh nghiệm quan trọng rút ra từ thực tiễn chiến đấu của các địa phương hai tỉnh.

III. CỦNG CỐ, PHÁT TRIỂN THỰC LỰC CÁCH MẠNG, KHÔI PHỤC PHONG TRÀO

Tháng 1/1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp kiểm điểm tình hình hai năm 1968, 1969. Trên cơ sở đánh giá thuận lợi, khó khăn, dự kiến âm mưu chống phá của địch, khả năng phát triển của phong trào cách mạng, Hội nghị đề ra nhiệm vụ cho giai đoạn tới là: “Phát huy thắng lợi đã đạt được, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách liên tục và mạnh mẽ, vừa tiến công địch, vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ… giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập tiến tới thống nhất đất nước.[114].

Âm mưu mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, ngày 18/3/1970 Mỹ giật dây Lon Nol làm đảo chính lật đổ chính phủ Xihanúc (Sihanouk). Ngày 30/4/1970, lính Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh sang Campuchia. Áp lực lính chủ lực địch ở miền Đông giảm tới 50%, việc càn quét địa phương chủ yếu do lính bảo an, dân vệ đảm nhiệm.

Thực hiện Nghị quyết 18 của Trung ương, Trung ương Cục và Quân ủy Miền quyết định mở cuộc tiến công xuân hè 1970 - gọi là chiến dịch CD - nhằm mở rộng vùng nông thôn, khôi phục vùng giải phóng như thời kỳ trước Mậu Thân, làm biến đổi cục diện chiến trường, tạo thời cơ giành thắng lợi cao nhất. Ban cán sự T.7 đề ra cụ thể nhiệm vụ của Bà Rịa - Long Khánh, Biên Hòa, Phân khu 4: “Kết hợp chặt chẽ du kích và lực lượng giải phóng bên ngoài diệt đúng đối tượng, đánh bình định và yểm trợ chống bình định phá rã các bộ máy kềm kẹp… đi đôi đẩy mạnh phong trào quần chúng phá rã các hình thức kềm kẹp và xé rào bung ra sản xuất[115]. Điều quan trọng nhất là giữ vững được phong trào cả ba vùng đô thị, nông thôn, cao su và khu kỹ nghệ.

Chiều 30 Tết đầu năm 1970, dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã Tam Hiệp, cơ sở mật rải truyền đơn của Mặt trận dân tộc giải phóng và thư chúc tết của Bác Tôn ở 30 xí nghiệp khu kỹ nghệ Biên Hòa, treo cờ Mặt trận ở phía sau hãng dây đồng Vidico. Đêm 30, truyền đơn của Mặt trận rải ở rạp Biên Hùng, gần ty cảnh sát Biên Hòa, các xã Hiệp Hòa, Bửu Long… Cơ sở mật ở Tam Hiệp, Hiệp Hòa gửi thư cảnh cáo số ác ôn địa phương làm bọn này ban đêm phải vào nội ô ngủ cho an toàn. Chi bộ còn được cơ sở giúp tổ chức đánh bọn lính tập trên bãi đất trống nhà máy tôn xi măng Eternit gây niềm phấn khởi tin tưởng cho số cơ sở, nòng cốt trong nội ô và vùng ven đô[116].

Tại Long Thành - Nhơn Trạch, từ tháng 2/1970 đến tháng 3-1970, Mỹ và quân đội Sài Gòn huy động tới 100 xe ủi và trên 150 xe tăng, xe bọc thép yểm trợ để ủi phá hai bên quốc lộ 15 và khu lòng chảo Phước An[117]. Đồng thời địch tăng cường bắt thanh niên đi lính bổ sung cho số lính phải tăng cường trên chiến trường Camphuchia[118].

Tiến hành bình định, địch khủng bố, các dàn pháo ở nhiều cụm thi nhau trút hàng chục ngàn trái vào các vùng căn cứ Đông, Tây quốc lộ 15; đồng thời chúng gây nhiều tội ác với nhân dân[119]. Trước tình hình này, huyện ủy quyết định dời các ban ngành khỏi khu lòng chảo về Long Điền để bám dân, móc nối với các xã và Phân khu 4. Cứ mỗi đợt rút quân từ 15 đến 20 ngày.

Do địch kềm kẹp, đánh phá gắt gao nên các đơn vị vũ trang Phân khu 4, Đoàn 10, trung đoàn 4, trung đoàn 724, đại đội 240 của tỉnh, đại đội 207 Cao Su, quân y, du kích các xã bị thiếu gạo, muối, thuốc men có lúc nghiêm trọng. Địa phương đứt liên lạc do đường dây giao liên tắc, máy vô tuyến điện hết pin không mua được[120]. Móc được liên lạc với Trung ương Cục, Phân khu ủy chỉ đạo mở Đại hội Đảng các cấp[121]. Đoàn 10 Rừng Sác cũng mất liên lạc sóng điện với cấp trên. Thỉnh thoảng Đoàn lại tổ chức đánh một trận, địch la lên trên radio, lãnh đạo biết đơn vị còn tồn tại và đang chiến đấu (cho đến khi liên lạc thông suốt).

Ngày 19/3/1970, Đại hội Đảng bộ Phân khu 4 tổ chức tại căn cứ rừng Bình Sơn - Kho Bạc. Địa điểm tiến hành Đại hội chỉ cách chốt địch vài trăm mét, phía ngoài xe tăng và lính Thái đang càn, ủi phá địa hình. Du kích Bình Sơn cùng lực lượng 207 huyện Cao Su chịu trách nhiệm bảo vệ an toàn cho khoảng 100 đại biểu và cán bộ phục vụ. Sự kiện này chứng minh lòng tin tưởng sâu sắc của Đảng đối với giai cấp công nhân, cũng nói lên lòng trung thành tuyệt đối của công nhân cao su và nhân dân Bình Sơn với cách mạng.

Địch rầm rộ triển khai Luật số 3 Người cày có ruộng của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Long Thành. Chúng tung tiền mua đất vắng chủ hoặc của chủ điền cấp cho gia đình binh sĩ, mua đất của phú nông, trung nông cấp vô thường cho nông dân. Thực ra những người được cấp đất vẫn phải đóng lúa tô cho chủ cũ, hợp thức hóa cách bóc lột. Nhiều người không nhận bằng khoán, chúng mang xuống tận nhà. Nếu không nhận thì ban đêm tề ấp, xã bỏ vô nhà. Chính sách ruộng đất của Thiệu gây xáo trộn canh tác, làm mất đoàn kết trong nông dân.

Trước tình hình đó, các Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo các chi bộ xã và cán bộ Mặt trận vận động các cơ sở, nòng cốt hướng dẫn đông đảo quần chúng đấu tranh chống Luật người cày có ruộng, chống bắt lính, chống rải chất độc hóa học, chống bắn pháo phá hủy hoa màu cây trái, chống giết và bắt bớ vô cớ … Những cuộc đấu tranh nhỏ lẻ tẻ tiến dần đến các cuộc đấu tranh qui mô lớn ở các xã trong quận. Ở An Hòa, 100 người dân gửi kiến nghị lên quốc hội Sài Gòn, báo chí có đăng tải yêu cầu nguyện vọng của dân. Tại Phước Thái, một em nhỏ bị chết, khoảng 100 người khiêng xác em ra quốc lộ 15 tố cáo tội ác địch hơn 2 tiếng đồng hồ. Phòng vệ dân sự các xã Phú Hội, Phước Nguyên, Tam An, Long Thọ trả súng, bỏ gác đêm. Đầu tháng 4/1970, trên 400 học sinh trung học Long Thành đấu tranh chống bắt lính đã giành thắng lợi. Ban Kinh tài tỉnh và huyện phối hợp với Mặt trận các cấp vận động bà con nông dân đổi đồng, lúa chín gặt xong để ngoài ruộng bán cho cách mạng với giá cao hơn giá chợ. Đội bảo vệ mùa màng giúp dân thu hoạch nhanh gọn ở những cánh đồng: Xã Hoàng, Bàu Mây, Bàu Dao, suối Đá, Đất Đỏ, Bàu Tre … giáp vùng căn cứ.

Để hỗ trợ nhân dân đấu tranh, du kích mật, tự vệ mật các xã trừng trị 30 tên ác ôn (trong đó: 2 công an, 8 thám sát, 3 trưởng và phó ấp, 2 cảnh sát, 7 tình báo, 8 bình định). Phối hợp với địa phương, đặc công Đoàn 10 đánh chìm 11 sà lan bom đạn trên sông Đồng Môn. Cơ sở và nòng cốt làm công tác binh vận giáo dục tuyên truyền giáo dục 1078 gia đình binh sĩ, trực tiếp giáo dục 572 binh sĩ (có 44 rã ngũ), làm rã 7 đội phòng vệ dân sự với 321 tên. Báo cáo tổng kết của Huyện ủy Nhơn Trạch năm 1970 ghi rõ: “… đánh 117 trận lớn nhỏ, diệt 198 tên địch - có 30 Mỹ - bắn cháy 6 trực thăng, diệt 9 xe quân sự và 4 xe ủi. Ta hi sinh 116 chiến sĩ lực lượng huyện và du kích, 162 cán bộ và cơ sở không chịu được ác liệt đã chiêu hồi, 21 đồng chí bị bắt, mất 102 súng. Về quần chúng, 41 người chết, 47 người bị thương, 452 người bị bắt và tù đày”.

III.1. Mặt trận Dân tộc giải phóng các huyện Trảng Bom, Định Quán tham gia góp phần chống phá bình định, giữ vững thế và lực của cách mạng

Ở khu vực Trảng Bom, Hưng Lộc, Bàu Hàm vào đầu năm 1970 Mỹ cho xe tăng, xe ủi đi phá rừng theo từng ô. Địch tổ chức phục kích các đường mòn, bắn chết một số cán bộ, bỏ xác trong ấp chiến lược. Các đồng chí Hai Thịnh và Phan Thị Nhiễu vận động quần chúng kéo lên tỉnh lỵ Long Khánh đấu tranh chống ủi phá nương rẫy và giết hại dân lành: “Tại sao chính phủ nói luôn luôn bảo vệ dân, lại cho xe ủi phá hoại ruộng rẫy của bà con?”. Trước lời lẽ hợp lý của dân, viên cố vấn Mỹ phải ra lệnh rút xe ủi đồng thời hứa bồi thường cho dân.

Địch đánh phá căn cứ đồng thời phong tỏa gắt gao về kinh tế gây nhiều khó khăn cho ta về lương thực thực phẩm và giao thông liên lạc. Các xã Hưng Lộc, Bàu Hàm trở thành nơi đứng chân cho các lực lượng huyện, các đơn vị hậu cần, đặc công U1, Thị ủy Biên Hòa … Căn cứ của Tỉnh ủy U1 và Thị ủy Biên Hòa di dời liên tục do biệt kích và bộ binh Mỹ đánh phá thường xuyên.

Huyện ủy Trảng Bom vừa chống càn bảo vệ căn cứ, vừa thọc sâu diệt ác chống phá bình định, vừa kiên trì bám đất bám dân xây dựng cơ sở bên trong ấp chiến lược, cài nội tuyến vào các tổ chức của địch đã góp phần tạo điều kiện cho các lực lượng bên ngoài hoạt động.

Tỉnh ủy U1 tổ chức bộ phận Hoa vận gồm các đồng chí Lý Khải, Huỳnh Tài, Huỳnh Tín, Sáu Phước … đi sâu tuyên truyền chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam cho đồng bào Hoa và Nùng di cư làm rẫy ở Sông Thao, Bàu Hàm, Gia Kiệm. Nhiều người trở thành cơ sở cốt cán, thông báo tin lính vào rẫy kích để ta đối phó kịp thời. Qua số đồng bào Bàu Hàm, cán bộ ta móc nối xây dựng cơ sở người Hoa trong nội ô. Các cơ sở người Hoa và Nùng góp phần tạo thành mạng lưới giao liên từ vùng căn cứ vào nội ô, giúp Tỉnh ủy chỉ đạo phong trào bên trong. Những cơ sở ở Gia Kiệm tổ chức nội tuyến giúp huyện Định Quán vận chuyển số lượng lương thực thực phẩm không nhỏ cho các cửa khẩu hậu cần.

Ở Định Quán, đầu năm 1970 các lữ 173 và 199 Mỹ cùng sư đoàn 18 lính Sài Gòn liên tục đánh phá, càn quét, dùng máy bay B.52 huỷ diệt vùng bắc sông La Ngà, suối Đá, đồi Dâu, núi Sabi …  Chúng định diệt bộ đội chủ lực Miền hoạt động tại đây, bịt các cửa khẩu hậu cần của ta, tạo điều kiện cho việc bình định gom dân vào các ấp chiến lược. Ở các xã, ấp, địch mở các chiến dịch phụng hoàng, chiến dịch an ninh lãnh thổ nhằm triệt phá cơ sở cách mạng. Chúng cho dân vay tiền mua trâu bò, heo, máy móc, phân bón … để mua chuộc lòng dân. Vùng đồng bào công giáo di cư, địch tiến hành đoàn ngũ hóa bà con theo tuổi tác, giới tính, tầng lớp bằng các hội lão ông, hội lão bà, dùng bọn phản động đội lốt tôn giáo tuyên truyền chống phá cách mạng.

Mặt trận huyện Định Quán tăng cường cán bộ bám sát dân, du kích đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, vạch trần các thủ đoạn, âm mưu mua chuộc, chia rẽ của địch, đặc biệt trong lúc sư đoàn 18 rút phần lớn lực lượng đưa sang Campuchia, địch ở Định Quán hoang mang lo lắng. Cơ sở trong đội phòng vệ dân sự nắm tin tức, tổ chức đưa bộ đội huyện diệt gọn đồn ở cây số 110, tước vũ khí được hơn 40 khẩu súng của phòng vệ dân sự đồn 125. Nhân đà này, nòng cốt trong một số đội phòng vệ dân sự vận động anh em đấu tranh đòi trả súng không đi canh gác ở Túc Trưng, Định Quán, ấp 116 …

Nhân dân xã Bình Hòa (Túc Trưng) đấu tranh chống địch bắn pháo bừa bãi vào nương rẫy. Bà con khu vực cây số 116 chống dồn dân vào ấp đời mới. Nhân dân các xã Bình Lộc, Cây Gáo chống vào phòng vệ dân sự, chống đôn quân bắt lính… Ở Túc Trưng, địch gài mìn trên các nẻo đường, hai chị Ngô Thị Tuyết và Trần Thị Gái đi giao liên, đạp trúng, hi sinh. Chi bộ và hội phụ nữ xã đã cấp tốc vận động nhân dân đấu tranh, hơn 100 đồng bào kéo lên vây hội đồng xã, đánh tên trung đội trưởng bảo an và đòi bồi thường cho người bị hại, đòi chúng không gài mìn gây chết dân… Hội đồng xã và đồn bảo an cử người đến viếng, bồi thường và hứa chấm dứt gài mìn.

III.2. Công nhân cao su Bình Sơn vận động binh lính Thái

Ở Bình Sơn, Ban cán sự cao su chỉ đạo đẩy mạnh công tác binh vận lính Thái. Buổi chiều khi xe chở công nhân về qua chốt Thái, anh chị em đồng loạt đưa truyền đơn Mặt trận Dân tộc giải phóng in bằng hai thứ chữ Thái và Việt có hình ảnh nhân dân Thái chống chiến tranh xâm lược Việt Nam. Hiệu quả tuyên truyền thấy rõ: lính Thái thay đổi thái độ, lúc vào xóm gặp dân họ ra dấu: cởi áo, bỏ súng… biểu hiện muốn về nước. Có người ra hiệu ý nói: người Việt Nam khổ lắm, bị ARVN (lính Sài Gòn) gây tội ác, anh ta ghét nhưng không biết làm thế nào … Lính Thái tăng cường kiểm tra chặt cửa khẩu Bình Sơn: không cho công nhân mang cơm trưa ra lô sợ họ tiếp tế cho Việt cộng. Bà con đấu tranh: phải ăn mới có sức làm chớ! Chúng tôi làm không đủ ăn, lấy gì tiếp tế cho Việt cộng!

Chi bộ tổ chức nhiều tổ phụ nữ biết tiếng Thái, vận động lính Thái chở gạo từ quận lỵ Long Thành vào tận địa điểm giao hàng. Khi lính Thái thu thẻ căn cước của bà con khi ra lô, cấp biên nhận để đi làm, cán bộ ta vận động công nhân xé hết, lúc về chúng kiểm tra thì mọi người trả lời: “Chúng tôi ra lô, Việt cộng đã thu và xé hết, bây giờ các ông trả lại căn cước tùy thân của chúng tôi, lỡ lính xét hỏi thì có giấy mà đưa…”.  Chị em Bình Sơn có hàng trăm sáng kiến trong việc tiếp tế lương thực, thuốc men, nhu yếu phẩm, đạn dược … cho cán bộ, du kích ngoài căn cứ. Có lúc nghe tin địch bắn chết anh em ngoài lô, sáng ra công nhân đấu tranh không đi làm, lấy cớ pháo bắn chết người, dao hư, thùng hư không cạo được. Giám đốc sở phải cho công nhân ra lô lấy dụng cụ về sửa, nhân cơ hội đó bà con tranh thủ chôn cất tử tế liệt sĩ.         

Sau chiến dịch CD và các đợt hoạt động của quân dân Biên Hoà - Long Khánh trong năm 1970, ta diệt được nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, nâng thế làm chủ ở một số ấp, xã. Nhưng ta còn nhiều khó khăn về lương thực, cán bộ và chiến sĩ phải ăn độn rau rừng, đậu nành, bột buông… Địch còn chia cắt chiến trường, bộ đội huyện phải chia nhau xuống xã giúp du kích đánh phá bình định, đột ấp để có cái ăn.

 

III.3. Tổ chức lại chiến trường, tạo thế và lực mới

 Ngày 25/12/1970, Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị số 33 vạch rõ âm mưu bình định nông thôn của địch, đồng thời chỉ đạo chuyển hướng đẩy mạnh hoạt động ở nông thôn và đô thị. Chỉ thị đề ra yêu cầu phương thức hoạt động tác chiến từng vùng cụ thể: vùng căn cứ, vùng tranh chấp, vùng yếu, vùng địch kềm chặt. Các cấp ủy phải lấy quần chúng làm cơ sở, bám trụ trong dân, nắm nguyên tắc ngăn cách bí mật, hợp pháp và nửa hợp pháp, không phô trương lực lượng, tranh thủ đoàn kết mọi tầng lớp, chĩa mũi nhọn vào bọn ác ôn nhất ở địa phương. 

Do thực tiễn chiến trường, Trung ương Cục quyết định tổ chức lại địa bàn: giải thể Ban cán sự T.7, thành lập hai phân khu: phân khu Thủ Biên và phân khu Bà Rịa[122]

Thị uỷ Biên Hòa chú trọng xây dựng cơ sở ở những địa bàn quan trọng quanh sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình, quân đoàn 3, khu kỹ nghệ, các xã ven nội ô (Hiệp Hòa, Bửu Hòa, Tam Hiệp, Tân Thành, Bửu Long …). Thị ủy cũng chú trọng mở nhiều bàn đạp nhiều hướng với mạng giao liên đi đường công khai hợp pháp để đưa cán bộ vào hoạt động trong nội ô, móc cơ sở nội thành ra huấn luyện: bàn đạp Bàu Hàm, bàn đạp chân núi Gia Nhan, bàn đạp Bàu Cá, bàn đạp Hưng Lộc, bàn đạp Bình Lộc, bàn đạp Định Quán, bàn đạp Phước Tân … Cán bộ có khả năng công tác đô thị được cơ sở Chín Dẩu bố trí đi Cần Thơ làm thẻ căn cước (mỗi giấy tốn 200.000 đồng Sài Gòn tương đương giá 5 chiếc xe Honda 50 mua theo còmmăng từ Nhật lúc ấy). Từ đó, cán bộ ta xây dựng lại cơ sở, đưa phong trào quần chúng phát triển đấu tranh trong nội thành[123].

Lợi dụng thế hợp pháp của các tổ chức nghiệp đoàn lao động ở tỉnh Biên Hòa, Ban Công vận Thị ủy đã lãnh đạo các nòng cốt, cơ sở vận động 2500 công nhân khu kỹ nghệ và 50 người lái xe lam tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5/1971. Đoàn biểu tình đã từ quận lỵ Đức Tu (nay thuộc phường Tam Hiệp) đi về Tân Mai với nhiều biểu ngữ phản đối chính quyền tỉnh nhập 200 xe Lambro mới, bắt xe cũ ngưng chạy. Anh em công nhân cũng đấu tranh chống cảnh sát phạt vạ bừa bãi vô cớ, ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.

Tiếp đó, chi bộ xã Bửu Long lãnh đạo nòng cốt và cơ sở vận động hơn 1000 công nhân 18 cơ sở  xay đá ở Bửu Long, Tân Thành đình công đồng loạt đòi chủ xí nghiệp tăng lương, nâng phụ cấp đắt đỏ. Bị thiệt hại, giới chủ phải tăng 15% lương.

Để mở rộng khu kỹ nghệ Biên Hòa, giới tư bản cấu kết với chính quyền tìm cách chiếm đất của nông dân ấp Bình Đa. Họ cho xáng thổi cát từ lòng rạch Cát lấp ruộng ven sông. Thị ủy Biên Hòa chỉ đạo chi bộ xã Tam Hiệp phát động nông dân đấu tranh bảo vệ ruộng đất của mình, đòi bồi thường thiệt hại. Nghiệp đoàn nông dân Tam Hiệp[124] thành lập ngày 10/6/1970, đã tổ chức cuộc họp tại nhà hội Bình Đa với sự có mặt của đại diện Liên đoàn lao động nông dân tỉnh Biên Hòa, đại diện Liên đoàn lao động Sài Gòn, đại diện 20 chợ ở Sài Gòn, đại diện công nhân bốc vác Tân Cảng Sài Gòn, nhiều nhà báo ở Sài Gòn. Hơn 200 nông dân Bình Đa tham dự hội nghị thống nhất nêu yêu sách:

- Chính quyền phải bồi thường thiệt hại cho nông dân khi lấy ruộng để mở rộng khu kỹ nghệ.

- Chừa lại một phần đầt để xây dựng chỗ cư trú cho dân ở trông coi mồ mả ông bà, không được ủi hết.

- Ưu tiên nhận người địa phương vào làm khi xây xong nhà máy.

Bà Tư Nhòng phát biểu hăng hái, tố cáo chính quyền Sài Gòn: “Mấy ông nói thực hiện chính sách “người cày có ruộng” nhưng ruộng đâu không thấy, chỉ thấy mấy ông giao đất cho người nước ngoài lập hãng xưởng kiếm lời, bóc lột nông dân nghèo chúng tôi…”.

Cuộc đấu tranh của nông dân chống thổi cát lấp ruộng diễn ra rất quyết liệt, huy động được cả thương phế binh ngụy tham gia. Báo chí Sài Gòn đưa nhiều tin về cuộc đấu tranh của nông dân Bình Đa. Đây là cuộc tiến công dư luận tác động mạnh đến phong trào tỉnh lỵ Biên Hòa, buộc chính quyền và các nhà tư bản bồi thường thích đáng cho nông dân Bình Đa.

Đặc biệt dưới sự hướng dẫn của cán bộ Mặt trận, dư luận chống chiến tranh, đòi hòa bình ở ngay tỉnh lỵ Biên Hòa phát triển mạnh.

Từ ngày 3 đến ngày 8/9/1971, nhân ngày lễ Vu lan, chùa Định Quang (ở An Hảo) tổ chức lễ cầu nguyện cho hòa bình ở Việt Nam do nhà sư Thích Thiện Hoa chủ trì. Hàng trăm phật tử cùng Ủy ban chống bầu cử (tổng thống) gian lận của các chùa Ấn Quang, Từ Nghiêm, Linh Sơn, Đông Hưng từ Sài Gòn về dự liên tục cả tuần lễ. Con đường từ ngã ba Vũng Tàu vào chùa treo các dây cờ màu hồng. Người đến dự đeo phù hiệu chim hoà bình trên ngực áo. Nhiều vách tường dán khẩu hiệu vận động nhân dân tẩy chay cuộc bầu cử ngày 3/10/1971 không đi, không bỏ, không bầu (cho Thiệu - Kỳ). Tối ngày 7/9/1971, sinh viên phật tử Thiện Phước thuyết trình hiện tình đất nước trước hơn một ngàn thính giả. Anh vạch rõ chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ kéo dài gây tàn phá, đau thương tang tóc cho người Việt Nam; kêu gọi đồng bào đạo Phật tham gia phong trào đấu tranh đòi no ấm, hòa bình cho Tổ quốc, chống cuộc bầu cử (tổng thống, phó tổng thống) bịp bợm này. Sân chùa đông nghẹt người nghe. Cảnh sát dã chiến bao vây phía ngoài, chỉ ghi chép chứ không dám giở trò gì.

Nhiều cán bộ đã được Tỉnh ủy cử vào trong nội đô hoạt động, xây dựng cơ sở, tổ chức mạng lưới giao kiên bên trong[125]. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã diễn ra chống địch sa thải, giảm lương, chống bóc lột như cuộc đấu tranh của công nhân hãng Ôcan (Okal) chuyên sản xuất ván ép bằng dăm bào do tư bản Úc đầu tư xây dựng.

Tháng 7/1971, trên địa bàn huyện Cao su, lính Mỹ rút khỏi căn cứ suối Râm (Long Khánh). Lính Thái Lan rút khỏi các căn cứ Nước Trong, Bình Sơn. Lính Sài Gòn và số tề vệ địa phương hoang mang sa sút tinh thần vì mất chỗ dựa. Nắm thời cơ, các chi bộ đảng đẩy mạnh công tác tuyên truyền binh vận, phát động đấu tranh phá ấp chiến lược. Lực lượng vũ trang cách mạng đã giải phóng một số sở cao su dọc liên tỉnh lộ 2, nâng một số sở lên vùng tranh chấp. Ở Bình Sơn, chi bộ lãnh đạo nhân dân cùng du kích bung ra nhổ sạch hàng rào ấp chiến lược, các cơ sở phát loa kêu gọi binh sĩ trở về với nhân dân. Đến cuối năm, phong trào Bình Sơn lên mạnh, thế làm chủ mở rộng.

Ở vùng lòng chảo Nhơn Trạch, sau khi địch ủi phá lột da Rừng Giồng, qua mùa mưa chồi cây lúp xúp mọc lại. Cán bộ chiến sĩ bám trụ đào hầm sâu xuống cạnh các lùm cây sống sót, bứng cỏ ngụy trang. Ban ngày anh em phân tán ra ruộng, tối mới về hầm nấu ăn. Vào mùa khô, địch cho quân đốt rừng rồi dùng máy bay trực thăng rà xoáy phát hiện. Huyện ủy cho anh em đốt trước theo kiểu da beo quanh căn cứ, nghi trang kỹ đường đi lối lại. Đột ấp, anh em không đi dép râu, dép lỗ, không đi đường mòn, kỹ thế mà vẫn không tránh khỏi tổn thất.

Nhân dân Long Thành, Nhơn Trạch đã sáng tạo nhiều hình thức giúp đỡ cách mạng, vừa thể hiện tấm lòng tin tưởng cách mạng, vừa thiết thực giúp kháng chiến trong lúc khó khăn ngặt nghèo[126]. Đoàn 10 đặc công thủy ngay khi mới đặt chân tới Rừng Sác đã được đồng bào bảy xã Phước Thái, Phước Long, Phước Thọ, Phước An, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh đùm bọc, chở che, tận tình giúp đỡ. Anh em được bà con cho biết những tập tục sinh hoạt của dân Nam bộ, dạy cách chèo xuồng ghe, đào chem chép, giăng câu, quăng chài thả lưới … Thông qua ông Năm Mạt cưa - một cơ sở ở Quán Chim trên quốc lộ 15,  anh Bảy Dừa khô (người Cai Lậy tỉnh Mỹ Tho cũ, nay là tỉnh Tiền Giang) đã dũng cảm, sáng tạo vượt sông nước với bao trạm chốt gác của địch trên tuyến đường thủy tiếp tế gạo, pin đèn, vải và nhiều hàng hóa khác cho Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác. Có chuyến ông chở 12 tấn gạo. Ta biết gạo là hàng quốc cấm thời bấy giờ, nếu địch bắt được chắc chắn sẽ tù đày, tra tấn. Nhân dân khu vực Rừng Sác ở Nhơn Trach, Bà Rịa, Cần Giờ… chính là chỗ dựa vững chắc của Đặc công Đoàn 10 Rừng Sác[127].

Tháng 5/1971, hai huyện Xuân Lộc, Định Quán sáp nhập thành huyện Xuân Lộc. Huyện ủy triển khai học tập các chỉ thị 26, 32, 33 của Trung ương Cục, xốc lại tổ chức cơ quan và lực lượng vũ trang.

Có trung đoàn 33 Khu - do các tỉnh kết nghĩa chi viện - hoạt động vũ trang phối hợp làm đòn xeo cho đấu tranh chính trị, binh vận, ta giành quyền làm chủ có mức độ khác nhau ở các ấp Bảo Bình 1, Bảo Bình 2, Bảo Vinh A, Bảo Vinh B, Suối Cát, Trung Lương, Trung Nghĩa, Tân Thủy, Bình Lộc, ấp km 110, ấp km 116, ấp km 125 … Toàn huyện có 16 ấp tranh chấp mạnh (gồm 14.708 dân với 6 chi bộ (30 đảng viên), 1054 cơ sở), 15 ấp tranh chấp vừa (gồm 18.587 dân với 1 chi bộ (8 đảng viên), 272 cơ sở) … Các chi bộ Bảo Vinh, Bảo Liệt nhanh chóng vận động nhiều bà con bung về vườn ruộng cũ để sản xuất.

Tại các sở cao su, công nhân các đồn điền Cẩm Mỹ, Hàng Gòn, Dầu Giây … đấu tranh tập trung phá ấp chiến lược, diệt một số tên ác ôn. Các cơ sở được móc nối, hoạt động trở lại, phục vụ cho việc đánh địch, làm công tác binh vận và đấu tranh chính trị.

Nhiều cuộc đấu tranh chính trị ở Long Khánh đã liên tục nổ ra thể hiện khả năng tập hợp lực lượng của cán bộ Đảng, cán bộ Mặt trận và tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân[128].

Sáng 23/9 tại tỉnh lỵ Long Khánh lại nổ ra cuộc đấu tranh chống bầu cử độc diễn của Thiệu. Chị Năm Thọ, bà Nguyễn Thị Dung, bà Lê Thị Mười là nòng cốt dẫn đầu hàng ngàn đồng bào tỉnh lỵ trong đó có nhiều cô nhi quả phụ và thương phế binh ngụy, học sinh, tiểu thương … kéo về chùa Vinh Khánh (nay là chùa Long Thọ) với các khẩu hiệu: Đả đảo Thiệu - Hương, tay sai đế quốc Mỹ, Bầu cử độc diễn là chà đạp dân chủ, phản bội dân tộc. Địch đàn áp bằng lựu đạn cay, phi tiễn. Đoàn biểu tình dùng gạch đá ném trả, dùng xăng đốt cháy xe cảnh sát, đốt thẻ cử tri, tạo vật chướng ngại ngăn cản giao thông. Máy bay lên thẳng địch đến bắn vào chùa làm chết 2 người, hàng chục bà con bị thương.

Tại các đồn điền cao su Ông Quế, Bàu Sen, bộ đội trung đoàn 4 của Khu phối hợp với du kích hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị ở tỉnh lỵ bằng việc đánh chi khu cảnh sát, diệt 34 bảo an dân vệ, phá rã tề vệ, bắn cháy 3 xe tăng, 3 xe ô tô. Ngày 3/10/1971, các chiến sĩ  trinh sát tập kích 1 đại đội lính Mỹ ở Trà Tân (Bắc lộ 1) diệt 35 tên, bắn rơi 1 máy bay. Ngày 29/10, địch mở cuộc càn cấp tiểu đoàn vào khu vực Tân Phong. Lực lượng vũ trang huyện phối hợp với đại đội 1 của trung đoàn 4 đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 4 thuộc trung đoàn 43 lính Sài Gòn …

Nhìn chung trong đợt, Xuân Lộc (phân khu Bà Rịa) hoạt động sôi nổi nhất toàn diện nhất, diệt nhiều địch, thu nhiều vũ khí, giải tán nhiều phòng vệ dân sự, phá rã nhiều bộ máy kềm kẹp của địch tại xã, ấp”.  

Tháng 5/1971, hai huyện Vĩnh Cửu và Trảng Bom sáp nhập thành huyện Vĩnh Cửu[129]; các xã Gia Tân, Gia Kiệm chuyển thuộc huyện Xuân Lộc. Huyện ủy chủ trương đẩy mạnh đấu tranh bằng ba mũi vũ trang, chính trị, binh vận để đánh phá bình định, nâng thế làm chủ của quần chúng ở cơ sở. Hoạt động vũ trang nhằm đánh trúng bọn ác ôn, gỡ thế kềm kẹp, giúp cho việc xây dựng cơ sở và thực lực. Các đồng chí trong Huyện ủy tăng cường cùng cán bộ xã bám nương rẫy của đồng bào, hoặc tìm cách trụ ven ấp chiến lược để móc nối nòng cốt, cảm tình chỉ đạo phong trào bên trong ấp theo tinh thần của Mặt trận Dân tộc giải phóng.

Tại xã Hưng Lộc, các bà Hai Điểm, Hai Thịnh, ông Tư Việt vận động từng tổ dân làm kiến nghị đòi hội đồng xã cho dân bung ra làm rẫy và không bị xét hỏi. Tổ binh vận phân loại gia đình binh sĩ, có kế hoạch tuyên truyền lòng yêu quê hương đất nước, chính sách khoan hòa của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Tổ binh vận tổ chức được một số cảm tình làm nòng cốt dùng báo chí công khai để tuyên truyền những thất bại nặng nề của quân đội Mỹ và Sài Gòn trên các chiến trường Campuchia và đường 9 Nam Lào. Hai trung đội dân vệ canh gác tuần tra chiếu lệ. Chi đoàn thanh niên mật tổ chức được 4 thiếu nhi theo dõi nắm tình hình hoạt động báo kịp thời cho du kích đánh địch.

Xã Bàu Hàm 1 có 30 thanh niên Hoa và Nùng trong trung đội dân vệ. Các đồng chí Dương Phúc Sinh, Năm Tắc Sính, Chu Văn Thêm dùng tình đồng hương, đồng dân tộc để giáo dục thuyết phục anh em đừng tham gia bắn giết bà con, đừng chống lại cách mạng. Họ thổ lộ không muốn đụng độ với bộ đội giải phóng, họ làm công việc canh gác tuần tra là do bọn bảo an và cuộc cảnh sát xã thúc ép. Do đó cơ sở mật có điều kiện vận động quyên góp, thu thuế và mua lương thực tiếp tế cho căn cứ bàn đạp.

Kiên trì làm công tác dân vận, kết quả đến cuối năm 1971 ta nâng 11 ấp lên thế tranh chấp, các xã đều có chi bộ và chi đoàn; riêng xã Hưng Lộc có 3 chi bộ mật ở 3 ấp.

Đầu năm 1971 trước khi rút quân về nước, Mỹ mở nhiều cuộc càn ở quận Định Quán. Chúng đánh phá dữ dội căn cứ, kho tàng, đường vận chuyển của ta từ chiến khu Đ về Long Khánh - Bà Rịa, đẩy lui bộ đội chủ lực ra khỏi địa bàn, hỗ trợ lính Sài Gòn bình định phía trong. Ở các xã, ấp địch củng cố bộ máy tề vệ[130]. Nhiều tổ chức đảng phái mọc ra: đảng Dân chủ xã hội, đảng Quốc gia Việt Nam, đảng Quốc hương, phong trào Quốc gia cấp tiến … Một số phản động đội lốt tôn giáo cũng tung hoành: linh mục Trọng cầm đầu đảng Hòa bình công lý, thiếu tá Đỗ Xuyên Mậu đội lốt cha xứ Võ Dõng, nhân viên tình báo CIA là Trang đội lốt cha xứ La Ngà … Ngoài việc đánh phá cách mạng bằng quân sự, địch còn đánh ta về kinh tế, kiểm soát chặt quốc lộ 20, cấm dân không được bán hàng cho giải phóng. Chúng mua chuộc trái tim và khối óc người dân bằng cách cho vay vốn mua máy nông nghiệp, xăng nhớt, giống cây trồng và vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu … và thực hiện luật người cày có ruộng lừa bịp. Đoàn hậu cần 814 của ta gặp khó khăn do các cửa khẩu bị bít lại.

Nhưng phong trào chiến tranh nhân dân ở Định Quán vẫn phát triển, Huyện ủy chỉ đạo các chi bộ lãnh đạo cơ sở, nòng cốt vận động tuyên truyền chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Cán bộ, chiến sĩ và du kích địa phương bám trụ địa bàn, bám dân để chống càn, tập kích diệt ác phá kềm, gây thối động hàng ngũ địch như trận phá phòng thông tin ấp 125 chiều 15/1/1971 của hai đồng chí Ngọc và Châu; trận diệt 1 tiểu đội bảo an ở Túc Trưng bằng cách gài ngược mìn Claymore của địch lúc mờ sáng 3/3/1971; trận ba du kích xã Túc Trưng dùng trái ĐK đánh lính Mỹ nghỉ ăn trưa một ngày tháng 4/1971…

Địch đánh phá khu vực cây số 125 ác liệt. Tháng 9/1971, Huyện ủy và Huyện đội Xuân Lộc[131] thành lập “đội khai hoang” lên xã 125 xây dựng lại cơ sở. Một đồng chí vào trụ nhà cơ sở mật vừa nắm tình hình vừa phát triển thêm 2 cảm tình và 2 nội tuyến trong phòng vệ dân sự.

Qua một năm vượt khó khăn, đánh phá bình định nông thôn, quân dân Định Quán thu những thắng lợi quan trọng. Các chi bộ và lực lượng du kích xã được củng cố, được lực lượng vũ trang huyện và khu hỗ trợ đã liên tục tiến công địch, phá lỏng, phá rã sự kềm kẹp của địch, làm rã nhiều đội phòng vệ dân sự, nâng thế tranh chấp ở nhiều xã, ấp[132].

Ba năm 1969 - 1971 Mỹ xuống thang rút dần quân về nước là thời kỳ thử thách ác liệt đối với đảng bộ, quân dân phân khu 4, phân khu Bà Rịa, phân khu Thủ Biên, tỉnh Biên Hòa. Địch lấn chiếm mạnh, vùng giải phóng thu hẹp, khó khăn chồng chất, tổn thất hi sinh không nhỏ. Các Tỉnh ủy, Phân khu ủy Thủ Biên, Bà Rịa đã từng bước lãnh đạo chuyển hướng đấu tranh, trong đó Mặt trận Dân tộc giải phóng các cấp góp phần xây dựng, củng cố, phát triển cơ sở, mở mảng mở vùng, khôi phục phong trào chiến tranh du kích, kết hợp hai chân ba mũi từng bước xây dựng cơ sở để  phát triển thực lực cách mạng.      

IV. QUÂN DÂN HAI TỈNH BIÊN HÒA, LONG KHÁNH GÓP PHẦN VÀO THẮNG LỢI CUẢ HIỆP ĐỊNH PARIS NĂM 1972

Tháng 8/1971, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc phản công chiến lược trên toàn miền Nam, đánh bại kế hoạch bình định nông thôn của địch, hỗ trợ cho các phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong hội nghị Paris.

Ngày 13/2/1972, Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị 01/CT-72 nêu rõ: “So sánh lực lượng giữa ta và địch đã có bước chuyển biến lớn, thời cơ thất bại của địch và thắng lợi của ta đã rõ. Tình hình đã chín mùi để ta chuyển phong trào lên một bước nhảy vọt, phát động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta xốc tới đánh bại về cơ bản chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, giành thắng lợi lớn nhất”. [133]

Trung ương Cục quyết định mở chiến dịch Nguyễn Huệ kéo dài cả năm 1972. Hướng chính của chiến dịch là quốc lộ 13 (Thủ Dầu Một) và lộ 22 (Tây Ninh). Hướng phối hợp quan trọng là các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa - Long Khánh.

Kế hoạch của phân khu ủy Thủ Biên là: mở mảng giải phóng và bung dân về khu vực Nam Phú Giáo, Bắc Châu Thành, Bắc Tân Uyên, khôi phục phần lớn căn cứ cũ, phá lỏng trên diện rộng ở Nam Châu Thành, Lái Thiêu, Vĩnh Cửu, có điều kiện thì giải phóng bung dân về, tạo thế nối liền phía trên xuống phía dưới. Riêng thị xã Biên Hòa phải củng cố cơ sở bên trong nội ô và vùng ven, tạo điều kiện cho đặc công thọc sâu tiến công vào sân bay Biên Hòa, kho Long Bình và các căn cứ quân sự khác, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ ngụy, hỗ trợ chiến trường chung.

Phân khu ủy Bà Rịa - Long Khánh chỉ đạo mở đợt “đồng khởi toàn tỉnh”, kết hợp hai lực lượng, ba mũi đấu tranh chính trị, vũ trang, binh vận, diệt ác phá kềm ở xã, ấp mở vùng giải phóng, vùng làm chủ.[134]

IV.1. Quân dân Thủ Biên tiến công và nổi dậy đánh địch trong chiến dịch

Từ đầu năm 1972, địch tăng cường phòng thủ địa bàn Vĩnh Cửu, lực lượng địch mạnh[135].

Phối hợp với bộ đội chủ lực (trung đoàn 4, trung đoàn 33 quân khu) đồng loạt tiến công 80 ấp chiến lược trên các truc lộ 1, 15, 20, 2… giải phóng nhiều ấp, Huyện ủy chỉ đạo các chi bộ và lực lượng vũ trang tiến hành vũ trang tuyên truyền sâu rộng đồng thời đánh địch, trong đó các chi bộ Thiện Tân, Bình Long huy động cơ sở vận động quần chúng tham gia phá hoại đường giao thông (đắp mô, đặt vật chướng ngại… ).

Chi bộ mật Thiện Tân đã tổ chức hai tổ nữ thanh niên làm giao liên dẫn đường, thu mua lương thực cho trung đoàn đặc công 113 đứng chân hoạt động trên địa bàn[136]. Trung đoàn và chi bộ liên lạc với nhau bằng hộp thư chết. Có sự phối hợp giúp đỡ của cơ sở, từ núi Bùng Binh, các chiến sĩ trinh sát của đoàn 113 đã vào sân bay Biên Hoà điều nghiên. Đêm 1/8/1972, tiểu đoàn pháo binh 14 của trung đoàn đặc công 113 đã bắn ĐKB vào sân bay, phá 74 máy bay các loại, 11 xe quân sự, 2 dàn rađa, làm cháy 2 kho xăng và kho bom napan, 1 kho đạn, 2 kho thiết bị quân sự, 1 kho lương thực thực phẩm. Dọn đống đổ nát hoang tàn chưa xong, đêm 31/8 tiểu đoàn pháo binh 14 lại bắn phá tiếp, phá 48 máy bay, diệt 50 tên Mỹ ngụy.

Phát huy thắng lợi sân bay Biên Hòa, Huyện ủy Vĩnh Cửu phân công nhiều đồng chí xuống vùng 2 (Bình Long, Tân Phú, Lợi Hoà) đẩy mạnh công tác tuyên truyền, chỉ đạo các cơ sở vận động quần chúng bung ra sản xuất, làm binh vận khiến nhiều phòng vệ dân sự ba xã này không đi canh gác, trả súng cho chỉ huy.

Các chi bộ Thiện Tân, Tân Định, Đại An đẩy mạnh thu mua lương thực thực phẩm, tổ chức cho cơ sở mua dây điện, pin… và đi dân công tải đạn pháo từ chiến khu Đ về cho bộ đội. Tại tỉnh lỵ Biên Hòa, được cơ sở mật giúp đỡ, đại đội 1 đặc công đã làm nổ 2 kho phá hủy 10 tấn đạn và rocket đêm 7/1/1972 ở Bình Ý.

Sáng 10/9/1972, kết hợp nội tuyến với đoàn đặc công 113, ta đánh sân bay Biên Hòa phá hủy 175 máy bay các loại: A.37, C.130 , 70 tên Mỹ ngụy chết. Nội tuyến Nguyễn Văn Thôn (H16) được thưởng huân chương Quân công giải phóng hạng ba, Đoàn 113 được thưởng huân chương Quân công giải phóng hạng nhì. Các hãng thông tấn phương Tây AP, AFP… thừa nhận: đối phương đã gây thiệt hại ghê gớm nhất. Trận pháo kích sân bay có giá trị ngang một trận tập kích bằng máy bay chiến lược.

Mặc dù địch tăng cường bảo vệ cẩn mật tổng kho Long Bình, 2 giờ 30 phút sáng 13/8/1972, hơn 50 chiến sĩ đặc công Đoàn 113 đã tiếp tục tiến công bằng 11 mũi, phá hủy 150 ngàn tấn bom đạn, 600 tấn mìn định hướng, 1 triệu lít xăng nhớt và diệt hơn 200 lính gác kho. Bom đạn giặc nổ suốt ba ngày liền, làm rung chuyển tỉnh lỵ Biên Hòa và cả Sài Gòn.

Các cuộc tiến công liên tiếp của Đoàn 113 góp phần chi viện chiến trường miền Tây Nam bộ, đánh lủng dạ dày địch, làm chúng phải bỏ một số cuộc càn lớn. Trong các chiến công vang dội đó, có phần đóng góp công sức của nhân dân Vĩnh Cửu.

  Thị ủy Biên Hòa tăng cường đưa cán bộ vào hoạt động trong nội ô, phát triển thực lực, tạo thêm nhiều cơ sở, cảm tình và lõm chính trị, xây dựng 3 chi bộ mật ở xã Bửu Long, khu vực An Hảo và chợ Biên Hòa. Tại khu kỹ nghệ và ở nội ô, 4 đảng viên và nhiều cốt cán, cơ sở nắm các tổ chức: Liên hiệp nghiệp đoàn tỉnh Biên Hòa, nghiệp đoàn Cogido, nghiệp đoàn Vicasa, nghiệp đoàn Eternit, nghiệp đoàn Dutaco, nghiệp đoàn hãng đường Biên Hòa, nghiệp đoàn Vikyno, nghiệp đoàn giấy Tân Mai, nghiệp đoàn xe lam, nghiệp đoàn xe lô, nghiệp đoàn xích lô, nghiệp đoàn nông dân. Trong ngành giáo dục, ta phát triển 2 đảng viên, 3 đoàn viên, 4 nòng cốt, 5 tích cực, 6 cảm tình, 15 học sinh giải phóng, 1 du kích mật, 2 an ninh mật. Ba trường có cơ sở là: Ngô Quyền, Khiết Tâm và tỉnh hạt Hiệp Hòa. Anh Hai Điểu (Tôn Văn Điểu) vốn là cơ sở của biệt động Sài Gòn, bám trụ ở chùa Định Quang, làm thợ hồ. Theo chỉ đạo của chi bộ H.21, anh mở rộng quan hệ với bà con xóm thợ An Hảo và cả lính cùng cảnh sát địa phương. Nhờ đó, anh đào một hầm bí mật để cất giấu vũ khí và ít lâu sau đón một số chiến sĩ biệt động thị xã vào ém, chờ thời cơ đánh địch.

Tháng 2 và 3/1972, các cuộc đấu tranh của công nhân hãng dầu Shell (ở gần cầu Rạch Cát), công nhân khuân vác kho Long Bình và tài xế hãng thầu xây dựng RMK - BRJ, 1500 công nhân các hãng xay đá Bửu Long liên tục đấu tranh đòi tăng lương. Có lúc hàng trăm công nhân kéo đi đấu tranh, cử hàng chục đại diện đến thanh tra lao động tỉnh và tòa hành chính tỉnh đòi giải quyết. Giới chủ bị thiệt hại vì những cuộc đình công kéo dài, phải chấp nhận giải quyết một phần đòi hỏi của người lao động.

Sau các thất bại trên chiến trường Campuchia và Lào năm 1971, chiến dịch Nguyễn Huệ mở đầu năm 1972 trên hướng chính Tây Ninh và vùng 1 chiến thuật Trị - Thiên, tiếp đến cuộc chiến ác liệt ở thành cổ Quảng Trị hơn 80 ngày đêm đã làm quân đội Sài Gòn thương vong nặng nề. Tinh thần phản chiến ở miền Nam ngày càng lan rộng, nhân dân hiểu rõ thực chất của Việt Nam hóa chiến tranh đúng là sự thay đổi màu da của xác chết. Phong trào chống quân dịch, trốn lính lan rộng vì thanh niên không muốn chết vô nghĩa để cho giới tướng lãnh chóp bu Sài Gòn làm giàu trên xương máu họ. Khi cảnh sát lùng sục bắt số thanh niên trốn lính trong nhà thờ, hàng trăm đồng bào đạo Thiên Chúa xã Tam Hiệp chặn xe cảnh sát, bắt 4 tên làm con tin bao vây quận lỵ Đức Tu, buộc viên tỉnh phó nội an Biên Hòa phải về giải quyết yêu sách.

IV.2. Phân khu Bà Rịa tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ

Nhìn khái quát, chiến dịch Nguyễn Huệ mở từ đầu năm đến cuối năm 1972, bộ đội trung đoàn 33 chủ lực phân khu liên tục cơ động tiến công địch từ sở cao su Cẩm Mỹ đến huyện Định Quán. Quả đấm chủ lực hỗ trợ đắc lực cho bộ đội huyện và du kích các xã đánh các ấp chiến lược Túc Trưng, Gia Kiệm, các ấp 110, 116, 125, Phương Mai, Thọ Lâm, Thanh Thọ (xã Phương Lâm), phá các ban tề ấp, phá rã các đội phòng vệ dân sự ở các ấp 110, 114, 116, 125, Cây Xăng (Bình Hòa).

Các đội trinh sát vũ trang được cơ sở mật thông báo tin tức, liên tục đánh xe quân sự trên quốc lộ 20 và phát động bà con bung ra diệt ác phá kềm, về nương rẫy sản xuất. Ở Túc Trưng, được cơ sở là chị Định và em Trực theo dõi cung cấp tin tức, chị Thảo - cơ sở mật của đội trinh sát vũ trang huyện - đã tới nhà ông Ba Phú - an ninh mật - nhận khẩu súng ngắn, bắn chết tên cảnh sát Nhằm đang sửa xe Honda bên vệ đường. Tại ngã ba Trà Cổ, đồng chí Bé - chiến sĩ bộ đội huyện - nhờ cơ sở giúp, đã diệt tên Ngọc Hải tình báo thiên nga.

Tháng 4/1972, cơ sở mật theo dõi qui luật đại đội 972 bảo an tuần tra từ km 120 đến km 125 đã thông báo cho chi bộ 125. Du kích xã phục kích ở km 124 bằng 2 trái mìn Claymore và 2 trái ĐH.8 tự tạo. 7 giờ sáng, 1 tiểu đội bảo an lọt vào vùng phục kích, mìn nổ diệt 11 tên, còn 1 tên sống sót chạy về đồn.

21 giờ đêm 2/6/1972 du kích xã được bộ đội huyện yểm trợ đã tiến công đồn 125. Sau nửa giờ chiến đấu, đồn bị hạ. Chi bộ 125 kịp thời tổ chức mít tinh có hơn 100 bà con tham dự mừng chiến thắng.

Được cơ sở theo dõi nắm tình hình và báo tin, đêm 9/6 một tổ du kích Túc Trưng (Điểu Mặn, Nam, Long) đã diệt tên trưởng ấp Cây Xăng là Hiệp ở ngay cửa đồn dân vệ B.10. Địch tăng cường phục kích ban đêm, kiểm soát chặt bà con đi làm rẫy. Chi bộ đã chỉ đạo một số cơ sở mật: các bà Hai Tùy, Tư Minh, Sáu Xuân, các ông Năm Giáp, Quốc… vận động hơn 100 bà con nông dân kéo đến chi khu kiến nghị đòi được tự do đi rẫy làm ăn. Cuộc đấu tranh giằng co ba giờ liền, rốt cuộc viên chỉ huy chi khu phải chấp nhận yêu sách chính đáng của dân.

Ở Xuân Lộc (Long Khánh), đêm 30/3/1972 lực lượng vũ trang tỉnh, huyện phối hợp du kích các địa phương hỗ trợ nhân dân các xã dọc lộ 1 và 20 cùng một số xã vùng cao su dùng ba mũi tiến công địch. Ta phá đồn bót, bức rút các vị trí Trường Sơn, Cầu Mối, Bảo Bình, Gia Lào, cầu Nam Hà, phá ấp chiến lược ở 6 xã vùng điểm. Quần chúng nổi dậy giải phóng các ấp Nam Hà, Bảo Bình 2, Bảo Liệt. Đồng bào đánh chuông nhà thờ, khua mõ, đốt lửa, dựng vật chướng ngại, trương băng cờ khẩu hiệu, phát loa tuyên truyền 10 chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Hàng trăm bà con các ấp Việt kiều ở Suối Cát nổi dậy lùng bắt tề vệ, cảnh sát. Du kích và đồng bào chia thành nhiều toán bao vây đồn, làm binh vận khiến địch hoảng loạn bỏ chạy, nhiều toán phòng vệ dân sự tan rã. Sau các trận chống càn thắng lợi từ cuối tháng 4 tới đầu tháng 5/1972, ta làm chủ phần lớn xã Bảo Bình. Quần chúng thừa dịp này bung ra nương rẫy sản xuất. Cơ sở mật dọc lộ 20 phát loa tuyên truyền chính sách của Mặt trận và thắng lợi của cách mạng. Chỉ trong 20 ngày, ta thu 8 triệu đồng do bà con ủng hộ, mặt khác một số thanh niên tự nguyện tham gia kháng chiến. Đêm 20/6/1972, mũi đấu tranh chính trị và binh vận khiến lính đồn Bảo Bình chạy về ấp Nam Hà. Chi bộ xã nhanh chóng xây dựng chính quyền nhân dân ấp Bảo Bình 1, kết nạp 2 đảng viên, tổ chức thêm 36 cơ sở, rút 6 thanh niên bổ sung cho đội du kích xã.

Ở tỉnh lỵ Long Khánh, liên tiếp hai ngày 19 và 20/4/1972 hàng trăm học sinh Long Khánh bãi khóa, treo khẩu hiệu chống Thiệu. Cảnh sát tới đàn áp, các em dùng gạch đá, bom xăng tự tạo chống trả làm nhiều cảnh sát bị thương.

1 giờ đêm 15/9/1972, du kích Bảo Vinh phối hợp với đội biệt động Long Khánh diệt đồn cầu Bốn thước trên đường xe lửa.

Những thắng lợi liên tiếp của quân dân huyện Xuân Lộc trong các đợt 1 và 2 chiến dịch Nguyễn Huệ đã phá tan âm mưu bình định, lấn chiếm vùng giải phóng của địch, phá vỡ kế hoạch khôi phục đoạn đường sắt Xuân Lộc - Gia Ray. Các ấp ven tỉnh lỵ và 6 xã điểm lộ 1 thành các ấp tranh chấp mạnh, ta làm chủ ban đêm.

Lính Mỹ và chư hầu rút khỏi địa bàn Long Thành - Nhơn Trạch, quân đội Sài Gòn phải bố trí lại lực lượng. Lính bảo an dàn mỏng trên trục lộ 15 và dọc sông Đồng Nai thay cho sư đoàn Báo đen (Thái) triệt thoái toàn bộ ngày 4/1/1972. Lực lượng thiếu hụt, địch tăng cường đôn quân bắt lính, tiến hành 450 cuộc càn cấp đại đội ở phía đông lộ 15 từ phía nam sông Buông, đường 15B, Cây Khô, suối Cả, cầu Vạt, suối Đá Vàng, cửa khẩu Bình Sơn cho tới Phước Thái.

Tuy nhiên tinh thần địch sa sút nặng vì bị tác động sau các thất bại ở chiến trường Campuchia, Lào, Bình Long, Quảng Trị … nên số lính bị đôn lên rất sợ phải đi xa ra trận. Nhiều gia đình bỏ tiền lo lót để chồng, con, anh em … vào sắc lính ở lại địa phương. Cán bộ ta tăng cường tuyên truyền giáo dục chính sách của Mặt trận cho quần chúng vì thế, số thanh niên trốn lính tăng nhanh. Họ sống bám ven các căn cứ ta theo kiểu bất hợp pháp được tương đối an toàn. Tại Tắc Trững (Phước Thái) - gần căn cứ sở chỉ huy Đoàn 10 - lúc đầu chỉ có một ít thanh niên trốn lính, lâu dần đông tới hàng trăm (kể cả số đào ngũ).

Lực lượng ta phục hồi dần từ giữa năm 1971 trở đi, du kích mỗi xã có vài anh em, đại đội mỗi huyện khoảng trên chục tay súng. Lương thực thực phẩm và thuốc men tuy vẫn khó khăn song giải quyết được có mức độ theo hẹn trước với cơ sở.

Ở Nhơn Trạch, cán bộ ta làm công tác tuyên truyền Mặt trận sâu rộng trong nhân dân nên đã rút được một số thanh niên Phú Mỹ, Mỹ Hội, Phước Thiền, Phước Thọ, Phước Khánh … tổ chức học chính trị, quân sự hình thành khung đại đội 241. Bốn thanh niên Đại Phước là Bầu, Chi, Sử, Hoàng đổi tên thành Lập, Trường, Chiến, Đấu. Số thanh niên Phước An, Phước Thọ… đổi tên thành Quyết, Tâm, Chiến, Đấu, Thắng, Lợi … để tránh địch khủng bố thân nhân. Một số nữ thanh niên cũng hăng hái tự nguyện đi theo cách mạng.

Từ khi thành lập xã Vĩnh Thanh (1957), cán bộ ta chưa xây dựng được cơ sở ở xã công giáo toàn tòng này do địch lừa mị, khống chế, kềm kẹp bà con rất chặt. Đồng chí Hai Duyên - đội trưởng đội công tác di cư của huyện - ăn mặc như người làm củi, ém nhiều ngày ngoài rừng mới gặp ông Tư Luân đi phát chồi. Hai bên trò chuyện, thăm hỏi quê quán, đời sống gia đình … Qua nhiều lần tiếp xúc, anh Hai Duyên hiểu nỗi băn khoăn của ông Tư - cũng như các đồng bào công giáo khác - do bị địch tuyên truyền xuyên tạc từ lâu, không khác tâm trạng bà con công giáo di cư ở Hố Nai, Gia Kiệm… Ông Tư Luân ngày càng hiểu cán bộ Mặt trận dân tộc giải phóng không có gì đáng sợ. Anh Hai bàn với anh em trong đội: đi cắt tranh, chặt cây đem tới từng rẫy, thông qua ông Tư cho bà con biết: tranh, cây là của “mấy chú giải phóng” giúp đồng bào cất chòi. Biết nhiều gia đình thiếu củi đun mùa mưa, anh em hướng dẫn và bảo vệ bà con vào sâu trong rừng lấy củi. Tiếng lành đồn xa, sau đó khoảng ba chục gia đình ấp Thiết Nham vào cất chòi làm rẫy. Nhiều người cho anh em bình toong, dây lưng Mỹ, lương thực thực phẩm… Dần dần đội công tác di cư Nhơn Trạch bám được vào ấp Thiết Nham, rồi vươn ra các ấp Đại Điền, Đại Thanh. Anh em tiếp xúc với hơn 80 gia đình có cảm tình với Mặt trận, bà con đóng đảm phụ, gửi ra 40 ngàn đồng. Ba thanh niên công giáo: Tuyển, Thành, Lập xin gia nhập cách mạng. Ta chọc thủng được một mắt xích vành đai kiên cố của địch, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp giải phóng miền Nam.

Ở các xã địch khống chế chặt như Phú Thạnh, Phước Kiểng, Phước Lai, Tam Phước… thì Huyện ủy tăng cường cán bộ giúp xã củng cố và xây dựng cơ sở. Chi bộ mật xã Tam Phước được thành lập. Ở Long An, chi bộ tổ chức cuộc họp gần 200 người bầu ra Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã. Chi bộ, Mặt trận và chính quyền lâm thời vận động nhân dân xã ủng hộ cách mạng nhiều mặt: bán lúa, đóng góp đảm phụ, rút thanh niên đi bộ đội và du kích …

Nhờ kịp thời chuyển hướng, toàn huyện rút được gần 300 thanh niên bổ sung cho lực lượng du kích các xã và bộ đội huyện.

Du kích các xã Bình Sơn, Phú Thạnh, Phước Thiền, Tam An tiến hành cảnh cáo trừng trị nhiều tên tề xã ấp ác ôn, tuyên truyền phá rã ba đội phòng vệ dân sự. Đáng chú ý là việc diệt tên Thêm - làm thám báo từ năm 1959 - ở ấp Tân Mai 2 ngày 16/5/1972 làm bọn tề xã và lính bót Phước Tân co lại, không dám hoạt động. Nắm thời cơ, cán bộ xã đột ấp tổ chức mít tinh hai đêm 17 và 18, có gần 200 đồng bào tham dự, vạch rõ tội ác của Thêm. Bà con ủng hộ 13 ngàn đồng. Sáng 19/5, gần hai chục gia đình đi gặp hội đồng xã đòi cho họ được làm ăn trên ruộng đất của mình.

Cuối tháng 7/1972, trung đoàn 4 chủ lực về đứng chân ở Bình Sơn, nhiệm vụ chính là căng kéo chủ lực địch tạo điều kiện cho các đơn vị khác đánh dứt điểm chi khu Đức Thạnh, tiêu diệt một bộ phận lớn lính bảo an Long Thành rồi chuyển về Nhơn Trạch cùng lực lượng võ trang địa phương[137].

Phối hợp với trung đoàn 4 và bộ đội huyện Long Thành, rạng 13/8/1972, một đơn vị của trung đoàn 113 đặc công đánh tổng kho Long Bình. Sáng cùng ngày, kho bom Thành Tuy Hạ cũng bị đánh. Hai đồng chí Quyết và Hòa đã điều nghiên hơn ba tháng liền mới đánh tiếp trận thứ nhì này; cả hai đều được thưởng huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.

Ở Phước Long, Phước Thọ, Phước Thái, công tác tuyên truyền binh vận được đẩy mạnh qua chính sách 10 điểm của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; kết hợp diệt ác đúng đối tượng cần diệt, đã có tác dụng lớn trong việc hạn chế ác ôn của địch, nâng thế làm chủ của quần chúng[138].

83 công nhân cao su sở Hội tổ chức mít tinh ngay tại lô nhà thờ Phú Hội, tố cáo tội ác của địch, đồng thời đòi chủ sở cho công nhân tự do làm ăn, gặp gỡ nhau trò chuyện. Chủ sở cho tay chân đi báo lính quận vào đàn áp, song lọt vào vòng phục kích của đại đội 240, làm địch thiệt hại nặng. Sau trận đánh, cơ sở nòng cốt đã gặp gia đình binh sĩ vận động chồng, con, em bỏ ngũ. Cơ sở còn gửi hàng trăm gói quà có thư. Cơ sở và quần chúng treo, dán, rải hàng chục ngàn truyền đơn, khẩu hiệu khắp nơi. Công tác binh vận có kết quả, địch ít lùng sục. Bà con có điều kiện bung về vườn, ruộng cũ làm ăn.

Nhiều làng ấp, nhân dân bị địch gom vào ấp, hoặc phải ra vùng tạm chiếm, nay trước thế làm chủ của cách mạng lần lượt trở về vùng giải phóng, du kích làm ăn[139]. Với sự hỗ trợ của nhân dân, hoạt động của lực lượng cách mạng mở rộng, quan hệ trong - ngoài khắng khít, ta không lo vấn đề lương thực thực phẩm nữa. Bảo vệ quần chúng, hỗ trợ bà con đấu tranh với địch, du kích và lực lượng võ trang huyện trừng trị nhiều tên ác ôn, gián điệp, mật báo, phá rã 4 đội phòng vệ dân sự Phước Thọ, Phú Mỹ, Phước Lai, Đại Phước …

Như vậy, qua hơn ba tháng tiến công hai chân ba mũi, ta diệt nhiều sinh lực địch, chuyển được mảng, chuyển được thế và lực, bước đầu mở ra cục diện mới ở địa phương.

IV.3. Mặt trận Dân tộc giải phóng vận động vào đợt “chồm lên chiếm lĩnh”

Ngày 30/8/1972, Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị 08/CT “Gấp rút xây dựng, phát triển và bố trí lực lượng chính trị thành thế chiến lược vững mạnh, kịp thời đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trước mắt”. Trung ương Cục quyết định giải thể các phân khu, lập lại khu miền Đông, các tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa-Long Khánh.

Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa đề ra nhiệm vụ trong tình hình mới: “Phát huy thắng lợi đã giành được, tập trung sức tấn công địch chống càn quét lấn chiếm, bung mạnh ra vùng yếu, vùng tranh chấp, kêt hợp chặt chẽ ba mặt vũ trang, chính trị, binh vận, phát động quần chúng trấn áp bọn phản cách mạng, diệt ác phá kìm tạo điều kiện cho dân bung ra sản xuất làm ăn, bao vây lấn địch giành quyền làm chủ xã ấp, tạo thế tạo lực mạnh mẽ chuẩn bị “chồm lên tấn công địch mở rộng vùng khi có giải pháp chính trị, đồng thời cùng với toàn Miền đánh bại âm mưu ngoan cố của địch kéo dài chiến tranh[140]

Ba tháng trước khi hiệp định Paris ký kết, Mỹ đã gấp rút viện trợ khối lượng khổng lồ trang bị gồm: 300 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép, nhiều tàu chiến, trên 2 triệu tấn thiết bị chiến tranh, giúp chính quyền và quân đội Sài Gòn tiếp tục chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh.

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Cục tạo thắng lợi quân sự hỗ trợ cho cuộc đấu tranh ngoại giao, ta đồng loạt mở cuộc tiến công toàn diện ở Biên Hòa, Long Khánh từ đêm 24 rạng sáng 25/10/1972.

Đêm 24, du kích các xã Tam An, An Lợi, Phước Nguyên (huyện Long Thành) được bộ đội huyện hỗ trợ đã vận động nhân dân nổi trống mõ uy hiếp tề vệ, làm chủ các ấp. Cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được treo ở nhiều địa điểm thuộc các xã Long An, Long Phước, Phước Thái, Tam An, Phước Nguyên… Trên lộ 15 từ cầu Hươu đến Thái Thiện (xã Phước Thái), cán bộ Mặt trận vận động hàng trăm quần chúng đắp mô, chặt cây làm vật chướng ngại cản đường. Tiếng loa binh vận vang lên hướng vào nhiều đồn bót. Ở các đồn điền cao su Bình Sơn, An Viễn, công nhân liên tục đấu tranh với xã và quận, đòi chúng không bắn pháo vào lô cao su, bỏ lệ khám xét khi bà con đi làm ngoài lô, cho mọi người mang cơm ăn trưa… Địch phải chấp nhận những đòi hỏi này, công nhân tự do đi sớm về trễ, càng có điều kiện quan hệ chặt chẽ với cách mạng. Bộ đội chủ lực đã tổ chức đánh địch hỗ trợ phong trào quần chúng có hiệu quả[141].

Ở Nhơn Trạch, cán bộ Mặt trận vận động hàng trăm quần chúng tiếp tế cơm nước, tham gia đào hầm, làm công sự giúp bộ đội trung đoàn 4 cùng bộ đội huyện và du kích đồng loạt đánh các ấp chiến lược thuộc các xã Phú Mỹ, Phú Hội, Phước Lai, Phước Kiểng, Phước Thiền, phá sập cầu Phước Thiền. Địch phản kích ác liệt, cho máy bay khu trục, trực thăng và pháo bắn phá ném bom bừa bãi các ấp Cầu Sắt, Đất Mới (Phú Mỹ), Bến Cam (Phước Thiền), Mỹ  Khoan (Phước Kiểng), ấp B (Phước Lai) phá hủy hơn 450 ngôi nhà, hơn 3000 giạ lúa cháy, 6 người chết… Bọn lính thừa cơ xúc lúa, bắt heo gà, lấy tài sản (máy may, máy truyền hình) của dân.

Đêm 12/11/1972, các chiến sĩ đặc công Rừng Sác đánh kho Thành Tuy Hạ, phá hủy khoảng 50 ngàn tấn bom đạn. Một tháng sau, đêm 12/12, các chiến sĩ bộ đội huyện và đặc công đánh tiếp trận nữa, phá hủy 80% kho bom Thành Tuy Hạ, tiếng nổ kéo dài hai ngày đêm, làm rung chuyển cả vùng rộng lớn. Trận đánh này có tiếng vang rất lớn cả trong và ngoài nước, gây phấn khởi lớn cho nhân dân quanh vùng.

Ở hướng quốc lộ 1, đêm 3/10, đại đội 9 pháo của trung đoàn 33 bắn 3 tên lửa H.12 vào đồn Sông Thao, phá sập cống Hưng Nghĩa. Đại đội 24 đặc công của trung đoàn 33 tập kích diệt đồn Hưng Lộc. Tiểu đoàn 9 trung đoàn 33 yểm trợ bộ đội huyện và du kích giải phóng hai ấp Sông Thao và Bàu Hàm (xã Bàu Hàm). Chi bộ xã lãnh đạo cơ sở và du kích truy lùng số tề vệ ác ôn; phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá rã các đội phòng vệ dân sự, đặt vật chướng ngại trên lộ. Địch từ tiểu khu Long Khánh chiếm lại các địa bàn bị mất. Trận đánh diễn ra quyết liệt[142]. Du kích các xã Bàu Hàm 1, Bàu Hàm 2, Trảng Bom 1, Trảng Bom 2 được cơ sở dẫn đường đã đột ấp bắt sống 24 tề vệ, đưa về căn cứ giáo dục, số này hứa lúc trở về không làm việc cho địch.

Chiến thắng tác động mạnh đến nhiều thanh niên. Xã Hưng Lộc rút được 30 người (có 10 nữ), Bàu Hàm 1 rút được 10 nữ tân binh, Bàu Hàm 2 được 10 tân binh (có 5 nữ), Trảng Bom 1 rút được 30 người, Trảng Bom 2 rút 15 người (có 5 nữ). Liên tục hai tháng 11 và 12/1972, trung đoàn 33 khống chế quốc lộ 1 từ Hưng Nghiã đến Bàu Hàm. Chính quyền địch ở các xã rệu rã, cơ sở ta rải nhiều truyền đơn công bố chính sách 10 điểm của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ở nhiều nơi. Công tác binh vận song song với đấu tranh chính trị và quân sự tác động mạnh; ở Bàu Cá đêm 11/12, cơ sở ta vừa tung tin bộ đội chuẩn bị tiến công đã làm 32 tên phòng vệ dân sự trốn chạy. Quần chúng thừa cơ mạnh dạn bung ra sản xuất, tiếp xúc với cán bộ ta. Tại xã Bàu Hàm, hàng ngàn đồng bào Nùng kéo về hội đồng xã mang băng khẩu hiệu lên án địch bắn pháo vào ấp, vào rẫy làm chết dân, thiệt hại nhiều hoa màu. Bà con đòi chúng ngưng bắn pháo, bồi thường mọi thiệt hại. Chúng phải làm đúng đòi hỏi của dân, để mọi người tự do đi rẫy chăm sóc hay thu hoạch hoa màu.

Tại xã Hố Nai, đội công tác di cư bám được khu Đồng Lách, Sông Mây, Bùi Chu, Bắc Hòa, Tân Hòa… giúp bà con thu hoạch hoa màu khiến sự nghi ngại đối với cách mạng giảm nhiều. Đến tháng 12/1972, anh em xây dựng được 35 cơ sở quần chúng trong đó có 10 cơ sở an ninh mật. Ở khu vực Gia Kiệm, ta tăng cường vũ trang tuyên truyền trên lộ 20 bằng truyền đơn, bám rẫy vận động quần chúng, thuyết phục được hàng chục bà con ra ở lại rẫy ban đêm bảo vệ mùa màng, từ đó cán bộ ta nhờ mua lương thực thực phẩm, thuốc men dễ dàng.

Ở Long Khánh, đêm 24 rạng 25/10/1972, bộ đội huyện, du kích xã vận động hàng trăm đồng bào phục vụ đào hầm, làm công sự chiến đấu, gỡ băng cờ địch, treo băng cờ Mặt trận giải phóng… Mũi tiến công binh vận kết hợp vũ trang đã bức rút các đồn bót Bảo Bình 2, Bảo Bình 3, Bảo Chánh, Bảo Vinh A, Bảo Vinh B, Bình Lộc, Trung Lương, Suối Cát, Cẩm Mỹ. Đến tháng 11, bằng các mũi chính trị, binh vận kết hợp vũ trang, ta giải phóng 4 ấp: Bảo Bình 1, Bảo Bình 2, Bình Lộc, Bảo Vinh. Huyện ủy chỉ đạo các chi bộ thông qua các cơ sở vận động hơn 8000 đồng bào Bình Phú, Suối Cát, Bình Lộc, Bảo Bình bung về ruộng vườn cũ, mở rộng thêm 300 ha đồng thời tổ chức lực lượng du kích bảo vệ các ấp giải phóng. Tại vùng cao su, du kích tiến hành diệt ác phá kềm, mở thế hoạt động trên tuyến dài từ Dầu Giây, Hàng Gòn tới Tân Lập, Cẩm Mỹ.

Những hoạt động của phong trào đấu tranh của quân dân Biên Hòa, Long Khánh đã góp phần cùng toàn Miền hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh ngoại giao ở Paris.

Đầu tháng 1/1973, địch ráo riết chuẩn bị chiến dịch tràn ngập lãnh thổ. Chúng tăng cường lực lượng phòng thủ các hướng quốc lộ 1, 15, 20. Tiểu đoàn 437 bảo an đóng ở Trảng Bom; tiểu đoàn 343 đóng rải từ Bàu Cá lên ấp Nguyễn Thái Học; tiểu đoàn bảo an 350 đóng ở Kiệm Tân. Ngày 25 và 26/1/1973, 1 đại đội bảo an tăng cường đóng ba chốt: sở Thú y, đường sắt, ấp Sông Thao. Chúng gài mìn quanh các ấp, kiểm tra gắt dân ra vào ấp, cấm không ai ra rẫy từ ngày 28/1. Bên trong, tề vệ, cảnh sát, bình định nông thôn bắt dân mua các khẩu hiệu chống cách mạng treo ở cửa nhà, sơn cờ quốc gia lên nóc nhà, vẽ ở cửa …

Từ đêm 26/1 trở đi các lực lượng vũ trang trên địa bàn liên tục tấn công địch, bảo vệ vùng giải phóng và làm chủ. Cán bộ Mặt trận vượt qua bom pháo địch phát động quần chúng nổi dậy, diệt ác ôn, xuống đường hoan hô thắng lợi của Hiệp định, đồng thời đấu tranh tố cáo tội ác địch. Ta làm chủ ấp Hưng Nghĩa, cơ sở mật rải truyền đơn, treo băng khẩu hiệu hoan hô thắng lợi của quân dân cả nước, hoan nghênh hiệp định Paris. Tại Bàu Hàm, cán bộ Mặt trận vận động hơn 100 bà con ra phản đối pháo và máy bay ngụy tàn hại nhân dân. Bà con chất vấn: Hòa bình rồi sao mấy ông không thi hành, lại dùng máy bay và pháo gây thiệt hại thế này, làm sao dân ăn Tết? Chi bộ mật tổ chức tản cư ngược, bà con từ trong sâu kéo ra hù dọa lính khiến 1 đại đội bảo an rút ra.

Tại Bàu Hàm 2, khi tiếng súng nổ, cơ sở đã vận động đông đảo bà con xóa cờ ba sọc ở cửa và trên nóc nhà. Năm chục gia đình tình nguyện nấu cơm cho bộ đội; nhân dân ấp Nguyễn Thái Học gói bánh tét và tặng 2 thùng mì ăn liền cho các chiến sĩ. 6 gia đình ủng hộ gỗ ván cho bộ đội làm công sự, 2 thiếu nhi dẫn bộ đội đi thu 2 súng của phòng vệ dân sự quăng khi chạy trốn. Sau đó Huyện ủy chỉ đạo các chi bộ xã và cán bộ Mặt trận vận động cơ sở, nòng cốt đấu tranh đòi địch bồi thường thiệt hại do bom pháo địch gây ra. Địch phải cho nhân viên đi từng nhà ghi chép và bồi thường cho dân[143].

Theo chỉ thị của Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện uỷ Vĩnh Cửu chỉ đạo các chi bộ vận động quần chúng tích cực chuẩn bị lương thực thực phẩm, băng cờ Mặt trận, khẩu hiệu và chuyển vũ khí để vào đợt chồm lên chiếm lĩnh. Lực lượng vũ trang cùng đặc công 113 tiến công địch ở Thiện Tân, Tân Định. Lực lượng ta ít, bám công sự chống trả trong khi chi bộ huy động dân tản cư ngược tung tin hù dọa: Quân giải phóng đông lắm … Mấy ổng về đầy ấp, đào hầm trong đó …. Địch phản kích ác liệt.

Ở vùng 2 và 3 của huyện, đội công tác cơ sở cùng du kích bám trụ liên tục đột ấp tuyên truyền thắng lợi của hiệp định Paris, chiến thắng ở các nơi khác trong tỉnh. Bà con vùng sâu, vùng xa vui mừng được gặp lại cán bộ, góp gần 700 giạ lúa ủng hộ giải phóng.

Ở Long Thành, ta vào đợt từ đêm 17/1/1973. Lực lượng ta nổ súng đồng loạt vào các ấp tân sinh, đánh nhiều đồn bót. Phản ứng lại, địch bắn pháo, cho máy bay ném bom hủy diệt các xã Phước Nguyên, Lộc An, ấp Bà Ký (xã Long Phước). Từ ngày 23 đến 25/1, máy bay địch rải bom Vũng Gấm, Bàu Bông (Phước An) đến Đồng Lớn (Phước Thọ). Trận đánh phản kích diễn ra ác liệt ở khu vực Cầu Xéo, nhưng các cơ sở và đông đảo bà con toàn huyện cắm cờ Mặt trận dân tộc giải phóng ven rừng, ngoài ruộng, trong các thôn xóm.

Chiều 29/1, pháo từ các cụm Long Thành, Phước Hòa, Bến Sắn nã dồn dập 3000 trái đạn. Sau đó máy bay ném bom hủy diệt 80% nhà cửa ở bốn xã, làm 8 người dân thiệt mạng, nhiều người bị thương, bà con phải chạy dạt ra ruộng.

Lính bót Hàng Dương càn vào ấp Bà Ký (Long Phước), mỗi tên mang theo hàng chục cờ giấy. Trên đường đi, phát hiện cờ Mặt trận cắm trên cây sao cao, viên trung Út trưởng đồn bắt lính leo lên gỡ. Lựu đạn nổ, 1 lính chết, 3 bị thương, du kích từ trong ấp bắn ra, chúng bỏ không vào ấp.

Tại Phước An, một lá cờ Mặt trận lớn treo trên cây cám cách bót Gò Cát 1 km. Viên trưởng đồn sai lính đi gỡ thì 1 phát súng từ phía chợ vang lên, viên đạn xẹt đầu tên lính. Y tụt xuống, bỏ chạy. Một tuần sau, máy bay trực thăng mới tới gỡ lá cờ.

Trong lúc đó, quân dân Long Thành, Nhơn Trạch vui mừng chuẩn bị đón tết Quí Sửu cổ truyền. Đồng bào bung về ruộng vườn cũ sản xuất, tự do đi lại thăm hỏi, gây phong trào đấu tranh dư luận rộng rãi: Mỹ thua phải ký hiệp định, Thiệu tuy ngoan cố nhưng rồi cũng thua, cách mạng nhất định thắng.

Ở khu kỹ nghệ Biên Hòa, ta ém một số đồng chí trong đội biệt động thị xã tại hầm bí mật nhà cơ sở Tôn Văn Điểu. Đêm 26/1/1973, được nội tuyến trong phòng vệ dân sự ấp An Hảo bảo vệ, biệt động tấn công diệt hai tên, trung đội nhân dân tự vệ bị thương hầu hết.

Trong đêm 27/1, cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được treo ở nhiều địa điểm trong nội ô. Cơ sở mật rải truyền đơn, dán khẩu hiệu đòi Mỹ rút quân, Thiệu phải từ chức. Cơ sở làm công tác binh vận tuyên truyền binh sĩ bỏ ngũ về với gia đình vì hoà bình rồi đi lính chết uổng mạng. Những hoạt động này khơi dậy tinh thần dân tộc, lòng yêu chuộng hòa bình của các tầng lớp, nhất là công nhân, học sinh, chị em buôn bán nhỏ …

Tại khu vực hóc Bà Thức - Trảng Dài, nhiều cơ sở - trong đó ông giáo Li (Nguyễn Văn Li) đi đầu - đấu tranh quyết liệt với địch ở căn cứ thiết giáp và một số thế lực khác để bung ra khai phá đất Trảng Dài bỏ hoang hóa. Sau hàng năm giằng co, được một số dân biểu hội đồng tỉnh Biên Hòa ủng hộ, bà con giành thắng lợi. Hàng trăm mẫu đất được cày xới, trồng trọt, biến đất rừng hoang hóa thành vườn ruộng xanh tươi. Ông Li qua đời, nhân dân tôn vinh ông là bậc hậu hiền khai canh.

Do tương quan lực lượng chênh lệch, ta giành nhiều thắng lợi trong đợt chồm lên chiếm lĩnh nhiều địa bàn. Nhưng địch dốc toàn lực phản kích, đã lấn chiếm nhiều vùng ta làm chủ. Tuy hiệp định Paris đã ký kết, Mỹ rút hết quân vào ngày 29/3/1973 nhưng hòa bình chưa thực sự lập lại ở Biên Hòa, Long Khánh cũng như trên toàn lãnh thổ miền Nam.

V. ĐẢNG BỘ, MẶT TRẬN VÀ QUÂN DÂN HAI TỈNH BIÊN HÒA, LONG KHÁNH TẠO THẾ, TẠO LỰC, TIẾN LÊN GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG (từ tháng 1/1973 đến cuối năm 1974)

V.1. Trừng trị địch vi phạm hiệp định Paris

Sau khi hiệp định Paris được ký kết, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi: Cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở  miền Nam còn phải vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại. Những thế lực quân phiệt, phát xít, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới, đi ngược lại nguyện vọng của dân tộc ta vẫn chưa từ bỏ âm mưu phá hoại hòa bình, ngăn trở con đường độc lập, tự do của nhân dân ta …[144]

Trên chiến trường hai tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, địch tập trung lực lượng chiến đoàn 43 ở lộ 1, chiến đoàn 48 ở Long Thành - Nhơn Trạch, trung đoàn thiết giáp ở lộ 20 kết hợp một bộ phận thiết đoàn 5, phi pháo, lực lượng bảo an dân vệ các tiểu khu Biên Hòa, Long Khánh giữ các trục lộ 1, 15, 20, phản kích lấn chiếm các vùng của ta, mặt khác giúp tề xã, ấp đẩy mạnh công tác bình định nông thôn. Chúng lấn chiếm vùng giải phóng, ủi phá rừng xóa địa hình ta ở Đại An, Tân Định, Thiện Tân (huyện Vĩnh Cửu), Hưng Lộc, Bàu Hàm (huyện Trảng Bom), lòng chảo Nhơn Trạch, Đông -Tây quốc lộ 15 (huyện Long Thành), Đông - Tây lộ 2 (Xuân Lộc), lấn chiếm vùng ta làm chủ trước đó.

Ở Long Thành, địch dự tính lập trung tâm cộng đồng phát triển ở Phước Nguyên, Long An, Long Phước (Long Thành), Phước Long, Phước Lai, Vũng Gấm (Nhơn Trạch) để thực hiện bình định tái thiết, mị dân qua việc giúp một số dân sửa nhà, đào giếng, làm vệ sinh, cho vay tiền mua máy cày, máy xới, giống mới, phân bón … Dưới danh nghĩa lập trang trại, lập khu định cư, địch cho tay chân ủi phá rừng theo kiểu tằm ăn rỗi. Từ ngày 10/5/1973, 20 máy ủi do bọn chủ thầu Sài Gòn đưa về bắt đầu hoạt động, có 2 đại đội bảo an hộ tống. Trung bình mỗi ngày chúng ủi phá 20 ha rừng.

Hơn 100 hộ dân xứ Quảng chạy giạt vào đây hồi mùa hè 1972 được chúng cho ở khu định cư mới tháng 4/1973, ít lâu sau thành xã Tân Hiệp. Ở xã Phước Thái, chúng lập làng cán phế rộng 263 mẫu tại Gò Dầu về danh nghĩa cho thương phế binh có nơi làm ăn sinh sống, nhưng chỉ riêng viên thiếu tá Toàn đã chiếm 186 mẫu bán dần cho những người khác. Hầu như không có thương phế binh nào về đây! Ở ấp 2 Phước Thái, chúng lập nông trường Bình Minh dự trù xây gần 100 căn nhà, đưa trại cùi Định Quán về. Dọc đường cầu Vạt - trảng Xiêm, chúng ủi phá 800 mẫu, đưa 90 gia đình đến định cư. Ở Long Phước, Long An, Lộc An, Tam Phước, Phước Tân, sở Đờ-la (Delage cũ), khu vực lộ 25… đều có việc ủi phá rừng, nơi ít thì vài chục mẫu, nơi 500 mẫu, nơi 700 mẫu. Phần lớn kế hoạch ủi phá rừng có sự trợ giúp tích cực của địch (vốn, lính, cảnh sát, cán bộ bình định nông thôn… ). Địch bỏ ra khoản tiền lớn để thực hiện một kế hoạch lâu dài, qui mô nhằm mục tiêu từng bước triệt phá căn cứ cách mạng. Bọn quan chức tỉnh, quận và số tư sản đứng ra thực hiện kiếm chác những món tiền lớn, nhưng đẩy người lao động nghèo vào thế đứng mũi chịu sào, trực tiếp đương đầu với cán bộ ta khi chúng ta có lệnh cấm.

Đối phó với kế hoạch nham hiểm của địch, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo bộ đội mở phong trào phá xe ủi. Từ 15/5 đến 30/5, anh em phá 47 xe ủi, diệt 2 trung đội lính bảo vệ. Kế hoạch phá địa hình của địch chựng lại.

Bên trong ấp, địch tăng cường hoạt động kìm kẹp, tình báo, tâm lý chiến, chỉ điểm để đánh phá phong trào[145]. Các chi bộ đảng chỉ đạo du kích tăng cường hoạt động để hạn chế ác ôn của địch, cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân[146].

Trong lúc chiến sự ngày càng ác liệt thì sáng 13/6/1973, Hai Tấn - nguyên bí thư Huyện ủy Long Thành sống buông thả sa đọa thoái hóa biến chất - đầu hàng địch. Y dẫn địch phá rã 8 chi bộ mật, bắt 16 đảng viên, 113 cán bộ; dẫn địch phục kích đường vận chuyển, tiếp tế của ta gây thiệt hại nặng, khó khăn lớn cho phong trào cách mạng địa phương.

Địch liên tục mở những cuộc hành quân, kiểm soát giao thông, tăng cường bình định gây cho cách mạng nhiều khó khăn. Lực lượng vũ trang của ta có nhiều nổ lực đánh địch nhưng chưa thực sự vực dậy được phong trào[147].

Giữa tháng 10/1973, Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định cử đoàn cán bộ do đồng chí Mai Thị Liễu làm trưởng đoàn[148]. Yêu cầu đối với đoàn khá nặng nề:

- Tập trung sức giúp Đảng bộ xã Phước Thái đánh bọn bình định nông thôn, chống ủi phá địa hình, chống di dân, mặt khác ta lập tuyến dân cư ở phía Đông quốc lộ 15 thuộc ấp Phước Hòa.

- Phát động nhân dân xây dựng một xã giải phóng hoàn chỉnh có dân cư, có các tổ chức quần chúng, có chánh quyền cách mạng, có chi bộ Đảng lãnh đạo nhân dân vừa sản xuất vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ xóm làng ở khu vực Chòi Đồng.

Đầu tháng 11/1973, chi bộ, Mặt trận tổ chức cho cán bộ các đoàn thể nông hội, phụ nữ, du kích xã học tập quán triệt nghị quyết của Tỉnh ủy. Cùng lúc, đơn vị bộ đội địa phương cùng du kích Phước Thái và du kích Long Phước dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Thắng (Tài) đeo bám, đánh lực lượng địch ủi phá rừng Bàu Năn, Bàu Cạn ấp Phước Hòa.

Đoàn cán bộ chỉ đạo của tỉnh cùng toàn Đảng bộ và phong trào nhân dân Phước Thái quyết tâm thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy về xây dựng làng mới ở khu vực Chòi Đồng. Tất cả cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên nông hội, phụ nữ, du kích vượt bao khó khăn gian khổ phát động và tổ chức chuyển dân từ vùng kềm về vùng căn cứ. Ta hướng dẫn bà con khai hoang, chuẩn bị giống má, kinh tài tỉnh xuất vốn cho vay… để dân ra đến đâu thì lúa, khoai mọc tới đó. Đồng thời, ta lo chuẩn bị đội ngũ cán bộ địa phương, hệ thống chánh trị được thiết lập với chi bộ, chánh quyền cách mạng lâm thời, xã đội và các đoàn thể quần chúng. Trường học, trạm y tế cũng được xây dựng cùng lúc, tuy còn đơn sơ.

Sau một năm, xã mới Hòa Bình hình thành với 192 hộ, gồm trên 300 nhân khẩu, đáng chú ý có 69 hộ đồng bào Ch’ro. Xã có chi bộ, Ủy ban nhân dân cách mạng …, mở trường học thu hút khoảng 70 cháu, lập trạm y tế do hai nữ đồng chí Ba Bờ, Tám Năng phụ trách.

Nhân dân khai hoang trên 300 ha, vụ đầu trúng làm bà con rất vui. Ban kinh tài tỉnh cho vay 5 triệu đồng làm vụ mùa 1974, nhờ vậy bà con có vốn mua phân, mua giống làm mùa, bớt chật vật. Mô hình xã giải phóng [149] được Tỉnh ủy chuẩn bị nhân rộng ra các địa phương khác trong toàn tỉnh.

Giữa tháng 1/1974, địch đưa 80 gia đình từ Hố Nai về Vũng Gấm làm nhà, phá hoang lấn chiếm đất đai. Ở gần ngã ba Phước Thiền, địch dồn sức xây dựng trung tâm cộng đồng phát triển xã, cử 1 trung úy làm chủ tịch hội đồng xã, 1 thiếu úy làm trưởng ấp. Chúng củng cố trung tâm cộng đồng phát triển Phước Hòa. Ấp Quán Tre (Long An), ấp Hiền Hòa (Phước Thái) được xây dựng thành ấp kiểu mẫu. Từ tháng 2/1974, địch ủi lại rừng giồng ở khu vực lòng chảo, bắt lập lại sổ gia đình có chụp hình từng người, đôn dân vệ lên lính bảo an để đẩy ra trận và lập vành đai Nhơn Trạch - Quảng Xuyên. Hàng trăm phụ nữ bị buộc vào phòng vệ dân sự canh gác ban đêm: xã Phước Thiền có 32 chị, xã Phước Thọ 27 chị.

Đối phó với âm mưu thủ đoạn của chúng, Huyện ủy Long Thành - Nhơn Trạch chỉ đạo tiếp tục chống bình định lấn chiếm, bảo vệ rừng, tạo thế liên hoàn vài ba xã một ở vùng lòng chảo, vùng ven lộ 15, lõm bàn đạp ở Long Điền, Tam An, xây dựng xã mới Cẩm Đường, mở đường vận chuyển theo đường 10 ra Bình Sơn, cắt qua Long Phước về Phước Thái đi Bà Rịa.

Ngày 26/1/1974, chị Hai Ốm là cơ sở mật ở Long Phước dẫn đường cho du kích xã phục kích gần quán cà phê Năm Nê diệt tên Triệu ác ôn gây nhiều tội ác với nhân dân Phước Thái. Đêm 5/3, anh Nguyễn Văn Đen là nòng cốt gài trong dân vệ xã Phước Thiền đã diệt Mười Chử - trưởng ấp Bến Sắn - trên đường đi diều tra 13 gia đình có liên hệ với cách mạng ở ấp Bến Cam. Y chỉ bị thương nặng không chết nhưng làm cho đồng bọn hoảng sợ và đồng bào Phước Thiền hả dạ.

Một số dân vệ xã Phước Thọ bị tác động do công tác binh vận đã bỏ trốn. Xã Phước Lai xây dựng cộng đồng tái thiết kiểu mẫu, đưa dân từ Hố Nai lên định cư. Ta kết hợp vũ trang và binh vận thắng lợi, 80 gia đình dân Hố Nai về Vũng Gấm sáu tháng, thì 64 gia đình bỏ trốn, địch bắt giam một số.

8 giờ tối 7/5/1974, tên Tám Tho chỉ huy bọn thám sát phục kich ở lô 1 sở cao su Tân Tường. Khoảng 10 ông già và trẻ em hai ấp Bình Phú và Vĩnh Tuy (xã Long Tân) đi soi cá, bắt ếch nhái. Chúng biết rõ đó là dân thường song vẫn cho nổ 6 trái mìn định hướng Claymore làm chết 6, bị thương nặng 3, còn 1 chúng bắt về đồn tra tấn, cướp 1 đồng hồ và 300 đồng. Cán bộ Mặt trận nhanh chóng vận động 500 bà con Long Tân kéo về quận lỵ Nhơn Trạch tố cáo tội ác của bọn Tám Tho. Viên quận trưởng xuống hiện trường thấy rõ em nhỏ, ông già chết đau thương, phải năn nỉ dân: Bọn lính đánh nhầm, chúng tôi xin bồi thường nhân mạng. Ngày 15/5, 20 thân nhân những người bị hại đi xe về Biên Hòa tiếp tục đấu tranh tố cáo tội ác của địch. 

Ngày 14/7, Nguyễn Văn Thiệu tổ chức bầu cử. Huyện ủy chỉ đạo các xã tích cực phá trò hề này. Dân Phước Tân, Tam Phước làm hình nộm Thiệu kèm truyền đơn tố cáo tội ác làm tay sai của y. Du kích Tam An ném lựu đạn gần phòng bỏ phiếu; du kích và cơ sở các xã Long An, Long Phước cũng rải truyền đơn của Mặt trận kêu gọi nhân dân tẩy chay trò hề bầu cử độc diễn, ném lựu đạn, bắn vào nơi bầu cử tạo điều kiện cho dân lấy cớ mất an ninh không đi bầu. Ở Bình Sơn, từ 7 giờ sáng, bộ đội huyện phục kích bắn chết một cảnh sát, pháo kích vào đồn làm 2 tên bị thương. Cả ấp chỉ có 30/395 cử tri đi bỏ phiếu.

Ở Nhơn Trạch, nhân dân cũng chống bỏ phiếu bằng mọi cách: làm hình nộm, rải truyền đơn, gài chất nổ trước ngày bầu cử … Ở Phú Hội, địch đưa quân vào các xóm lùa dân đi bầu. Một số đồng bào nói: Ông Thiệu làm tổng thống gần chục năm rồi, không làm được gì; dân thì mỗi ngày mỗi khổ, hòa bình đâu không thấy, chỉ thấy chiến tranh ngày càng ác liệt ….

Nhìn lại hai năm 1973-1974, Mặt trận Dân tộc giải phóng vận động quân dân Long Thành - Nhơn Trạch nỗ lực rất lớn, vượt qua thử thách gay go gian nan mới và đã trụ vững. “Cây gậy thần” của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là bình định đã bị đánh gẫy. Được các lực lượng trên giúp, ta chống lấn chiếm, đánh phá bình định có kết quả, đưa phong trào lên một bước. Địch ở bờ vực sụp đổ.

Tại huyện Vĩnh Cửu, dọc lộ 24 trong đợt chồm lên chiếm lĩnh tháng 1/1973, địch ném bom, bắn pháo vào ấp Ông Hường (Thiện Tân) làm chết 4 người dân, 10 người bị thương, 75 căn nhà cháy đổ. Ở ấp số 7, 20 căn nhà bị thiêu hủy, dân bị thiệt hại nhiều tài sản (13 con bò, 4 con heo, 160 ngàn giạ lúa). Chi bộ chỉ đạo cơ sở, nòng cốt vận động nhân dân hai ấp làm kiến nghị đòi chính quyền bồi thường. Các bà các chị kéo lên chi khu Công Thanh buộc viên quận trưởng phải nhận đơn và đề đạt với tỉnh bồi thường cho dân. Mị dân, che giấu hành động vi phạm hiệp định, chúng bồi thường có tính tượng trưng mỗi căn nhà cháy đổ 2500 đồng. Sau thắng lợi, chi bộ lãnh đạo nòng cốt cơ sở vận động xây dựng các tổ đoàn kết tương trợ trong xóm ấp, giúp nhau làm lại 45 căn hư hại.

Huyện ủy phân công hầu hết cán bộ xuống xã tổ chức học tập tinh thần hiệp định Paris và chủ trương của huyện cho đảng viên ở các xã, ấp: Thiện Tân, Tân Phú, Lợi Hòa, Bình Ý, Tân Định, Đại An … từ đó mở rộng ra cơ sở và quần chúng nhân dân, tố cáo hành động vi phạm Hiệp định của địch.

Trong tháng 4, địch ủi rừng Gò Găng, Bùng Binh, Đồng Lách… Một mặt bộ đội ta gài mìn đánh xe, mặt khác đảng viên mật và nòng cốt trà trộn vào số dân do địch thuê mướn, giáo dục bà con không làm chết uổng mạng, binh vận tác động vào lính, khiến chúng bỏ ủi phá rừng. 

Ở vùng 2 và vùng 3, đội vũ trang tuyên truyền huyện cùng cán bộ Mặt trận vận động nhân dân bung về vườn ruộng cũ làm ăn. 63 gia đình ở Trị An bị gom xúc năm 1965 dựa vào pháp lý hiệp định, làm kiến nghị đòi địch cho về nơi cũ. 45 gia đình ở Bình Long, Tân Phú, Lợi Hòa, Bình Phước bung về làm 133 mẫu ruộng, riêng dân Bình Long cất 40 chòi ở ruộng. Đến cuối tháng 5/1973, 8 xã vùng yếu vùng sâu đều xây dựng được cơ sở và nòng cốt kiểu xâu chuỗi. Chi bộ Lợi Hòa phát triển được đảng viên mới. Chỉ còn 2 xã trắng là Tân Triều và Bình Hòa.

Huyện ủy chỉ thị các chi bộ đẩy mạnh tiến công binh vận thông qua gia đình binh sĩ để giải quyết quyền lợi của dân. Tổ phụ nữ Thiện Tân tranh thủ lính không soát xét chặt dân khi ra vào ấp. Lúc đi làm, chị em dùng hộp thư mật liên hệ với đầu mối của đoàn 113 đặc công. Ban đêm, chị em dùng đèn báo hiệu để cán bộ chiến sĩ đột ấp công tác. Ta tạo cho nhân dân bung ra sản xuất hợp pháp ở thế hai chân: gia đình ở vùng kềm nhưng làm ruộng rẫy ở vùng ta làm chủ. Dân Tân Định lên trồng tỉa tới 200 mẫu. Dọc Rạch Đông, nhiều người làm sa cá, cán bộ ta có điều kiện liên hệ dễ dàng.

Được sự giúp đỡ của Huyện ủy, Mặt trận, chi bộ và nhân dân Thiện Tân, tiểu đoàn 9 đặc công đã đào địa đạo Bùng Binh dài khoảng 150 mét, đủ chứa 300 chiến sĩ, có thể chống hơi ngạt, phía ngoài gài mìn bảo vệ chống càn. Trung đoàn đặc công 113 lập xưởng làm mìn, tích trữ 2 tấn thuốc nổ, khoảng 200 đạn B.40 và B.41 và 2 tấn lương thực. Chi bộ và cơ sở Thiện Tân nắm tình hình địch, bảo đảm thông tin kịp thời, thu mua lương thực và nhu yếu phẩm cho trung đoàn. Địch không thể càn vào, còn bom và pháo không tác dụng gì đối với địa đạo. Đêm 16/10/1974, cơ sở nội tuyến - là con trai nữ đồng chí Bí thư chi bộ mật Thiện Tân đưa tin, tiểu đoàn 9 đặc công đánh bót Cây Khô (Thiện Tân) diệt gọn đại đội bảo an đóng ở đây. Nhân dân Thiện Tân rất phấn khởi, số tề vệ xã, ấp đêm đêm trốn về chi khu Công Thanh hòng giữ mạng sống.

Để bảo vệ các trục lộ 1 và 20, bảo vệ an toàn các mục tiêu quan trọng ở tỉnh lỵ Biên Hòa, địch tăng cường lực lượng đóng nhiều chốt[150]. Chính quyền cơ sở địch được củng cố bằng cách quân sự hóa: sĩ quan cấp úy nắm giữ an ninh, số nhân viên kém hiệu lực bị sa thải. Đảng Dân chủ úp bộ mọi viên chức, xã trưởng làm chủ tịch xã bộ, các ấp trưởng làm chủ tịch ấp bộ. Ở vùng đồng bào công giáo di cư, chúng qui định tỉ lệ đảng viên dân chủ ít nhất từ 20% dân số trở lên. Thông qua tổ chức các hạt, xứ, họ đạo, địch nắm giáo dân và quản lý chặt địa bàn.

Tiếp tục ủi phá địa hình, địch đã phá 3700 mẫu ở hai bên quốc lộ 1. Riêng ở khu Trà Cổ, viên đại tá Kiệt ở Biên Hòa cùng thiếu tá Liễu ở Long Bình, một kỹ sư người Nhật thuê dân phá hơn 600 mẫu.

Sau đêm 28/1, trong vùng công giáo nhiều nơi đã tổ chức mừng Hiệp định Paris. Có 4 nhà thờ tổ chức lễ cầu ngưyện cho đất nước hòa bình dài lâu, hơn 8000 giáo dân tham dự. Tại nhà thờ Bùi Chu, linh mục Đoàn Kim Điện giảng: Các con ráng cầu xin cho được hòa bình, thống nhất để có cơ hội về thăm quê hương xứ sở … Ở nhà thờ Bắc Hoà, linh mục Nguyễn Văn Nghi nói: Các con ráng cầu xin cho hòa bình vĩnh cửu để trăm họ được an cư lạc nghiệp, để Nam Bắc được xích lại gần nhau …. Các linh mục Nguyễn Hồng Cẩm, Phạm Sĩ Khiêm … cũng có những phát biểu tương tự. Tư tưởng chán ghét chiến tranh phát triển trong binh sĩ Sài Gòn; có trung đội nghĩa quân bị đôn lên lính bảo an đã có 6 người đào ngũ: Bây giờ hòa bình rồi, tội gì chết uổng mạng!

Tỉnh ủy Biên Hòa đề ra nhiệm vụ của Đảng bộ, các đội công tác, cán bộ chiến sĩ hoạt động ở vùng này: nắm âm mưu của địch đối với phe phái, tôn giáo trong tình hình hiện nay, đi đôi bám quần chúng, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, đời sống bức bách của quần chúng di cư kết hợp chặt khẩu hiệu trung tâm, chính sách 10 điểm của Mặt trận và Chính phủ, giáo dục thắng lợi của ta, thất bại của địch gắn với quyền lợi bức bách hàng ngày, vận động hướng dẫn đoàn kết, tương trợ chia xẻ lẫn nhau trong sản xuất …(đối với đồng bào bung ra khai hoang) phải giáo dục theo qui định và luật lệ của chính quyền cách mạng, liên tục hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi công ăn việc làm, bung ra sản xuất phải đi đôi chống địch bung ra phá rừng, chống bắt lính và từng bước đưa phong trào chống bắt lính đi vào chiều hướng có lợi cho cách mạng. [151]

Hai đội công tác di cư ở Hố Nai, Gia Kiệm được củng cố và tăng cường thêm 7 cán bộ. Anh em bám xã, ấp - nhất là các khu vực đồng bào ra sản xuất - tranh thủ giúp từng người, từng nhà làm rẫy. Tiến lên, anh em giới thiệu hiệp định Paris, làm bà con hiểu: hòa bình rồi mà chính quyền còn bắt lính là vi phạm hiệp định; binh sĩ bắn pháo vào ruộng rẫy gây thiệt hại tính mạng, tài sản của dân là bản chất hiếu chiến …

Đồng bào Hoa và Nùng ở xã Bàu Hàm 1 phấn khởi, tin tưởng ở sự quan tâm của Mặt trận Dân tộc giải phóng đối với đời sống của dân. Ngay đợt phản kích tràn ngập lãnh thổ, pháo địch làm cháy nhà dân, chính quyền xã đưa 52 tờ đơn cho 52 gia đình, bảo nếu ký tên phản đối lực lượng giải phóng đốt nhà dân thì chúng bồi thường. Đồng bào đồng lòng không ký, nói thẳng với địch: “Các ông bắn cháy đổ nhà dân mà đổ cho giải phóng, chúng tôi không làm. Cách mạng lo cho chúng tôi từng mảnh rẫy, mấy ông buộc ký tên nói người ta đốt nhà là có tội, phải để đức cho con cháu chớ!”.

 Tại khu vực đông giáo dân, cán bộ Mặt trận vận động các vị chức sắc tôn giáo hỗ trợ đồng bào đấu tranh chống bắn pháo, chống bắt lính, tổ chức hệ thống thôn báo tin cho thanh niên trốn khi bọn cảnh sát đến. Phong trào phát triển mạnh ở khu vực Bùi Chu, Bắc Hòa, Đồng Lách, Sông Mây, Tân Bắc[152]. Thông qua các cuộc đấu tranh, ta giáo dục giáo dân về chính sách 10 điểm của Mặt trận, bàn với bà con chống bắt lính sao cho hiệu quả. Quan tâm lợi ích củaả dân, cán bộ hướng dẫn khai hoang, phục hóa 5500 mẫu, cấp ruộng, tổ chức sản xuất nề nếp: khu Sông Mây 140 gia đình làm 190 mẫu; 42 gia đình ấp Thanh Hóa có 75 mẫu; ấp Bùi Chu 70 mẫu cho 33 gia đình; ấp Bắc Hòa 40 mẫu cho 32 gia đình; 19 gia đình người Hoa trồng tỉa 12 mẫu ở đồng Voi… Đến tháng 8/1973, đội công tác Hố Nai xây dựng được 52 cơ sở (45 đồng bào di cư), 13 cơ sở trong phòng vệ dân sự.

Tại xã Bàu Hàm 1, Bàu Hàm 2 đại đội 113 bảo an đánh phá kềm kẹp dân, ngăn chặn các cửa khẩu hậu cần ta. Chi bộ phối hợp với bộ đội trung đoàn 4 của Khu vừa đánh địch, vừa vận động đồng bào đấu tranh binh vận với lý lẽ: Mấy chú vào đó làm chi, hòa bình rồi đánh nhau chi cho chết chóc. Tại vì mấy ông trong đó (ý nói đại đội 113) không nghe bộ đội giải phóng kêu gọi về vị trí cũ, không rút thì mấy ổng giải phóng đánh hồi hôm. Bà con tôi lo cho mấy chú, bà con ngoài này không biết sao, nóng ruột nên ra đây xem và dặn mấy chú đừng vô mà chết!. Bà con tiếp tục kéo tới cuộc cảnh sát, buộc viên trưởng cuộc phải đi gặp viên chỉ huy đại đội 113, đòi cho dân 6 đồng hồ, vòng vàng và tiền của dân, chúng phải “nhả 4 đồng hồ và 15 ngàn đồng. Bà con yêu cầu xã trưởng báo về tiểu khu Long Khánh rút đại đội 113. Ngày 7/5 đại đội 113 đi khỏi Bàu Hàm.

Vào mấy tháng cuối năm, địch đưa một số thương phế binh về cướp đất của dân. Cơ sở cách mạng kịp thời vận động nhân dân tổ chức đấu tranh quyết liệt. Ngày 7/9/1973, hơn 300 đồng bào Hố Nai làm vật cản trên quốc lộ 1, đồng thời đốt hết chòi rẫy của thương phế binh. Huyện ủy chỉ đạo các chi bộ, cơ sở vận động dân Trảng Bom, Ngọn Trường, Hưng Nghĩa, Cây Tháp kéo đến các trụ sở xã và cuộc cảnh sát đòi giải quyết vấn đề đất đai. Nhiều kiến nghị gửi quận, tỉnh yêu cầu ngăn chặn hành động chiếm đất ngang xương. Chính quyền quận Đức Tu và tòa hành chính tỉnh Biên Hòa nhận đơn, ra lệnh ngưng chiếm đất.

Tháng 10/1973, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định thành lập huyện 21 tách khỏi huyện Vĩnh Cửu. Huyện 21 gồm 11 xã nằm dọc quốc lộ 1 và 20[153], ít lâu sau đổi thành huyện Thống Nhất. Các tổ công tác về bám các địa bàn Hố Nai, Bàu Hàm … làm chuyển biến tư tưởng trong đồng bào di cư. Nhiều quần chúng tỏ thái độ có cảm tình với giải phóng, bảo vệ cán bộ ta. Tháng 11/1973, tại đồng Sông Mây, một cán bộ hậu cần ra nhờ dân mua hàng. Một tên thám báo sư 18 trà trộn trong dân, giương súng định bắn. Một bà đứng cạnh tên đó ghì đầu nòng xuống, nói lớn: Con ơi con, lính sư đoàn 18 đòi bắn mấy má mà sao con cứ đi cà nhỏng vậy?. Anh cán bộ không nghe, cứ đi tới, còn cách 15 mét, tên lính xô bà qua một bên và nổ súng. Bà không sợ hi sinh, nhào tới ôm đầu nòng ghì xuống, anh cán bộ nọ mới chạy thoát.

Phát hiện cán bộ cách mạng thâm nhập vùng Sông Mây, lính hăm he đe dọa bắt bà con. Một ông già nói vỗ mặt: Tôi nói cho các cậu biết, đây là vùng của người ta, vùng ngoài kia mới là của các cậu! Lính kiểm soát gắt gao không cho lọt một hạt gạo vào tay cộng sản song bà con mưu trí vẫn tiếp tế cho ta đều đều. Cơ sở ta có lần mua cả xe gạo chuyển vào gần đến căn cứ thì cảnh sát chặn lại. Phòng vệ dân sự can thiệp cho xe chạy tiếp an toàn. Tháng 12/1973, bà con ở Bùi Chu, Sông Mây đề nghị bộ đội trừng trị bọn lính thường lùng sục, gây khó dễ với dân. Chỉ sáng hôm sau du kích xã phối hợp với đội công tác Hố Nai phục kích diệt gọn 1 trung đội 38 tên. Bà con làm ruộng ngay cạnh đó vô sự, khen ngợi: “Mấy anh giải phóng đánh giỏi quá, dân không sao mà lính chết sạch! Các anh linh quá, bữa trước nói bữa sau không còn thằng về!” Đến mùa lúa, đồng bào sẵn sàng bán cho giải phóng, có nhà tự ủng hộ cách mạng. Cán bộ ta thấy một nhà có lúa ít không hỏi mua, khi đập xong đã để lại 2 giạ, cho một cháu bé 10 tuổi ở lại chòi để giữ. Ba ngày sau, cán bộ ta vào, cháu gặp và nói: Cô ơi, mẹ cháu bắt ở đây giữ lúa, chừng nào Mặt trận ra, giao rồi mới được về. Bây giờ cô nhận giùm. Có trường hợp bà con giấu lúa trong rơm, ta lấy sót, bữa sau ra một cụ già nói luôn: Trời ơi, Mặt trận chê lúa tôi hay sao mà không nhận!. Vụ mùa 1973, bà con ở đồng Sông Mây trúng lớn, tổ chức ăn mừng cùng đội công tác. Bà con Bùi Chu ủng hộ cách mạng 115 giạ lúa. Nhờ làm tốt công tác vận động quần chúng, hậu cần ta mua được hàng ngàn giạ lúa. Bà con cũng đóng thuế nông nghiệp 3,8 triệu đồng.

Song song với củng cố an ninh, phát triển sản xuất vùng giải phóng Cây Gáo, cuối năm 1973 ta mở trường phổ thông cơ sở tỉnh do đồng chí Trần Sĩ Huấn phụ trách để dạy văn hóa cho học sinh vùng giải phóng, bổ túc văn hóa cho cán bộ chiến sĩ …

Trên cơ sở tổng kết năm 1973, đầu năm 1974 Huyện ủy Thống Nhất tiếp tục chủ trương đẩy mạnh đánh bình định bằng hai chân, ba mũi, kiên quyết chống âm mưu phá rừng, cướp đất bảo vệ quyền lợi của nhân dân, chống bắt lính, chống bắn pháo, diệt ác phá kềm giành quyền làm chủ các mức khác nhau ở các ấp Bàu Hàm, Sông Thao, Hưng Nghĩa, Hưng Nhơn, Ngô Quyền, Bàu Xéo, Canh Nông …

Mở đầu là cuộc đấu tranh ở ấp Tân Bắc. Tên cảnh sát trưởng và trưởng ấp cướp xe Honda của anh Năm Canh và giết anh để phi tang. Cơ sở ở đây vận động bà con khiêng xác đến nhà trưởng ấp, khẩu hiệu: Đả đảo bọn giết người cướp của! dán trên quan tài. Bà con Bùi Chu, Bắc Hòa kéo đến hỗ trợ, tập hợp hàng ngàn dân suốt một ngày. Tên trưởng ấp hoảng sợ, bỏ trốn.

Bọn sĩ quan Sài Gòn cướp của dân Trà Cổ, An Bình 70 mẫu ruộng. Sau nhiều lần gửi kiến nghị lên quận và tỉnh không kết quả, hàng ngàn bà con được cán bộ Mặt trận và cơ sở mật hướng dẫn đã kéo đi Trảng Bom, hô khẩu hiệu đòi đất, làm tắc nghẽn giao thông trên quốc lộ 1. Bà con tranh thủ sự đồng tình của một số vị linh mục như linh mục Hạnh, linh mục Thông, linh mục Nhân. Sau đó 15 đại diện ở Bùi Chu, Bắc Hòa, Tân Bắc mang đơn về bộ Lao động Sài Gòn yêu cầu giải quyết. Cuộc đấu tranh kiên quyết này đã giành thắng lợi, chính quyền phải trả dân 70 mẫu ruộng, ngưng kế hoạch di 7000 dân từ nơi khác về.

Theo chỉ đạo của Huyện ủy, việc giải quyết ruộng đất phải dựa vào dân, cán bộ Mặt trận làm trung gian, để dân bình chọn công bằng. Chính bà con vạch mặt tên Đô làm tình báo, trà trộn vào dân để phát hiện cơ sở, nòng cốt cách mạng, buộc y trả lại 4 mẫu để phân cho người chưa có đất trồng. Địch bắt bà con Hố Nai đi dự lễ ban hành luật Người cày có ruộng của Thiệu, họ không đi. Chúng phát mỗi người một bản luật, bà con nói luôn: Nếu không vô xin Mặt trận, không nhờ Mặt trận giải quyết đất mà chờ luật ông Thiệu thì có mà chết đói nhăn răng. Ở các ấp Bùi Chu, Hưng Nghĩa, Sông Thao, Canh Nông, Bàu Xéo ta tập hợp quần chúng thành nhóm bảo vệ sản xuất, phát hiện địch phá hoại. Nhiều nơi đồng bào sống kiểu hai chân, ở lại rẫy từng nhóm dăm bảy người trong vài ngày mới về nhà. Ở Hố Nai, Cây Gáo hơn hai chục thanh niên vào rẫy, ở lại đêm làm cá, hình thành tổ đoàn kết sản xuất.

Trong đấu tranh chính trị, Huyện ủy chỉ đạo gắn chặt việc vạch trần bản chất hiếu chiến, chống phá hiệp định Paris của địch với giải quyết bức bách của dân về quyền dân sinh, dân chủ. Ngày 11/5/1974, Chi bộ mật vận động 500 đồng bào Bàu Hàm kéo đến bao vây hội đồng xã và bọn cảnh sát giết người[154]. Chiếc máy cày chở xác anh Sang cắm cờ quốc gia và các khẩu hiệu: Đả đảo bọn giết người vô tội! Phải bồi thường nhân mạng!… Hôm sau, quận trưởng Kiệm Tân và tỉnh Long Khánh về bắt tên trưởng cuộc cảnh sát nhận tội trước dân, hứa xử tội tên ác ôn, bồi thường cho gia đình người bị hại 50 ngàn đồng lo tang lễ. Qua đấu tranh, ta hạ uy thế địch, đưa khí thế quần chúng lên cao, bồi dưỡng các đối tượng cơ sở …

Bộ đội huyện và du kích xã nhiều lần đột kích các đồn bót của yếu khu Trảng Bom; địch bị động không bung ra như trước. Du kích mật đã diệt nhiều tên ác ôn, tình báo, chỉ điểm, trừng trị tên Bằng chiêu hồi chống phá cách mạng.

Tại ấp Bùi Chu, qua tuyên truyền, giáo dục, thử thách đội công tác di cư phát triển được chị Ba Khánh vào Đảng. Qua chị Ba, đội kết nạp thêm 1 đảng viên, 1 đoàn viên nữa. Tổ hạt nhân của chị tổ chức được hệ thống thông báo cho thanh niên kịp thời trốn khi lính vào bắt quân dịch. Tổ tranh thủ số tề ấp và phòng vệ dân sự ủng hộ hoạt động này. Tại ấp Hải Dương, tổ hạt nhân tổ chức các tổ phụ nữ, phụ lão kéo chuông nhà thờ báo cho thanh niên trốn lính. Phòng vệ dân sự ấp nhiều lần ngăn chặn cảnh sát vào ấp: Các anh lên đây phải thông qua chính quyền ấp, nếu các anh lang thang chúng tôi nổ súng! Năm 1974, không thanh niên nào của ấp Hải Dương bị bắt lính.         

  Cuộc đấu tranh kết hợp ba mũi vũ trang, chính trị, binh vận tại huyện Thống Nhất là điển hình sinh động của chiến tranh nhân dân, ta dùng sức mạnh quần chúng đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ thì sức mạnh càng tăng gấp bội. Trong năm 1973-1974 phong trào đấu tranh ba mũi giáp công phát triển đều khắp; ta xây dựng được cơ sở ở hầu hết các xã, tạo được thế và lực cho năm sau.

Khi hiệp định Paris bắt đầu có hiệu lực, địch tập trung quân phản kích “xóa da  beo” nhất là ở dọc lộ 20. Chúng dùng máy bay ném bom, bắn pháo hủy diệt các địa điểm dân cư ở Túc Trưng, km 110, 116, 120 làm cháy và sập hàng ngàn ngôi nhà, hàng trăm người chết và bị thương. Ấp 116 có 61 người chết, 138 bị thương, 253 nhà cửa hư hại. Xã 125 có 50 nóc nhà ra tro. Chúng đưa máy ủi phá địa hình km 96 và 107, dồn dân về lập ấp Ngọc Lâm.

Lấn chiếm vùng ta làm chủ, địch tăng quân phòng thủ, củng cố bộ máy kềm kẹp, tiếp tục bình định nông thôn[155]. Bộ máy tề vệ được thanh lọc, địch rún ép nhiều người vào các đảng phái phản động như đảng Dân chủ của Thiệu. Đồng bào dân tộc Nùng, Hoa và tín đồ các tôn giáo bị lừa mị làm tình báo cho địch. Chúng mộ người lao động nghèo đi phá rừng khẩn hoang nhưng thực chất là phá căn cứ cách mạng, giành đất giành dân với ta.

Quán triệt tinh thần kiên quyết giữ thế làm chủ, xã 125 củng cố chi bộ, rút 5 thanh niên xây dựng lại đội du kích, kết hợp với các lực lượng vũ trang bạn đánh địch hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng[156].

Phong trào đấu tranh chính trị cũng diễn ra sôi nổi. Huyện ủy chỉ đạo các chi bộ xã Túc Trưng, Định Quán, 114 chống lại viên trung tá Huỳnh Thanh Danh. Nhiều cuộc có hàng trăm người tham gia kéo lên tiểu khu Long Khánh, quốc hội Sài Gòn, tổng ủy di cư, Bộ phát triển sắc tộc chống bắt lính, chống bắn pháo bừa bãi, đòi bồi thường thiệt hại. Bà con xã 125 có cuộc biểu tình kéo dài 11 ngày chống địch phục kích bắn chết anh thanh niên Phạm Minh Quốc. Bà con hàng ngày khiêng quan tài, bàn ghế, tủ ra chắn quốc lộ 20, đồng thời chuẩn bị 8 cây rựa và 4 bình xăng, 1 thau nước chanh sẵn sàng đối phó khi địch đàn áp. Giằng co suốt 10 ngày, địch tìm cách cướp xác nhưng không làm được, có lần bà con đổ xăng ra đường và tưới lên xe của chúng rồi bật quẹt đốt khiến chúng phải rút. Sáng 30/3, chi bộ cho cơ sở rải truyền đơn tố cáo tội ác địch, tổ chức cuộc tuần hành ở xã, đi đầu là các thiếu nhi. Viên quận trưởng Định Quán phải ký cam kết không cho lính phục kích, gài mìn và bắn pháo bừa bãi, đồng thời bỏ tù tên lính bắn anh Quốc. Cuộc đoàn kết đấu tranh đã thắng lợi hoàn toàn.

Công tác binh vận được chú trọng, cán bộ Mặt trận và cơ sở ta tuyên truyền tính pháp lý của Hiệp định Paris và chính sách 10 điểm hòa hợp dân tộc của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, đã tác động một số binh sĩ đào rã ngũ. Số này trở về với nhân dân được cách mạng cấp đất trồng tỉa ở Đồng Hiệp, Trà Cổ, Phương Lâm, Gia Canh, Thuận Tùng … Để đánh bình định nông thôn, Huyện ủy Định Quán xác định: Trước hết phải nắm chắc được âm mưu thủ đoạn địch và phải có thực lực bên trong các xã, ấp. Từ đó, Huyện ủy rút cán bộ các ban ngành của huyện, bổ sung 7 đồng chí cho chi bộ thị trấn Định Quán, cho Phương Lâm; 4 đồng chí cho La Ngà; rút một số du kích các xã và tân binh để lập lại các đội du kích đồn điền cao su, Định Quán, La Ngà.

Xã 125 là xã điểm, chi bộ vận động 88 gia đình bung ra lập ấp mới, thêm 77 gia đình ở thế hai chân. Ủy ban nhân dân cách mạng xã thành lập, cấp 350 mẫu ruộng rẫy cho dân ở Đồng Hiệp, Trà Cổ, Bàu Minh, Bàu Sen. Ta xây dựng 1 trường học, 2 trạm y tế ở Trà Cổ, Đồng Hiệp có tủ thuốc do 1 cán bộ y tế huyện phụ trách chữa bệnh, phát thuốc. Xã có ban tự quản 5 ủy viên, phát triển 3 đảng viên, lập ban cán sự phụ nữ giải phóng gồm 3 ủy viên và 40 hội viên, 1 tổ an ninh vũ trang, 1 tiểu đội dân quân, 2 tổ du kích  ấp, 1 đội thiếu nhi 12 em.

Xã mới Cao Cang được xây dựng có 506 nhân khẩu (ta vận động từ nơi khác đến) làm ăn sinh sống tại đây. Chi bộ và cán bộ Mặt trận vận động thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng xã cùng nhiều đoàn thể: thanh niên, phụ nữ, du kích … Xã cất 2 trường học với 3 lớp, đào tạo 3 thầy cô giáo dạy 59 học sinh. Về y tế, có 1 y sĩ phục vụ khám chữa bệnh, cho thuốc.

Huyện cũng xây dựng một số ấp (làng) giải phóng: Gia Canh có 12 gia đình, Thuận Tùng 11 hộ, Tà Lài 20 hộ và 130 người ở thế hai chân, Phương Lâm 43 hộ và 12 gia đình ở thế hai chân. Chính quyền cách mạng đã cấp 775 mẫu ruộng rẫy cho dân. Chính sách xây dựng vùng giải phóng đã ổn định đời sống nhân dân bung ra, tạo cơ sở vững chắc cho lực lượng cách mạng. Đồng bào vùng kềm tìm cách  ra vùng giải phóng làm ăn ngày một đông.

Ngày 13/10/1973, Trung ương Cục quyết định thành lập tỉnh căn cứ Tân Phú gồm ba huyện: Tân Uyên Bắc, Phú Giáo và Độc Lập (gồm cả Tà Lài, Bù Cháp, Lý Lịch của Định Quán). Tỉnh làm nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa bàn đứng chân, bàn đạp tiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng Miền, quân khu và địa phương, nơi tập trung cơ sở hậu cần chuẩn bị cho giai đoạn mới tiến tới giải phóng miền Nam.

Ngày 27/3/1974, phối hợp với chiến trường toàn tỉnh Bà Rịa - Long Khánh và chiến dịch lộ 2 của quân khu, huyện Định Quán mở cuộc tấn công ở xã điểm 125, 110. Ta liên tục đánh địch, diệt ác ôn, phá đường 20[157]. Phối hợp với mũi vũ trang, cán bộ Mặt trận đẩy mạnh mũi tiến công chính trị và binh vận nhịp nhàng. Nhân dân các ấp 110 và 114 tổ chức 4 cuộc đấu tranh, gửi 7 thư tay vào đồn 125, rải hàng trăm truyền đơn. Đại đội bảo an 924 ở đồn 125 đồng ý với lực lượng giải phóng: không bung ra, không mở đường và đánh vùng ven … Lính đồn giúp dân mang gạo, thực phẩm ra rẫy, tránh lính chi khu xét bắt. Tại ấp 116, cơ sở và quần chúng vận động làm rã ngũ một số lính trung đoàn 43, sư 18. Cơ sở ở Túc Trưng vận động 6 dân vệ và phòng vệ dân sự về với nhân dân. Phòng vệ dân sự cấp ấp 110, 114, 116, 125 bỏ gác, trả súng cho chỉ huy.

Qua các đợt tấn công và xây dựng, thế làm chủ ở các ấp 110, 114, 116, 125 nâng lên bước mới. Ban đêm ta hoàn toàn làm chủ các ấp 110, 114, bà con đi lại sản xuất không còn bị soát xét ngặt như trước. Thị trấn Định Quán có 2 tổ trung tâm xây dựng được hai lõm chính trị gồm 20 gia đình, phát triển được 1 du kích mật, 1 tổ phụ nữ, 1 tổ an ninh mật. Dân bung ra vùng giải phóng Đồng Hiệp, Gia Canh, Thuận Tùng ngày càng đông.

Qua hai đợt hoạt động từ đầu tháng 9/1974, huyện chuyển được 4 ấp tranh chấp mạnh, xóa các ấp trắng Thọ Lâm, Ngọc Lâm, Thanh Ngọc, mở rộng quyền làm chủ ở khu vực La Ngà, Quảng Khánh, thị trấn Định Quán. Ta mở rộng diện hoạt động ở Bắc, Nam quốc lộ 20, củng cố chi bộ mật, du kích mật ở thị trấn Định Quán, ấp 125, Bến Nôm … Huyện hoàn chỉnh xã giải phóng Cao Cang, mở rộng vùng giải phóng Đồng Hiệp, Trà Cổ, Gia Canh, Thuận Tùng, Tà Lài …

Quân dân Định Quán tạo được thế mới, lực mới, tạo địa bàn đứng chân cho bộ đội quân khu và Miền trong chiến dịch mùa khô sắp tới.

Ở tỉnh lỵ Long Khánh và huyện Xuân Lộc, Huyện ủy Xuân Lộc và Thị ủy Long Khánh chỉ đạo các chi bộ mật lãnh đạo cơ sở vận động quần chúng đấu tranh quyết liệt chống kềm kẹp. Ở các sở cao su Hàng Gòn, Ông Quế, Dầu Giây và các xã Bảo Vinh, Bình Lộc, Bảo Bình, Suối Cát …  bà con xé rào, gỡ trái bung ra sản xuất dựa vào lý lẽ: Đã có hiệp định hòa bình, sao không cho dân tự do đi làm ăn? Bà con còn vận động tranh thủ lính không xét hỏi gắt gao, gỡ trái ở một số điểm cho dân đi lại an toàn. Thông qua gia đình binh sĩ, cơ sở ta gửi truyền đơn về chính sách 10 điểm của Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vào đồn bót địch. Mặt khác, cán bộ và du kích dùng loa phát thanh, cùng quần chúng tranh thủ khơi gợi tình cảm dân tộc, lòng yêu hòa bình, mong muốn về quê an cư lạc nghiệp lâu dài. Tiểu đoàn 64 biệt động quân, một số đơn vị của sư 18 đóng dọc lộ 2, lính bảo an đồn Bảo Chánh nói với dân: Chiếm đóng đồn bót, càn quét xóm ấp là vi phạm hiệp định. Đó là do số chỉ huy ngoan cố bắt ép lính tráng bọn tôi! …

Tháng 2/1973, cán bộ bám trụ chỉ đạo cơ sở vận động hàng ngàn đồng bào các ấp, xã ven tỉnh lỵ Long Khánh kéo vào cùng nhân dân thị trấn giương cao biểu ngữ, khẩu hiệu mừng hòa bình, đòi tự do dân chủ, chống vi phạm hiệp định. Học sinh trường trung học Long Khánh tẩy chay không vào tổ chức học đường bảo vệ quốc gia và đòi cải thiện chế độ học hành, thi cử, lợi dụng diễn đàn công khai tổ chức các buổi văn nghệ, hát những bài yêu nước tiến bộ của học sinh sinh viên, đồng thời vạch mặt số mật báo trong hàng ngũ các thầy, đuổi hai tên khỏi trường.

Nhân dân và cán bộ, cơ sở dựa vào chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm công tác binh vận đối với các gia đình binh sĩ, bắt mối đưa nhiều lính Sài Gòn về với nhân dân hoặc đào ngũ. Một số đội dân vệ và phòng vệ dân sự rã ngũ, bỏ không canh gác. Cơ sở mật báo tin: một viên thiếu tá bị điều từ Tân Sơn Nhất về Long Khánh; đồng chí Tư Chàm cùng cán bộ binh vận tìm cách móc nối đưa ông ta ra vùng giải phóng.

Quân dân huyện Xuân Lộc không ảo tưởng địch thi hành hiệp định, kiên quyết trừng trị bọn lấn chiếm bằng hai chân ba mũi, làm kế hoạch “bình định phát triển” của địch bước đầu thất bại.

Nửa đầu tháng 2/1974, du kích các xã, ấp Gia Ray, Tân Lập, Hàng Gòn, Suối Cát, tỉnh lỵ Long Khánh liên tục đột ấp diệt và bắt 18 tên ác ôn, chiêu hồi, thu nhiều vũ khí và tài liệu của địch. Liên tiếp ba ngày 17, 18, 19/2, du kích xã Bình Lộc tập kích đồn Bình Lộc, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội bảo an đi lấn chiếm, bắt sống 1 tên thám báo.

Cuối tháng 3/1974, theo chỉ đạo của Miền, chiến dịch lộ 2 mở màn. Chỉ trong 10 ngày, ta giải phóng đoạn lộ 2 từ Kim Long đến sở Bà Cùi (nay thuộc huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) diệt hơn 600 địch, bắt sống 17 tên, bắn rơi 17 máy bay các loại, bắn cháy 16 xe tăng và xe bọc thép, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn bảo an và nhiều đội dân vệ. Hợp đồng tác chiến, đội biệt động và trinh sát vũ trang Long Khánh tiến công nhiều mục tiêu ở tỉnh lỵ Long Khánh, diệt 22 sĩ quan cảnh sát, 1 trưởng ấp ác ôn. Công tác Mặt trận và binh vận được đẩy mạnh, hơn 100 lính Sài Gòn đào rã ngũ; nhiều binh sĩ từ lộ 2 chạy về tỉnh lỵ Long Khánh đưa tin, làm nội ứng. Chiến dịch lộ 2 mở mảng vùng tam giác sắt (quốc lộ 1 - quốc lộ 15 - lộ 2), nối liền vùng giải phóng Long Khánh với Bà Rịa, tạo điều kiện cho các địa phương xây dựng, củng cố phía sau.

Chiến thắng lộ 2 cổ vũ phong trào nhân dân ở huyện Xuân Lộc phát triển[158].

Cuối tháng 5/1974, các ấp 2 và 3 xã Bảo Bình được giải phóng luôn cho đến ngày toàn thắng. 22 lính bảo an thuộc tiểu đoàn 342 đào ngũ.

Đầu tháng 7/1974, đội biệt động, đội trinh sát vũ trang Long Khánh liên tục thọc sâu đánh hiểm, diệt 122 tên. Cơ sở nội tuyến trong sư 18 phá nổ một kho đạn làm chết 27 tên gác kho. Tiểu đội nữ súng cối cơ động pháo kích sân bay Long Khánh, một số kho, các bót cầu Gia Liêu, Bình Phú …

Đêm 10/12/1974, du kích và bộ đội huyện bao vây đồn Bảo Chánh. Đội súng cối nữ bắn uy hiếp rồi các cơ sở vận động gia đình binh sĩ phát loa kêu gọi con em mình buông súng đầu hàng. Lính hoang mang, đề nghị thương thuyết, ta dùng kế dụ viên trưởng đồn ra, tổ chức bắt sống, tiếp tục tấn công binh vận. Kết quả: trung đội bảo an đồn Bảo Chánh ra hàng. Xã Bảo Chánh là xã đầu tiên của tỉnh Bà Rịa -Long Khánh bị bức hàng, mở đầu cho phong trào địa phương tự lực giải phóng xã, ấp.

Đội biệt động và trinh sát vũ trang mật thị xã Long Khánh liên tục đánh địch trong tỉnh lỵ diệt nhiều địch, trong đó sự hi sinh của nữ trinh sát vũ trang Hồ Thị Hương được nhân dân khâm phục[159].

Hoạt động vũ trang hỗ trợ việc xây dựng thực lực, huyện phát triển thêm 105 cơ sở, rút được 46 thanh niên bổ sung cho du kích và bộ đội. Ven tỉnh lỵ ta xây dựng thêm 8 lõm giải phóng. Vùng giải phóng có thế cài răng lược, nhiều xã yếu nâng thành xã tranh chấp.

Các cơ quan đơn vị nào cũng có cơ sở sản xuất trồng trọt, chăn nuôi tự túc lương thực ít nhất ba tháng. Đầu mùa mưa 1974, chính quyền cách mạng cấp 200 mẫu ruộng cho 62 gia đình người Chăm ở Xuân Hưng và 68 gia đình từ Quảng Ngãi di cư. Hàng trăm gia đình ở Cẩm Mỹ, Ông Đồn, Bảo Vinh… bung ra vùng giải phóng làm ăn. Ta mở một số điểm trường cho con em nhân dân có nơi học, đời sống vật chất và tinh thần bà con vùng giải phóng nâng lên một bước.

Tỉnh lỵ Biên Hòa luôn luôn là hậu cứ quân sự quan trọng của địch, nằm trong tuyến phòng thủ bảo vệ phía Đông Sài Gòn[160].

Địch đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, vu cáo ta vi phạm hiệp định Paris, xuyên tạc đường lối chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong nội ô địch tiến hành đoàn ngũ hóa học sinh, buộc học sinh mỗi tuần huấn luyện quân sự 2 tiết, sẵn sàng cho việc đôn quân bắt lính.

Về kinh tế, địch tăng mức thuế, tăng loại thuế làm đời sống nhân dân gặp khó khăn. Nhiều cơ sở làm đá ở Bửu Long, Tân Thành, cơ sở gạch ngói ở Bửu Hòa, Tân Vạn giảm sản lượng hoặc ngưng sản xuất. Khu kỹ nghệ Biên Hòa sa thải bớt công nhân, hãng thầu xây dựng RMK-BRJ cho nghỉ việc 4000 người.

Tháng 6/1973, Khu ủy miền Đông quyết định nâng cấp thị xã Biên Hòa lên thành phố. Đến tháng 3/1974, Thường vụ Khu ủy miền Đông quyết định chuyển 4 xã Phước Tân, An Hoà, Long Hưng, Long Bình cho Thành ủy Biên Hòa tạo bàn đạp cho Ban công vận thành, Thành đội, đội biệt động, lực lượng an ninh đứng chân, hoạt động.

Thường vụ Thành ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm của ta là: tập trung mọi cố gắng phát triển cơ sở bên trong nội ô và khu kỹ nghệ Biên Hòa, đảm bảo nguyên tắc ngăn cách và bí mật. Nhiều cán bộ được bố trí vào nội thành[161] sống hợp pháp để trực tiếp kịp thời lãnh đạo đấu tranh. Tại khu kỹ nghệ Biên Hòa, ta phát triển 40 cơ sở và nhiều cảm tình ở 17 xí nghiệp. Nghiệp đoàn Vikyno do cán bộ ta nắm, các nhà máy Dofitex, giấy Cogido, thép Vicasa, tôn xi măng Eternit, nhà máy đường Biên Hòa đều có lực lượng cơ sở và cảm tình đông đảo. Công nhân các nhà máy Vikyno, Vicasa, Dofitex, Cogido, Eternit …. liên tục đấu tranh đình công, bãi công, lãn công đòi tăng lương, đòi không sa thải thợ, đòi cải thiện chế độ làm việc... Các xã Tam Hiệp, Hiệp Hòa, Bửu Hòa, Tân Vạn và các khu phố nội ô đều lập lại chi bộ mật, tổ Đảng mật và đảng viên hoạt động đơn tuyến. Trường trung học Ngô Quyền có đảng viên lãnh đạo, ở một số trường lập được chi đoàn thanh niên[162]. Ở xã Tân Phong, nhân dân đấu tranh với lính, bung về đất Bà Thức, Trảng Dài có kết quả. Bà con tiểu thương chợ Biên Hòa đấu tranh chống tăng thuế, chống đuổi chỗ … được nhân dân ủng hộ, cảnh sát và binh lính cũng đồng tình.

Nội tuyến trong quân đội có trung sĩ Bến ở sân bay Biên Hòa, anh Thành là  lính thợ ở kho Long Bình, anh Bỉnh trưởng đài vô tuyến điện quân đoàn 3, anh Xi trong tỉnh đoàn bảo an, anh Út trong biệt động quân, anh Đeo ở sư 18, chị Bảy Lai trong nghiệp đoàn công nhân tỉnh Biên Hòa.

Ta nắm được 9 đội phòng vệ dân sự ở xã Bửu Long, ấp An Hảo, ấp Bình Đa, ấp Vĩnh Cửu (x. Tam Hiệp), ấp Bình Xương (x. Hiệp Hòa), xã Tân Thành, xã Tân Vạn, ấp Tân Bản (x. Bửu Hoà), khu 2 nội ô, việc tuần tra canh gác thuận lợi cho dân (ít xoát xét gây khó dễ), khi có thời cơ số này sẽ quay súng cướp chính quyền tại chỗ. Nhiều lõm chính trị được khôi phục và lập mới[163].

Ở nhà tù Tân Hiệp và trại giam suối Săng Máu, cán bộ chiến sĩ và đồng bào yêu nước bị giam giữ đấu tranh liên tục chống chính sách đàn áp dã man và các thủ đoạn thâm độc của địch. Ngày 28/2/1973, 11 cô giáo và sinh viên bị giam ở nhà lao Tân Hiệp gửi thư ra ngoài, tố cáo chế độ nhà tù khắc nghiệt của địch, đòi chính quyền Thiệu trả tự do cho các chị em. Những tháng cuối năm, nhiều cán bộ chiến sĩ từ nhà tù Côn Đảo chuyển về trại Săng Máu. Anh em tổ chức được một số cuộc vượt ngục nhưng sau bị lộ nên phải đình lại. Trong thời gian này, cơ sở và đồng bào thành phố đấu tranh lên án chế độ lao tù của địch, bí mật gửi thực phẩm, thuốc men, tài liệu vào trong cho các đồng chí bị giam giữ.

Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 21, ra Nghị quyết 21/NQTW về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”.  Trên cơ sở nghị quyết của Trung ương, Bộ Chỉ huy quân sự Miền chỉ thị: “Các lực lượng vũ trang phải kiên quyết đánh trả bất cứ ở đâu bằng hình thức và lực lượng thích đáng buộc đối phương phải nghiêm chỉnh và triệt để thi hành hiệp định Paris về Việt Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh phá hoại hiệp định[164].

Sau hội nghị mở rộng của Thành ủy Biên Hòa 15/2/1974, ta tiếp tục đưa cán bộ vào bám trụ nội ô, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, binh vận phối hợp với các hoạt động quân sự diễn ra trên toàn Miền trong chiến dịch mùa khô 1973 -1974, mặt khác tập trung xây dựng lõm chính trị tạo điều kiện cho lực lượng võ trang vào đứng chân.

Vào những tháng đầu năm 1974, làn sóng chống chiến tranh và chống tham nhũng của các tôn giáo ngày càng sôi nổi từ khi bản cáo trạng số 3 công bố. Thành ủy chỉ đạo các chi bộ, cơ sở sử dụng báo chí công khai tuyên truyền lên án chế độ Thiệu là tay sai bán nước, tham nhũng và tuyên truyền đường lối chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh của công nhân khu kỹ nghệ, lao động nghèo thành phố diễn ra rất sôi nổi, giành thắng lợi [165]. Ở hãng Nông ngư cơ Vikyno, Ban Công vận chỉ đạo cơ sở vận động công nhân đòi lập nghiệp đoàn. Sau thời gian ngắn vận động, nghiệp đoàn Vikyno ra đời, một đảng viên mật ở trong ban quản trị. Ngay sau khi thành lập, nghiệp đoàn đã đưa ra các khẩu hiệu: - được trả phụ cấp đắt đỏ - tăng tiền cơm trưa từ 150 đồng lên 250 đồng/ngày - mọi người thợ được cấp hai bộ xưởng phục - anh chị em lao động sáu tháng phải được nhập ngạch - chị em được nghỉ hai tháng khi sinh đẻ, được lãnh nguyên lương.

Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, binh lính một số đơn vị đóng ở tỉnh lỵ và đồng bào công giáo di cư ở Bùi Tiếng (phường Tân Mai bây giờ) và Hố Nai công khai tố cáo Thiệu tàn ác, tham nhũng, đòi tự do dân chủ cho dân. Việc chống bắt lính ở các khu vực này diễn ra rộng hơn, bà con Tân Mai giải vây cho số thanh niên bị cảnh sát bắt lính. Ở các xã ven: Tân Vạn, Hiệp Hòa, Bửu Hòa, Bửu Long … phong trào chống càn quét, chống bắt lính diễn ra sôi nổi, liên tục.

Học sinh các trường Ngô Quyền, Khiết Tâm được sự chỉ đạo của Thành đoàn Biên Hòa đấu tranh chống bắt lính, chống quân sự hóa học đường, mở rộng liên kết với phong trào học sinh, sinh viên Sài Gòn chống Thiệu độc tài tham nhũng. Học sinh Ngô Quyền đấu tranh với viên hiệu trưởng tham ô công quĩ buộc bộ Giáo dục Sài Gòn rút ông ta về sở Học chánh Biên Hòa. Cơ sở ta vận động học sinh và hội cựu học sinh Ngô Quyền đấu tranh với ban giám hiệu, ra tờ báo Xuân đề cao tinh thần dân tộc, ý thức đoàn kết chống “cao bồi” du đãng, chống bất công trong thi cử… Nhiều học sinh các trường nội ô công khai bàn bạc tình hình thời sự, khẳng định: chính nghĩa trước sau cũng thắng. Các em quyên góp ủng hộ Mặt trận cứu đói, tổ chức những đêm văn nghệ lửa trại như học sinh, sinh viên Sài Gòn hát cho đồng bào tôi nghe khá sôi nổi.

Phối hợp với phong trào đấu tranh chính trị, mũi binh vận cũng hoạt động mạnh. Đảng viên mật và cơ sở tiến công tư tưởng binh sĩ Sài Gòn bằng các khẩu hiệu: Mỹ thua về Mỹ, ngụy thua về đâu?,  Bỏ súng về với vợ con thì sống, cầm súng chống lại cách mạng thì chết! … Ta gửi thư, truyền đơn cho gia đình binh sĩ gọi con em trở về. Lính chủ lực bỏ ngũ làm lính bảo an, dân vệ còn tại ngũ cũng bớt hung hăng. Ta tranh thủ phổ biến các chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, vận động họ chống lệnh hành quân, bỏ ngũ về với quê hương, gia đình.

Phối hợp chặt với phong trào đấu tranh đô thị, đêm 7/10/1974, ba chiến sĩ Đoàn 113 đặc công xuất phát từ bến Tân Định đã đưa khối thuốc nổ 700 kg theo sông Đồng Nai, vượt khoảng 30 km xuống đánh sập một đoạn 30 mét cầu Mới (Hóa An). Đêm 17/12/1974, một phân đội của Đoàn 113 đặc công tập kích đánh sập phân chi khu và cuộc cảnh sát Hóa An diệt hơn 30 tên địch. Tháng 1/1975, đội biệt động Biên Hòa đánh trung tâm chiêu hồi, diệt và làm bị thương 80 tên. Đêm 24/2/1975, du kích mật đánh cuộc cảnh sát Bửu Long, diệt và làm bị thương 5 tên.

Hai năm 1973-1974, Mặt trận Dân tộc giải phóng góp phần tích cực phát triển thực lực mạnh, xây dựng nhiều cơ sở và cảm tình, nhiều lõm chính trị ở  thành phố Biên Hoà, “lót ổ” lực lượng chuẩn bị giải phóng quê hương.

VI. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG PHÁT ĐỘNG NHÂN DÂN NỔI DẬY KẾT HỢP VŨ TRANG GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG, GÓP PHẦN THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Từ ngày 30/9 đến ngày 8/10/1974, Bộ Chính trị họp, xác định kế hoạch và quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975-1976, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà.

Tháng 11/1974, Trung ương Cục, Quân ủy Miền và Bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch mùa khô 1974-1975, trong đó kế hoạch ở miền Đông Nam bộ nhằm: Hoàn chỉnh khu giải phóng cách mạng nối liền hành lang chiến lược từ biên giới xuống bờ biển Đông, xây dựng thành căn cứ địa vững chắc liên hoàn, tạo thế bao vây Sài Gòn, giải phóng quốc lộ 14, mở tiếp về hướng Quốc lộ 20, Hoài Đức, Tánh Linh, một số đoạn trên quốc lộ 1, từng bước cắt đứt quốc lộ 15. Trong quá trình tiến công sẵn sàng đánh bại mọi cuộc hành quân lấn chiếm, tái chiếm của địch vào vùng giải phóng và vùng mới mở. Khối chủ lực đứng chân trên địa bàn quân khu 7 phải đánh những trận thối động, tiêu diệt gọn từng đơn vị chủ lực địch.

Cuối tháng 10/1974, để thực hiện ý đồ chiến lược trên, Trung ương Cục quyết định điều chỉnh tỉnh Tân Phú gồm hai huyện Độc Lập và Định Quán (hai huyện Tân Uyên, Phú Giáo nhập vào Bình Dương). Ngày 15/11/1974, Tỉnh ủy Tân Phú đề ra phương hướng, nhiệm vụ mùa khô 1974-1975: Nhanh chóng xây dựng vùng căn cứ giải phóng từng bước vững chắc; tập trung và khẩn trương xây dựng phát triển thực lực ba mũi tạo ra bước nhảy vọt, ra sức động viên sức người sức của nhằm làm thay đổi tương quan tại chỗ, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn mới của địch, gỡ đồn bót, giải phóng xã, ấp và mở thế tranh chấp mạnh 2/3 số ấp, giành trên 40.000 dân, đưa về vùng giải phóng 12.000 dân. Tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi, giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn[166].

Đồng bào các xã Vĩnh An, Lý Lỵch, Tà Lài, Bù Cháp… cùng với lực lượng hậu cần quân khu 7 và Đoàn 814 san ủi, mở đường 322 (tức đường Trần Lệ Xuân cũ), mở bến với cầu phà vượt sông Đồng Nai đảm bảo cho quân đoàn 4 vượt sông, tiến về quốc lộ 20 mở chiến dịch lớn. Các cơ sở mật ở Định Quán tích cực giúp các đoàn hậu cần 814, hậu cần quân khu 7 thu mua khối lượng gạo và nhu yếu phẩm quan trọng. Một cụm kho gạo 700 tấn bố trí ở km 125 đường vào Tà Lài, sẵn sàng phục vụ cho bộ đội chiến đấu trên quốc lộ 20.

4 giờ sáng ngày 6/12/1974, lực lượng võ trang tỉnh Tân Phú, huyện Định Quán và du kích địa phương với sự trợ giúp của bộ đội quân khu, đã đồng loạt bao vây tiến công các tua Cầu Trắng (xã 125), tua cầu La Ngà, đồn bót ở các ấp 110, 114, 116. Ở xã 125, lực lượng võ trang tỉnh kết hợp du kích xã vừa đánh địch, vừa vận động gia đình binh sĩ kêu gọi lính và dân vệ buông súng về với cách mạng. Chi bộ chỉ đạo du kích và quần chúng truy diệt số ác ôn, giải tán đội phòng vệ dân sự. Số tề xã, ấp chạy trốn về chi khu Định Quán.

Chiến dịch lộ 3 bắt đầu ngày 21/12/1974, bộ đội quân khu 7 và quân khu 6 phối hợp đánh mạnh các chi khu Võ Đắc, Tánh Linh (tỉnh Bình Tuy, nay thuộc tỉnh Bình Thuận). Chiến đoàn 43 thuộc sư 18 ngụy được lệnh cắt qua đường Trà Cổ - Đồng Hiệp giải vây cho hai chi khu nói trên. Các lực lượng võ trang tỉnh kết hợp với lực lượng võ trang khu đánh thiệt hại chiến đoàn 43, hỗ trợ cho chiến trường tỉnh bạn. Mặt khác, ta có kế hoạch bung dân ra vùng căn cứ để sản xuất.

Trong các ngày 30 và 31/12/1974, bộ đội tỉnh, lực lượng trinh sát cùng du kích xã 125 đắp mô, gài trái, bắn tỉa, tập kích địch từ km 2 đến km 7 đường Trà Cổ. Ngày 1/1/1975, ta đánh sập cống lớn Suối Sơn ở km 93, cắt đứt giao thông trên quốc lộ 20 quãng Túc Trưng - La Ngà. Bị đánh thiệt hại nặng trên chiến trường Tánh Linh - Hoài Đức[167], chiến đoàn 43 rút chạy về tỉnh lỵ Long Khánh sau gần một tháng tham chiến.

Ngày 6/1/1975 Tỉnh lỵ Phước Long được giải phóng. Bộ Chính trị nhận định[168]: Chúng ta đang đứng trước thời cơ lớn, phải mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền điều chỉnh bổ sung kế hoạch bước hai: tiêu diệt nhiều sinh lực địch, hoàn chỉnh vùng giải phóng liên hoàn, mở thông hành lang về phiá Đông Sài Gòn, phát triển hành lang chiến lược về hướng quốc lộ 20, về Bà Rịa - Long Khánh.

Ngày 10/3/1975, bộ đội ta đánh chiếm Buôn Ma Thuột; chỉ sau thời gian rất ngắn giải phóng toàn bộ Tây Nguyên, phát triển về hướng các tỉnh ven biển miền Trung. Chi khu Định Quán là điểm phòng thủ của địch án ngữ quốc lộ 20, nếu ta làm chủ chi khu này, sẽ kiểm soát được đường 20, mở được hành lang và đường tiến công ở hướng Đông Sài Gòn. Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch đường 20, giải phóng chi khu Định Quán, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực tiến về Long Khánh. Tham gia chiến dịch có lực lượng chủ lực Miền, bộ đội tỉnh Tân Phú, bộ đội huyện và du kích các xã đánh địch từ La Ngà về Túc Trưng và từ km 142 về km 125.

5 giờ 40 phút sáng 17/3/1975, bộ đội sư đoàn 7 tiến công chi khu Định Quán với ưu thế áp đảo, quyết liệt. 5 giờ chiều, ta chiếm chi khu, dinh quận trưởng, sau đó phát triển sang các điểm phòng ngự xung quanh. Ngày 20/3, ta hoàn toàn làm chủ chi khu, bắt sống viên thiếu tá chi khu trưởng kiêm quận trưởng, viên thiếu tá chỉ huy tiểu đoàn bảo an số 2, viên thiếu tá chi trưởng cảnh sát, 4 viên đại úy và 50 lính.

Cùng sáng 17/3, bộ đội tỉnh Tân Phú và du kích xã diệt cụm pháo Đạ Hoai, giữa trưa diệt đồn Đạ Hoai, giải phóng xã Phương Lâm. Bộ đội tỉnh cấp tốc phối hợp cùng du kích và cơ sở mật xã 125 bao vây, bắn pháo, kêu gọi binh sĩ đầu hàng. Đêm 18/3, địch rút chạy, ta giải phóng hoàn toàn xã 125.

Cùng ngày 17/3, bộ đội tỉnh Tân Phú kết hợp du kích xã Túc Trưng tiến công yếu khu Túc Trưng. Du kích cùng cơ sở và quần chúng lùng diệt số ác ôn, tiến công các bót Cây Xăng, bót ấp Chợ, bót ấp Tam Bung. Chi bộ đồn điền cao su lãnh đạo 400 công nhân nổi dậy đánh chiếm trụ sở ấp, giải phóng đồn điền.

Mất chi khu Định Quán, đồn 125, đồn Đạ Hoai, tinh thần binh lính địch đóng dọc quốc lộ 20 hoang mang lo sợ. Huyện ủy Định Quán chỉ đạo các chi bộ lãnh đạo cơ sở đẩy mạnh binh vận, tác động làm suy sụp tư tưởng địch. Đêm 18/3, đồn dân vệ ấp 116 rút chạy, rạng sáng 19/3 lính đồn Quảng Khánh bỏ chạy; quần chúng làm chủ các ấp 116 và Quảng Khánh. Ngày 20/3, bộ đội tỉnh diệt đồn La Ngà, bắt sống 60 tên.

Chỉ trong ba ngày, từ 17 đến 20/3/1975 được sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực Miền, quân dân tỉnh Tân Phú đã tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn huyện Định Quán, làm chủ đoạn quốc lộ 20 từ Phương Lâm (giáp tỉnh Lâm Đồng) xuống Túc Trưng. 3600 tên địch cùng bộ máy ngụy quyền xã, ấp bị quét sạch. Lực lượng chủ lực sẵn sàng tiến về Xuân Lộc - Long Khánh.

Ngày 17/3, Bộ Tư lệnh quân khu 7 mở chiến dịch lộ 3. Bộ đội chủ lực sư đoàn 6 cùng bộ đội huyện Xuân Lộc tiêu diệt ba bót: ngã ba Ông Đồn, núi Chứa Chan và đồi 52. Sáng 18/3, lực lượng võ trang huyện giải phóng ấp Suối Cát, cùng bộ đội trung đoàn 4 chủ lực diệt viện từ tiểu khu Long Khánh kéo ra. Ngày 21/3, bộ đội giải phóng lộ 3 từ ngã ba Ông Đồn đến Trà Tân. Cùng ngày, lực lượng võ trang huyện cao su Bà Rịa- Long Khánh hỗ trợ du kích mật và công nhân giải phóng đồn điền Ông Quế trên lộ 2. Du kích xã Bảo Bình phối hợp với cơ sở mật và quần chúng dùng binh vận, bức rút chốt Nam Hà, tua Mai Thọ Bích, tua Mả Trắng. Nắm thời cơ địch hoang mang rúng động trước các thất bại liên tiếp trên địa bàn tỉnh Long Khánh, Huyện ủy Xuân Lộc chỉ đạo các chi bộ xã phát động quần chúng nổi dậy kết hợp chặt chẽ với du kích, giải phóng các xã dọc lộ 1 từ ngã ba Ông Đồn đến căn cứ 5 (nay thuộc các xã Xuân Hòa, Xuân Hưng, Xuân Tâm, Xuân Thành, Suối Cao). Ở thị xã Long Khánh, lực lượng vũ trang cùng cơ sở quần chúng tiến công giải phóng toàn bộ các ấp ven, tạo thế đứng chân triển khai lực lượng cho chủ lực.

Chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng Trị Thiên, giải phóng Đà Nẵng và một loạt các tỉnh ven biển miền Trung tạo tâm lý hoảng loạn tùy nghi di tản, khiến địch tháo chạy tán loạn. Căn cứ thực tế chiến trường, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng hạ quyết tâm tập trung toàn lực lượng giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Tướng Uây-en (Weyand) cầm đầu một phái đoàn quân sự Mỹ sang Sài Gòn thị sát, nắm tình hình, tìm biện pháp giữ chế độ Sài Gòn không sụp đổ. Địch xây dựng tuyến phòng thủ Xuân Lộc với lực lượng mạnh[169], hi vọng ngăn chặn các mũi tiến công của Quân giải phóng tiến về Sài Gòn.

Thường vụ Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Xuân Lộc, đập tan tuyến phòng thủ cuối cùng của địch ở phiá Đông Sài Gòn, mở đường cho đại quân tiến về giải phóng Sài Gòn.[170]

5 giờ 30 sáng 9/4, chiến dịch Xuân Lộc mở màn. Trong ngày đầu tiến công, cờ giải phóng đã tung bay trên nóc dinh tỉnh trưởng, tòa hành chính tỉnh, tiểu khu Long Khánh, ty cảnh sát, trụ sở CIA và khu cố vấn Mỹ cư ngụ… phá hủy hệ thống phòng thủ, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Ở hướng Tây, bộ đội sư đoàn 6 và du kích địa phương giải phóng ấp Trần Hưng Đạo, làm chủ đoạn quốc lộ 1 dài hàng chục km, từ Hưng Lộc đến đèo Mẹ Bồng Con. Ở hướng Nam, lực lượng võ trang tỉnh phối hợp với bộ đội tiểu đoàn 9 chủ lực diệt viện từ Suối Cát về tỉnh lỵ Long Khánh, tiêu hao nặng 2 tiểu đoàn địch, bắt sống nhiều tù binh, giải phóng ấp Bảo Toàn.

Địch điều nhiều lực lượng về tiếp viện cho tỉnh lỵ, chấn chỉnh lại các lực lượng bị đánh tơi tả. Ngày 10/4, tiểu đoàn 7 sư đoàn 6 cùng du kích ấp Trần Hưng Đạo diệt phân chi khu Dầu Giây hồi 17 giờ. Sư đoàn 1 và đội biệt động thị xã Long Khánh đánh địch ở khu nhà thờ Long Khánh, đẩy lui hàng chục đợt phản kích quyết liệt của địch định chiếm lại ngã tư đường sắt. Ở hướng Nam, các đơn vị bộ đội chặn đánh địch ở Tân Phong, Suối Cát.

Từ khi chiến dịch mở màn, đội biệt động vũ trang Long Khánh và Mặt trận cùng các cơ sở triển khai vận động nhân dân đi sơ tán ra hướng Bình Lộc, Bàu Sen… Trước khi đi, nhiều gia đình đã múc đầy các phuy nước, để sẵn hàng bao gạo… cho bộ đội. Hàng trăm thanh niên tỉnh lỵ tham gia các đội thanh niên cờ đỏ, thanh niên xung kích… phục vụ chiến đấu, khiêng tải thương binh, có anh chị trực tiếp cầm súng giết giặc. 14 giờ, ngày 12/4, địch ném 2 trái bom CBU 55[171] cách 800 mét về hướng Bắc tỉnh lỵ. Đây là thứ vũ khí hủy diệt mới có sức tàn phá lớn, làm hàng trăm chiến sĩ và đồng bào hi sinh. 16 giờ ngày 14/4, sư đoàn 6 tấn công đập tan chiến đoàn 52, diệt gọn 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 chi đoàn cơ giới, 2 tiểu đoàn bộ binh, bắt hàng trăm tù binh. Bọn sống sót chạy thẳng một mạch về Biên Hòa.

Thắt chặt vòng vây phía tây tỉnh lỵ Long Khánh phối hợp với bộ đội chủ lực, Huyện ủy cao su chỉ đạo du kích hỗ trợ công nhân nổi dậy giải phóng các sở, ấp cao su, thu hồi bảo quản máy móc, thiết bị, vật tư sản xuất… Sở Bình Lộc giải phóng ngày 16/4. Ấp Suối Tre giải phóng ngày 19/4. Ngày 20/4 giải phóng ấp Cốc Rang và An Lộc. Một số chủ sở bỏ chạy, một số đầu hàng. Tài sản các sở được giữ gìn, bảo quản cẩn thận.

Ngày 18, 19/4 pháo địch bắn nhiều về hướng Bắc, chuẩn bị rút chạy khỏi thị xã, Du kích Cẩm Mỹ hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng làm chủ xã. 2 giờ sáng 21/4, tại cua chữ S, cua chữ C và ngã ba Cẩm Mỹ ta bắt nhiều tù binh, trong đó có viên đại tá tỉnh trưởng Long Khánh cùng một số sĩ quan phụ tá. 7 giờ sáng, công nhân đồn điền cao su Ông Quế nổi dậy làm chủ đồn điền lùng bắt nhiều tù binh.

8 giờ sáng 21/4, huyện Xuân Lộc hoàn toàn giải phóng, sạch bóng quân thù. Cánh cửa thép bảo vệ phía Đông Sài Gòn - thủ đô của chế độ Việt Nam cộng hòa - đã bị đập tan. Ngày 23/4/1975, tổng thống Mỹ Ford tuyên bố: Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã chấm dứt với người Mỹ.

Ủy ban quân quản tỉnh Long Khánh được thành lập do đồng chí Phạm Lạc làm chủ tịch. Chính quyền cách mạng các cấp được tổ chức, trật tự xã hội ổn định nhanh chóng.

Trước thắng lợi của các chiến trường, ngày 31/3/1975, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định: …lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân kết hợp 3 mũi đấu tranh, nổi dậy tiến hành Tổng công kích - tổng khởi nghĩa giải phóng toàn tỉnh. Ban thường vụ Tỉnh ủy ra quyết định:

1- Điều động toàn bộ lực lượng võ trang và 50 cán bộ các ban ngành đoàn thể tỉnh tập trung cho vùng trọng điểm Long Thành - Nhơn Trạch.

2- Sử dụng toàn bộ nội tuyến, cơ sở, cảm tình phục vụ Tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

3- Thành lập Ủy ban quân quản Biên Hòa nông thôn do đồng chí Võ Văn Lượng làm chủ tịch. Ở mỗi huyện, một đồng chí trong Thường vụ Huyện ủy làm chủ tịch Ủy ban quân quản huyện.

4- Giải phóng đến đâu, tổ chức cứu đói và cấp lương thực, phương tiện tổ chức đưa dân về quê cũ, nhất là số đồng bào miền Trung chạy vào.

5- Tỉnh đội triển khai lực lượng thực hiện chu đáo chính sách tử sĩ, thương binh, không để sót.

6- Huyện ủy Nhơn Trạch chuẩn bị huy động ít nhất 100 tàu, xuồng, ghe tại phà Cát Lái (Phú Hữu) để đưa bộ đội chủ lực qua sông tấn công vào Sài Gòn. 

Huyện ủy Long Thành huy động 100 dân công các xã Long An, Lộc An và các đồn điền cao su Bình Sơn, Cẩm Đường sửa đường 10 và đường 15B rộng 12 mét cho xe tăng chạy được, làm tới đâu ngụy trang tới đó. Huyện ủy rải truyền đơn và thông báo kêu gọi đồng bào vùng địch không nên chạy về phía địch, nên tạm tránh về vùng căn cứ, chính quyền chịu trách nhiệm đảm bảo an ninh cho bà con. Sáng 25/4, Huyện ủy phổ biến 10 điều kỷ luật của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền nam Việt Nam trong vùng giải phóng, chính sách hàng binh, chiến lợi phẩm, dân vận. Cán bộ được cử xuống các xã chờ giờ hành động.

Binh sĩ Sài Gòn rã ngũ, rải rác xin trình diện, nộp súng ở các xã. Hơn 40 tên tháo chạy ở Xuân Lộc bị bộ đội huyện và du kích Cẩm Đường bắt giữ, giáo dục rồi thả cho về với gia đình.

Ngày 26/4, huyện Long Thành đã huy động 128 tấn lương thực phục vụ cho chủ lực. Chị Ngọn ở Phước An - chồng đã hi sinh - góp 100 lít gạo. Đồng bào Phước Khánh ủng hộ 300 con vịt. Ông Ba Tố ở Phước Thái ủng hộ 1 con bò và 2 heo lớn. Bộ binh và xe tăng chủ lực về rừng Cẩm Đường, Bình Sơn, bà con mang xôi, thịt gà, hoa quả ra tặng. 16 giờ 30, sư đoàn 2 có 12 xe tăng mở đường, tiến ra mục tiêu Nước Trong. Cùng lúc đó, ở Bình Sơn bộ đội huyện và du kích tấn công đồn Nhà máy. Chi bộ lộ và mật sáp nhập làm một và lập Ủy ban quân quản.

Nắm thời cơ chủ lực tiến công địch, du kích xã Phước Thiền tấn công trụ sở xã và đồn Bến Cam, xã Phước Thiền hoàn toàn giải phóng. Dọc tỉnh lộ 19, du kích cùng đồng bào các xã Phước Long, Phước Thọ, Phước An nổi dậy giải phóng xã.

Du kích các xã Phước Nguyên, An Lợi, Tam An, Long Đức đồng loạt tiến công, địch chống cự yếu ớt rồi rút chạy. Xã Phước Nguyên là xã giải phóng đầu tiên của huyện Long Thành. Đại đội 27 cùng du kích xã Long An kêu gọi, 2 trung đội dân vệ ra hàng, nộp hết vũ khí. Cùng lúc đó, du kích xã Long Phước được bộ đội trung đoàn 4 giúp sức, đã lần lượt diệt đồn Hàng Dương, chốt ngã ba Nhà mát, chốt ấp Đất Mới, giải phóng hoàn toàn xã Long Phước.

15 giờ ngày 27/4, ta giải phóng căn cứ Nước Trong, 14 xe tăng địch đầu hàng, 30 chiếc bị bắn cháy. Cùng thời gian, đại đội 27 cùng du kích Long An tấn công địch ở đập nước Long An, bọn này bỏ chạy ra chốt ở cầu Hưu. Ta bao vây gọi hàng, gần một trung đội nộp súng, một số chạy vào ấp Thái Lạc. Các đồng chí Năm Tra, Tám Phương là nội ứng vận động 2 trung đội bảo an ra hàng, đồng bào nổi dậy phá đồn, xã Phước Long hoàn toàn giải phóng. Ở Bình Sơn, chi bộ đảng đẩy mạnh tấn công binh vận, kết hợp với một tiểu đoàn của sư 325 (quân đoàn 2) lùng bắt 96 tên trong đồn nhà máy. Đồn điền cao su Bình Sơn hoàn toàn giải phóng lúc 12 giờ. Dọc tỉnh lộ 17, cơ sở mật và quần chúng tấn công binh vận, 219 lính ra trình diện, nộp súng, hai xã Phú Hội, Long Tân được giải phóng. Chỉ trong đêm, Chị Hai - du kích xã Phú Hội - một mình bắt sống 1 tiểu đội bảo an. Hai cha con một gia đình nông dân Phước Thiền với cây gậy bắt sống 6 biệt động quân, thu 4 súng… Bộ đội quân đoàn 2 tiến về bao vây quận lỵ Nhơn Trạch, kho bom Thành Tuy Hạ, đặt pháo 130 li tại nổng nhà thờ, nổng Giăng Lò, nổng Bình Tuy, nổng Vĩnh Tuy thuộc hai xã Phú Hội, Long Tân. Đồng bào hai xã đón bộ đội rất nồng hậu. Tại vùng Rừng Sác, Đoàn 10 đặc công hỗ trợ du kích và nhân dân giải phóng các xã, ấp Giồng Ông Đông, Tam Thôn Hiệp, Lý Nhơn.

Ngày 28/4, cán bộ, nhân dân và du kích xã Phước Thái cùng đại đội 27 bao vây đồn Quán Chim, vận động toàn bộ binh lính ra hàng. Xã Phước Thái hoàn toàn giải phóng lúc 9 giờ 45. Tại bến Gò Dầu, 3 tàu quân sự nhỏ và 9 xuồng máy treo cờ trắng, gần 1 tiểu đoàn địch ra hàng. Ở ấp Thái Lạc, đồng chí Chín Công vận động, tuyên truyền cho linh mục Trần Quang Vũ 10 điều kỷ luật và chính sách 10 điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Linh mục Vũ đã vận động số lính dân vệ bỏ súng, dùng hai xe lam chở đầy vũ khí, máy móc, hồ sơ sổ sách nộp cho Ủy ban quân quản thị trấn Long Thành. Sáng 28/4, xã Phú Hội nấu tới 1350 xuất cơm trong khi mấy bữa trước chỉ nấu 1200 xuất/ngày cung cấp cho Sư đoàn 325.

4 giờ sáng ngày 29/4, pháo quân đoàn 2 bắn vào chi khu Nhơn Trạch và kho bom Thành Tuy Hạ. 8 giờ sáng, 200 lính quận ra hàng cùng viên trung tá quận phó. Viên chỉ huy phó kho bom Thành Tuy Hạ cũng đem lính ra hàng. Tiểu đoàn 240 cùng lực lượng địa phương giải phóng xã Vĩnh Thanh. Đến 10 giờ 30 phút, bốn xã cuối cùng của Nhơn Trạch được giải phóng: Vĩnh Thanh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh. Ở hướng Bắc huyện, cầu sông Buông được công binh sửa xong hồi 19 giờ. Lữ 203 tăng - thiết giáp qua cầu nhằm hướng Long Bình tiến tới. 22 giờ 10 phút, lữ 203 đánh tan 1 tiểu đoàn địch ở km 11 xã Phước Tân.

Trên tỉnh lộ 17, đến 22 giờ 30, tăng-thiết giáp ta đậu kín từ ngã ba xã Đại Phước đến phà Cát Lái. Bộ binh phân tán vào các xóm ấp ven đường, tất cả ở trong tư thế sẵn sàng vượt sông.

23 giờ, đồng bào Phước Khánh đưa xuồng ghe ra, Đoàn 10 được lệnh vượt sông chiếm các mục tiêu qui định.

0 giờ ngày 30/4, pháo 130 li của quân đoàn 2 nã vào sân bay Tân Sơn Nhất và các mục tiêu quân sự. Đồng thời hàng trăm ghe xuồng của đồng bào Nhơn Trạch chở bộ đội qua sông Cát Lái, tiền về Sài Gòn.

Biên Hòa (nông thôn) hoàn toàn giải phóng. Cánh cửa Đông - Nam Sài Gòn đã mở toang. 

Ở hướng bắc thành phố Biên Hòa, ngày 20/4/1975, bộ đội huyện Vĩnh Cửu và du kích phối hợp lực lượng chính trị của quần chúng tiến công giải phóng các xã Đại An, Tân Định, chi khu Công Thanh. Các xã dọc lộ 24 Tân Phú, Lợi Hòa, Bình Thạnh, Bình Phước, Tân Triều, Bình Ý, Bình Hòa quần chúng kết hợp mũi tiến công vũ trang với binh vận, kêu gọi địch đầu hàng. Sáng 30/4, huyện Vĩnh Cửu hoàn toàn giải phóng.      

Sáng ngày 9/4/1975 khi chiến dịch Xuân Lộc mở màn thì Thường vụ Khu ủy miền Đông mở hội nghị bàn kế hoạch giải phóng thành phố Biên Hoà[172]. Thường vụ nhận định: thành phố Biên Hòa là nơi tập trung các cơ quan đầu não của địch, lực lượng địch rất đông nhưng các quân đoàn 1 và 2 của địch ở miền Trung tan rã dồn về đây đã tác động tiêu cực tinh thần binh lính địch. Đó là thuận lợi để ta tiến công và nổi dậy giải phóng thành phố. Khu tăng cường 500 cán bộ các ngành của khu, 230 cán bộ nhân viên kỹ thuật chuẩn bị tiếp quản thành phố.

Ngay đêm 9/4, đồng chí bí thư Thành ủy vào nội ô bằng đường công khai, triển khai kế hoạch phát động quần chúng nổi dậy giải phóng quê hương, xây dựng các Ủy ban quân quản các xã[173] … chuẩn bị phát động quần chúng nổi dậy. Ban công vận Thành ủy gồm các đồng chí Lê Văn Triết, Nguyễn Văn Trung, Châu Văn Hoàng, Năm Hòa được phân công tiếp quản khu kỹ nghệ. Các đồng chí trong ban an ninh: Tư Minh, Tư Tường, Tư Quắn…. chiếm quận Đức Tu và ổn định trật tự trị an thành phố.

Đêm 14/4, Đoàn pháo binh Biên Hòa nã pháo 130 li vào sân bay Biên Hòa, phá hủy nhiều kho bom đạn, làm hư hại đường băng và một số máy bay. Nắm thời cơ, các chi bộ, đảng viên, cơ sở, cốt cán quần chúng trong thành phố Biên Hòa đẩy mạnh công tác binh vận, làm rã hàng ngàn lính địch, đồng thời chuẩn bị phát động nổi dậy giải phóng thành phố. Mọi việc đều làm kín đáo vì một bộ phận địch rất ngoan cố, nếu sơ hở thì tổn thất khôn lường.

Ngày 16/4, Thành ủy Biên Hòa ra nghị quyết: “… phóng tay phát động quần chúng khởi nghĩa và công kích của địa phương, giành toàn bộ chính quyền địch từ ấp, xã, quận, tỉnh về tay nhân dân. Tổ chức lực lượng chính trị, lực lượng võ trang đủ sức tiếp quản thành phố, hãng xưởng, điện nước, khu phố, ấp xã. Tổ chức chỉ đạo mọi mặt để kịp thời đảm đương việc quản lý thành phố và các xã ven, ổn định quần chúng, giải quyết tốt đời sống nhân dân”. Nghị quyết xác định các mục tiêu trọng điểm: sân bay Biên Hòa, quân đoàn 3, tổng kho Long Bình. Khi bộ đội chủ lực đánh tới thì lực lượng tại chỗ phát động quần chúng nổi dậy cướp chính quyền, hợp điểm là tòa hành chính tỉnh Biên Hòa[174]. Ngày 23/4, Thường vụ Khu ủy chỉ định Ủy ban quân quản thành phố Biên Hòa gồm 5 đồng chí.[175] Ngày 26/4, bộ Tư lệnh quân đoàn 3 ngụy rút chạy về Gò Vấp. Trước thời cơ thuận lợi chưa từng có, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Biên Hòa ra lời kêu gọi: ”…Thời cơ lịch sử chấm dứt toàn bộ chế độ phản dân hại nước của ngụy quyền tay sai đã đến. Hãy anh dũng tiến lên xứng đáng với truyền thống Biên Hòa, truyền thống bất khuất của chiến khu Đ, Bình Đa, Vĩnh Cửu, Bà Bông, truyền thống Đồng Nai oai hùng. Truyền đơn in Lời kêu gọi phân tới các chi bộ, các Ủy ban khởi nghĩa địa phương, động viên tinh thần nhân dân thành phố Biên Hòa.

Đêm 26/4, bộ đội đặc công Đoàn 113 đánh chiếm cầu xa lộ Đồng Nai, chiếm luôn một góc tổng kho Long Bình.

17 giờ 30 ngày 27/4/1975, pháo ta nã cấp tập vào sân bay và tổng kho Long Bình. Các lực lượng vũ trang đánh chiếm kho Long Bình, căn cứ Hóc Bà Thức, đánh giữ cầu Gành, đảm bảo hướng phát triển của chủ lực vào Sài Gòn.  

Sáng 29/4, đại tá Lưu Yểm, tỉnh trưởng Biên Hòa, chạy trốn về Sài Gòn. Nha cảnh sát miền đông, ty cảnh sát Biên Hòa, chi khu Đức Tu cũng theo chân tỉnh trưởng. Cùng thời gian này, anh em tù chính trị tại nhà lao Tân Hiệp nổi dậy phá khám. Ủy ban khởi nghĩa xã Bình Trước huy động cơ sở mật (chị Ngọc, chị Hiền…) và cán bộ vào phá cửa giải thoát hàng trăm tù chính trị. Ai ở gần thì tự lực về nhà, số ở xa được chi bộ và Ủy ban khởi nghĩa xã Bình Trước vận động bà con cho ăn và ủng hộ tiền lộ phí về quê. Chiều ngày 29/4, ban Công vận tiến vào khu kỹ nghệ. Chị Hạnh - vợ anh Hai Điểu, cơ sở mật  -  may 8 cờ lớn, 12 cờ nhỏ và nhiều băng đeo tay cho tự vệ mật và cơ sở ta. Đêm 29/4 ta đánh chiếm công ty SONADEZI, cơ sở nội tuyến đưa về 2 xe bọc thép  nguyên vẹn.

6 giờ 30 sáng 30/4, các anh Hai Điểu, Mười Tăng treo cờ Mặt trận trên nóc trụ sở SONADEZI, lần lượt các nhà máy Cogido, đường Biên Hòa, vỏ xe, bột ngọt, viện kiểm định chuẩn cũng treo cờ. Cơ sở cốt cán ở 17 nhà máy nổi dậy chiếm xưởng, cắm cờ, tổ chức lực lượng công nhân thành các đội tự vệ giữ gìn nguyên vẹn các nhà máy. 2 xe bọc thép tiến chiếm trại Trần Quốc Toản rồi về dinh tỉnh trưởng.

Trong nội ô, đồng chí Trương Thị Sáu được một nội tuyến biệt động quân bảo vệ, vào tòa hành chính Biên Hòa hạ cờ ngụy, kéo cờ Mặt trận. Các cơ sở lần lượt treo cờ giải phóng ở dinh tư lệnh quân đoàn 3, ty quân cảnh, ty cảnh sát, nha cảnh sát miền Đông, chi khu Đức Tu … 

10 giờ sáng, tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội Sài Gòn đầu hàng không điều kiện. 10 giờ 30, Ủy ban quân quản thành phố Biên Hòa và trung đoàn 5 vào tiếp quản tòa hành chính tỉnh và các cơ quan quan trọng theo đúng kế hoạch đã vạch.

Ngày 30/4/1975 là một mốc lịch sử quan trọng của nhân dân Đồng Nai. Sau ba mươi năm chịu đựng vô vàn hi sinh mất mát to lớn, Đảng bộ và quân dân Đồng Nai kết hợp tiến công và phát động quần chúng nổi dậy giải phóng quê hương, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất với công tác dân vận là một trong “bộ ba pháp bảo(Đảng theo chủ nghiã Mác - Lênin; Mặt trận dân tộc thống nhất đoàn kết toàn dân không phân giai cấp, dân tộc, tôn giáo; lực lượng võ trang nhân dân) đảm bảo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công trong những nước có nền kinh tế chậm phát triển và có thời gian bị đế quốc thống trị. Quân dân tỉnh ta đã viết tiếp những dòng truyền thống hào hùng, tô thắm bản sắc người Đồng Nai đá lửa.


CHƯƠNG VIII

MẶT TRẬN TỔ  QUỐC TỈNH ĐỒNG NAI

THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI

(1975 – 1985)

Trong chiến dịch mùa xuân lịch sử năm 1975, tỉnh Tân Phú được giải phóng sớm nhất (ngày 20-3-1975); hai tỉnh Biên Hòa (Biên Hòa đô thị và Biên Hòa nông thôn) và tỉnh Bà Rịa - Long Khánh được giải phóng hoàn toàn vào ngày 29 và 30 tháng 4 năm 1975.

Ngay từ trước khi thực hành tiến công và nổi dậy giải phóng các địa phương, Khu ủy miền Đông đã dự kiến và chỉ định thành lập Ủy ban Quân quản các tỉnh Tân Phú, thành phố Biên Hòa, tỉnh Biên Hòa (nông thôn), tỉnh Bà Rịa - Long Khánh và thành phố Vũng Tàu[176]. Do đó, ngay khi vừa giải phóng các tỉnh, Ủy ban quân quản các tỉnh, thành phố đã bắt tay vào việc tiếp quản, ổn định trật tự xã hội, an ninh địa bàn và đời sống nhân dân vùng mới giải phóng.

Thành phố Biên Hòa là một đô thị lớn ở miền Đông Nam bộ (nơi có nhiều căn cứ quân sự lớn, cơ quan chỉ huy đầu não của Mỹ ngụy ở miền Đông). Ngày 1-5-1975, Ban chấp hành Khu ủy Miền Đông do đồng chí Lê Quang Chữ (Năm Chữ) làm Bí thư, Ủy ban nhân dân cách mạng Miền Đông do đồng chí Nguyễn Văn Hòa (Năm Hòa) làm Chủ tịch đã về tiếp quản và đứng chân, chỉ đạo mọi mặt phong trào ở miền Đông.

Tùy theo đặc điểm từng tỉnh, thành phố, Khu ủy chỉ đạo các Ủy ban Quân quản tổ chức lễ ra mắt trước quần chúng. Những cuộc lễ này ở các địa phương được tổ chức trang trọng, thật sự là ngày hội lớn của nhân dân các địa phương, biểu lộ niềm vui và nguyện vọng bao đời của quần chúng: Đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Các Ủy ban Quân quản tuyên bố chính quyền cách mạng thật sự thuộc về nhân dân; nêu bật truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc; đồng thời công bố chính sách 10 điểm của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, thực hiện hoà hợp hòa giải dân tộc, đoàn kết không phân biệt tôn giáo, dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội để xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, ấm no hạnh phúc.

Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Khu ủy miền Đông và các Đảng bộ, Ủy ban Quân quản các huyện, đồn điền đến xã, phường, thị trấn, ấp đều được xây dựng, đảm bảo an ninh trật tự và thực hiện mọi chỉ đạo của cấp trên.

Vui niềm vui giải phóng miền Nam, tiền đề cho việc thực hiện thống nhất đất nước, nhưng Ủy ban Quân quản và nhân dân các tỉnh phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, gay gắt nhất là tình trạng thiếu lương thực: Do chiến tranh tàn phá, nhiều ruộng đất bị bỏ hoang, cả tỉnh chỉ có 40.000 ha lúa nước chỉ cấy một vụ, trong khi diện tích màu không đáng kể, sản lượng lương thực bình quân đầu người năm 1975 chỉ có 89 kg vào loại thấp nhất cả nước[177]. Trong sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp các xí nghiệp, cơ sở sản xuất đều thiếu nguyên liệu, phụ tùng thay thế vì trước đây hầu hết phải nhập từ nước ngoài; trong khi nguyên liệu tại chỗ chưa được khai thác. Một số thợ lành nghề, cán bộ kỹ thuật, nhất là ở khu kỹ nghệ Biên Hòa, bỏ việc…

Về mặt xã hội, những hậu quả do chiến tranh để lại vô cùng nặng nề: hàng chục vạn ngụy quân, ngụy quyền tan rã tại chỗ; do chính sách gom dân lập ấp chiến lược của địch, do chiến tranh, hàng chục ngàn đồng bào bỏ ruộng vườn, nhà cửa trở ra thành thị làm ăn, tình trạng thiếu việc làm là phổ biến.

Hơn 20 năm dưới chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ đã để lại hậu quả xã hội đáng quan tâm: với 20.000 tội phạm hình sự, 3.000 lưu manh chuyên nghiệp, 20.000 gái mại dâm, 3.500 đối tượng xì ke ma túy. Nhiều người không có việc làm, chiến tranh còn để lại nhiều thương phế binh ngụy là gánh nặng thêm cho xã hội. Những thói hư tật xấu, lối sống thực dụng và văn hóa phẩm đồi trụy chưa được cải tạo đã tác động, đầu độc một bộ phận nhân dân. Ngoài ra, Biên Hòa, Long Khánh, Tân Phú còn là những địa bàn có nhiều dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo mang những đặc điểm về lợi ích, nguyện vọng khác nhau, kẻ thù luôn lợi dụng để kích động gây chia rẽ, chống phá cách mạng.

Trước những khó khăn, phức tạp trên, các Đảng bộ, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng các tỉnh thông qua hệ thống tổ chức của mình được xây dựng đến cấp cơ sở, phối hợp cùng các đoàn thể cách mạng, lực lượng vũ trang đã tích cực tham gia phân loại, tổ chức các lớp học tập cải tạo cho số nhân viên ngụy quyền, sĩ quan binh lính chế độ Sài Gòn; đẩy mạnh tuyên truyền truyền thống đấu tranh, đoàn kết của dân tộc, chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc của Mặt trận Dân tộc giải phóng; vừa vận động nhân dân tham gia khẩn hoang, đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân ở thành phố, thị trấn trở về quê cũ ổn định sản xuất, đời sống, từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh; vừa phải tiến hành trấn áp bọn phản động, truy quét bọn tàn quân chống phá cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Các lực lượng vũ trang, an ninh, tự vệ... phát động quần chúng truy bắt nhiều tên tội phạm hình sự, bọn lưu manh chuyên nghiệp, gái mại dâm, xì ke, ma túy, góp phần làm trong sạch địa bàn, bảo vệ tài sản nhân dân.

Qua phong trào phát động quần chúng với sự giúp đỡ, cộng tác của nhân dân, trong năm 1975, lực lượng vũ trang các tỉnh đã phá vỡ nhiều tổ chức nhen nhóm phản động chống phá cách mạng, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ chính quyền và nhân dân[178].

 Về giáo dục: Ty Giáo dục miền Đông đã tổ chức các lớp tập huấn về chính trị, chuyên môn cho giáo viên các cấp theo chương trình mới nhằm từng bước cải tạo nền giáo dục cũ, công lập hóa các trường tư thục, xây dựng hệ thống giáo dục và nội dung giáo dục mới xã hội chủ nghĩa. Đến tháng 9 năm 1975, ngành giáo dục các tỉnh đã tổ chức lễ khai giảng niên học mới cả 3 cấp I, II, III. Các trường mẫu giáo, nhà trẻ cũng đi vào hoạt động… Ngay năm học đầu tiên sau ngày giải phóng (1975 – 1976) đã có 186.670 học sinh phổ thông cơ sở và 5.500 học sinh phổ thông trung học đến trường. Sự nghiệp y tế, giáo dục, thể thao, văn hóa văn nghệ được cải tạo và phát triển cùng với mọi hoạt động xã hội khác thể hiện ý chí, nguyện vọng hướng về chế độ mới của nhân dân đoàn kết xung quanh Mặt trận Dân tộc giải phóng khu Đông Nam bộ.

Ngày 29-9-1975, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 24 (khóa III) đã ra nghị quyết “Về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó nhấn mạnh “nhiệm vụ hàng đầu trong cả nước là hoàn thành sự nghiệp thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Về việc tăng cường sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, nghị quyết đề ra “Trong cả nước thực hiện chế độ quản lý hành chính theo 4 cấp Trung ương, tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, huyện và xã”. Để thực hiện nhiệm vụ thống nhất lãnh đạo và quản lý hành chính trong cả nước, nghị quyết chỉ rõ: “Giải thể Trung ương cục miền Nam, giải thể các Khu ủy ở hai miền, đồng thời thành lập Ban đại diện Trung ương Đảng và chính phủ ở miền Nam, một hình thức tổ chức làm việc để thực hiện sự chỉ đạo tại chỗ của Bộ chính trị, Ban bí thư và Chính phủ”. Và “Tổ chức đó phải gọn nhẹ, chỉ tồn tại một thời gian và không phải là một cấp trung gian giữa Trung ương và tỉnh, không cản trở mối quan hệ dọc giữa Bộ, Tổng cục ở Trung ương với các cơ quan chuyên môn cấp thành, tỉnh[179].

Nghị quyết 24 còn chỉ rõ: “Hợp nhất các tỉnh thành những đơn vị hành chính - kinh tế với quy mô cần thiết”.

Thực hiện nghị quyết 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), tháng 11-1975, nhân dân Biên Hòa, Long Khánh, Tân Phú hoà trong niềm vui chung của dân tộc, đón chào sự kiện trọng đại của đất nước: Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc được tổ chức tại dinh Thống Nhất, thành phố Sài Gòn[180].

          Trung ương Cục miền Nam đã ra Nghị quyết 12 để chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 24 Trung ương và Nghị định 16 Chính phủ về việc giải thể các khu thành lập các tỉnh mới. Tháng 1/1976 tỉnh Đồng Nai chính thức thành lập trên cơ sở sáp nhập các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa - Long Khánh và Tân Phú cũ.

Tỉnh Đồng Nai có diện tích 8.360 km2, giáp các tỉnh Sông Bé, Thuận Hải, Lâm Đồng và thành phố Hồ Chí Minh, gồm có thành phố Biên Hòa - là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh và các huyện: Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Long Thành, Long Đất, Châu Thành, Xuân Lộc, Tân Phú, Duyên Hải, thị xã Vũng Tàu (đến 30-4-1976, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai ra Nghị quyết 06 lập huyện Xuyên Mộc tách khỏi huyện Long Đất). Dân số toàn tỉnh 1.223.683 người. gồm nhiều dân tộc, trong đó dân tộc kinh chiếm tỷ lệ 92,8%.

Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Đồng Nai được Trung ương Cục miền Nam chỉ định do đồng chí Lê Quang Chữ, nguyên Bí thư Khu ủy làm Bí thư; Phạm Văn Hy phó Bí thư thường trực; Nguyễn Văn Trung phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh; Nguyễn Văn Hòa ủy viên thường vụ phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh[181]. Như vậy gần như Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Đồng Nai gồm hầu hết các đồng chí nguyên là thường vụ và khu ủy viên miền Đông Nam bộ trước đây.

Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai khẳng định phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân quyết định cho thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến. Trong đó vai trò của Mặt trận là hết sức quan trọng, là cầu nối giữa quần chúng với Đảng và Nhà nước. Cần phải vận dụng bài học đó vào việc xây dựng tổ chức và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử Mặt trận Tổ quốc của tỉnh từ đây đã được mở sang trang mới.

I. TIẾP TỤC PHÁT HUY VAI TRÒ MẶT TRẬN TRONG THỜI KỲ CÁCH MẠNG MỚI, CÙNG CẢ NƯỚC THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

I.1. Ra mắt Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Đồng Nai 

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng là tổ chức nòng cốt để tập hợp rộng rãi các tầng lớp quần chúng, tuyên truyền chính trị và phát động phong trào đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, kinh tế, văn hóa, xã hội… Vì vậy ngay từ những ngày đầu miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ các cấp đã chỉ đạo tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận Dân tộc giải phóng trong điều kiện mới.

Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời tỉnh Đồng Nai (1/1976) đã thành lập Ban Dân vận Mặt trận và Đảng đoàn Mặt trận. Ban Dân Vận Mặt trận tỉnh gồm 08 đồng chí: Nguyễn Thị Bạch Tuyết, ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban; Võ Văn Vân, Tỉnh ủy viên, Phó Ban; Nguyễn Thị Minh, Phó Ban; Nguyễn Thành Long, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh thành viên; Nguyễn Thị Nhuần, Tỉnh ủy viên, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, thành viên; Nguyễn Việt Nhân, Bí thư Tỉnh đoàn, thành viên; Lê Văn Triết, thành viên và đồng chí Nguyễn Tạo, ủy viên thường trực.

Đến tháng 03 năm 1976, theo hướng dẫn của Ban Dân vận Mặt trận Trung ương, sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai; Ban Dân vận đã tổ chức hội nghị Đại biểu Mặt trận giải phóng toàn tỉnh, có 80 đại biểu về dự. Hội nghị đã thảo luận về vai trò vị trí, chức năng và tổ chức của Ban Dân vận Mặt trận tỉnh, huyện; chuẩn bị ra mắt Ủy ban Mặt trận Giải phóng tỉnh, thảo luận chương trình công tác Mặt trận thời gian tới và giới thiệu ứng cử viên Đại biểu Quốc hội thống nhất trong cả nước.

Trong Hội nghị, đồng chí Nguyễn Thành Long, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Khu Đông Nam bộ báo cáo: Thực hiện Nghị quyết 24 Trung ương, Nghị quyết 12 Trung ương Cục miền Nam và chỉ thị 16 Chính phủ về việc xây dựng thống nhất hệ thống tổ chức, quản lý hành chính mới, Ủy ban Mặt trận khu Đông Nam bộ đã tổ chức hội nghị liên tịch với Ban chấp hành các đoàn thể khu và tỉnh, tạm thời đề cử Ủy ban Mặt trận tỉnh Đồng Nai gồm 10 người để thi hành nhiệm vụ. Đến nay tình hình trong tỉnh đã ổn định, để phát huy đúng mức vai trò Mặt trận trong tình hình mới, nhất là thực hiện nhiệm vụ tổng tuyển cử Quốc hội sắp tới; Ủy ban Mặt trận tỉnh cần được củng cố mở rộng thành phần để tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Hội nghị nhất trí bổ sung, thông qua thành phần Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Đồng Nai gồm 21 thành viên (có đủ đại biểu đại diện các đoàn thể cách mạng, dân tộc, các tôn giáo, tư sản dân tộc, nhân sĩ trí thức…). Hội nghị đã cử ra Ban thường trực và thành phần các tiểu ban của Ủy ban Mặt trận để chuẩn bị cho lễ ra mắt chính thức.

Ngày 24 tháng 03 năm 1976, thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng, sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai, Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Đồng Nai chính thức thành lập. Lễ ra mắt được tổ chức trang trọng với sự có mặt của các đồng chí lãnh đạo Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam, Tỉnh ủy Đồng Nai, đại diện các cơ quan Quân – Dân – Chính - Đảng các cấp; các nhân sĩ trí thức tiêu biểu trong tỉnh, chức sắc Tôn giáo, đại diện các giai cấp, dân tộc trong tỉnh.

Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Đồng Nai, gồm 21 ủy viên do ông Nguyễn Thành Long nguyên Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng Khu Đông Nam bộ làm Chủ tịch. Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Đồng Nai thành lập là một sự kiện có ý nghĩa chính trị lớn, thể hiện đường lối đại đoàn kết toàn dân của Đảng. Từ đây dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Mặt trận sẽ là một tổ chức chính trị rộng lớn nhằm tập hợp toàn dân phát huy sức mạnh, trí tuệ của toàn xã hội nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Đồng Nai đề ra những nhiệm vụ chính của Mặt trận:

- Mở rộng Mặt trận đoàn kết toàn dân, nhanh chóng xây dựng mạng lưới Mặt trận, các đoàn thể cách mạng từ tỉnh xuống cơ sở.

- Tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc, vận động toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, trấn áp bọn phản cách mạng, ổn định trật tự xã hội.

- Vận động phong trào quần chúng ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, phát triển sự nghiệp văn hóa - giáo dục, y tế, ổn định đời sống nhân dân.

I.2. Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; tuyên truyền chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc; hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định sản xuất, đời sống; xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng

Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh chung của cả nước, Đồng Nai là tỉnh có các đặc điểm: nhiều dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nhiều giai cấp, nhiều thành phần kinh tế, xã hội mang những nguyện vọng và lợi ích khác nhau. Đó là chưa kể do mấy chục năm chiến tranh, do những âm mưu và thủ đoạn chia rẽ của kẻ địch không chỉ để lại những hậu quả nặng nề về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội mà còn tạo ra sự phân hóa trong xã hội, giai cấp, tầng lớp quần chúng, nhất là những vấn đề tâm lý, nhận thức, thành kiến và mặc cảm của không ít người, nhất là những người đã từng cộng tác với chế độ cũ.

Trong tình hình đó, Ủy ban Mặt trận tỉnh xác định nhiệm vụ cấp bách trước mắt là tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước và cách mạng của nhân dân, tiếp tục mở rộng Mặt trận đoàn kết dân tộc đã được hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh giành độc lập để cùng với hệ thống chính trị xây dựng sức mạnh tổng hợp, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”.

Để phát huy vai trò và tác dụng to lớn của tổ chức Mặt trận trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải có những giải pháp mới, cách nghĩ và cách làm mới. Mặt trận phải tiếp tục phát triển theo hướng củng cố, không ngừng mở rộng nhằm đoàn kết các tổ chức chính trị, xã hội và cá nhân thuộc các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, xã hội, tôn giáo, dân tộc và đồng bào Việt Nam sống ở nước ngoài cùng nhau đồng tâm, hiệp lực, hành động thống nhất vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt trận phải là tổ chức rộng rãi nòng cốt, đại diện cho khối liên minh toàn thể dân tộc để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Những ngày đầu giải phóng dưới sự lãnh đạo của Khu ủy Miền Đông và các Đảng bộ, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng đã cùng với Ủy Ban quân quản từ tỉnh xuống huyện, các đoàn thể cách mạng thành viên như Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn, Nông Hội và Hội liên hiệp phụ nữ đã triển khai ngay nhiệm vụ tuyên truyền đường lối của Đảng, 10 chính sách mặt trận để nhanh chóng ổn định tình hình, đoàn kết các tầng lớp giai cấp trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh. Theo báo cáo của Ban Dân vận Mặt trận tỉnh, đến tháng 09/1976 thực lực Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, trong các đoàn thể cách mạng được tập hợp như sau:

Mặt trận Tổ quốc: Ủy ban Mặt trận tỉnh gồm 21 thành viên, trong đó có 01 linh mục, 01 hòa thượng, 01 nhà tư sản, 03 trí thức, có 05 ủy viên chuyên trách. Có 04/10 huyện, thị xã, thành phố đã thành lập được Ủy ban Mặt trận. Trong số ủy viên Ủy ban Mặt trận của 04 huyện có 01 hòa thượng, 02 đại đức, 03 linh mục và 04 nhà tư sản dân tộc.

Công đoàn: Đã phát triển được 10.717 đoàn viên trên tổng số 50.000 công nhân viên chức lao động, đạt tỉ lệ 20%. Có 101 ban Chấp hành Công đoàn cơ sở với 525 ủy viên và 113 Ban Chấp hành Công đoàn bộ phận với 401 ủy viên, 951 tổ Công đoàn với 1.551 cán bộ tổ trưởng và tổ phó.

Hội Phụ nữ: Ban Chấp hành hội Phụ nữ tỉnh có 15 ủy viên. 09/10 Ban Chấp hành hội Phụ nữ các huyện, thị xã, thành phố; 153 Ban Chấp hành hội Phụ nữ xã trên tổng số 161 xã, phường, thị trấn; thực lực của hội gồm: 2.722 tổ Phụ nữ giải phóng với 40.116 hội viên, 10.038 tổ Phụ nữ đoàn kết với 168.262 hội viên, 509 tổ hội mẹ với 7.011 hội viên. Tổng số hội viên Phụ nữ toàn tỉnh là 215.481 đạt 67% phụ nữ trong độ tuổi vào hội.

Nông hội: Ban Chấp hành Nông hội tỉnh có 15 ủy viên, 09/10 huyện, thị xã, thành phố có ban Chấp hành hội, 97/117 xã có ban Chấp hành hội. Thực lực của Nông hội gồm: 2.200 tổ nông hội với 31.105 hội viên, 1.007 tổ đoàn kết với 18.494 hội viên và 523 tổ vần đổi công với 10.500 hội viên. Tổng số hội viên nông hội toàn tỉnh là 60.104 hội viên đạt 16% nông dân.

Thanh niên: Ban Chấp hành Tỉnh đoàn có 21 ủy viên, 12 Ban Chấp hành cấp huyện và tương đương; 184 chi đoàn, 05 xã đoàn với 1.995 đoàn viên Thanh niên Lao động Việt Nam; 449 chi hội thanh niên giải phóng với 37.851 hội viên, 2.004 tổ đoàn kết với 61.885 thanh niên. Tổng số đoàn viên, hội viên thanh niên là 101.689 đạt 20% tổng số thanh niên.

Nhìn vào cơ cấu tổ chức và số lượng hội viên, đoàn viên cách mạng tập hợp được chỉ trong một thời gian ngắn cho ta thấy được sự nỗ lực của Mặt trận và các tổ chức thành viên. Chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc, xây dựng đất nước là mục tiêu để tập hợp quần chúng.

Hoạt động của tổ chức Mặt trận không chỉ bó hẹp trong công tác tuyên truyền chính trị, động viên nhân dân đoàn kết mà còn đi sâu vào quảng đại quần chúng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng trên mọi mặt đời sống xã hội.

Qua tuyên truyền đường lối chủ trương, chính sách hòa hợp dân tộc của Đảng, nhân dân lao động từ thân phận kẻ làm thuê, bị áp bức bóc lột đã ý thức được địa vị của người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, hăng hái gia nhập các đoàn thể chính trị xã hội, góp phần xây dựng chính quyền trong buổi đầu non trẻ. Chính quyền nhân dân được xây dựng đều khắp từ tỉnh xuống cơ sở, quan hệ giữa quần chúng nhân dân với chính quyền được củng cố. Cuộc bầu cử Quốc hội chung của cả nước ngày 25/4/1976 đã thật sự là ngày hội của toàn dân. Hơn 30 năm kể từ ngày bầu cử Quốc Hội khóa đầu tiên (2-1-1946) nhân dân tỉnh nhà mới được vinh dự cầm lá phiếu tự do để bầu người đại diện cho mình. Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp cũng đạt được kết quả tốt đẹp, có hơn 97% cử tri toàn tỉnh đã hăng hái đi bầu. Qua các cuộc sinh hoạt chính trị và phong trào cách mạng của quần chúng đã phát hiện và thải loại dần những phần tử cơ hội, phản động khỏi chính quyền, bổ sung những người tốt, tích cực được nhân dân tín nhiệm, nên vai trò của chính quyền nhân dân từng bước được phát huy.

Kết hợp công tác phát động quần chúng với hoạt động của lực lượng vũ trang, chính quyền cách mạng đã phát hiện hàng ngàn sỹ quan, binh lính trốn trình diện, trốn cải tạo; làm tan rã nhiều tổ chức phản động âm mưu phá hoại công cuộc xây dựng đất nước. Chính quyền cách mạng đã vận động và tổ chức cho 122.590 người là đối tượng ngụy quân, ngụy quyền, tình báo, gián điệp và những tên phản động đội lốt trong các tổ chức tôn gíáo ra trình diện học tập, cải tạo. Hàng ngàn nhân viên từng cộng tác với chính quyền Sài Gòn, binh lính chế độ cũ sau học tập đã được chính quyền xét khôi phục quyền công dân để tham gia bầu cử Quốc hội thống nhất, thể hiện rất rõ chính sách nhất quán của cách mạng, lấy hòa hợp hòa giải dân tộc làm đầu để đoàn kết toàn dân nhanh chóng ổn định mọi mặt lao động sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.

Góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, Mặt trận và các đoàn thể đã vận động 100.000 dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới, trở về quê cũ khai hoang phục hóa, tham gia sản xuất, bước đầu giải quyết nạn thất nghiệp, thiếu đói do chế độ cũ để lại, giảm bớt khó khăn, ổn định đời sống nhân dân. Kết quả đã mở thêm 50.000 ha đất canh tác ở một số xã kinh tế mơí như Cẩm Đường, Suối Quýt, Ngãi Giao, Hoà Bình… Chính quyền cách mạng tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp như thủy lợi, phân bón, giống … chỉ gần hai năm sau ngày giải phóng nhân dân trong tỉnh đã tham gia hơn hai triệu ngày công đào đắp 175 km kênh mương, sửa chữa và làm mới 18 công trình thủy lợi tưới tiêu cho gần 20.000 ha cây lương thực. Mở rộng diện tích lúa đông xuân và hè thu được 12.000 ha. Một số biện pháp kỹ thuật như sử dụng giống mới, bừa cỏ xục bùn, gieo thẳng, phát động phong trào làm phân xanh, phân chuồng… được áp dụng rộng rãi. Do đó, diện tích, năng xuất, sản lượng tăng nhanh. Gần hai năm diện tích tăng 69%, sản lượng lương thực tăng 66%, bình quân lương thực đầu người đạt 160 kg một năm, so với năm 1975 là 89 kg.

Về sản xuất công nghiệp, bao gồm cả công nghiệp Trung ương và địa phương đều được khôi phục và phát triển. Trước giải phóng, khu công nghiệp Biên Hòa có 94 xí nghiệp, nhưng chỉ có 36 xí nghiệp hoạt động. Đến tháng 2/1977, với chính sách lưu dụng hợp lý, sự chi viện nhân lực của Trung ương, đã có 58 xí nghiệp sản xuất và hàng ngàn cơ sở tiểu thủ công nghiệp được khôi phục và xây dựng thêm.

Trên lĩnh vực hoạt động văn hóa - giáo dục, y tế… đã cố gắng cải tạo, sử dụng cơ sở vật chất cũ và phát triển mới, khôi phục, đảm bảo hoạt động các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền thanh, sách báo, văn nghệ quần chúng, triển lãm, điện ảnh, thể dục, thể thao và các phong trào vệ sinh phòng bệnh, xóa mù chữ… đã góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục đường lối chính sách của Đảng và nền văn hóa giáo dục cách mạng cho nhân dân, góp phần xây dựng nền văn hóa mới… đẩy lùi những tàn dư nọc độc văn hóa phản động, đồi trụy của chủ nghĩa thực dân mới. Phát triển các ngành học kể cả mẫu giáo, phổ thông, bổ túc văn hóa, bình dân học vụ, cả số lớp và số lượng học sinh đến trường, kết quả năm học (1976-1977) so với năm học (1975-1976) số lớp mẫu gíao tăng 39,7%, số học sinh tăng 16,2%; số lớp học phổ thông tăng 23%, số học sinh tăng 22,4%; riêng số học sinh bổ túc văn hoá tăng 10,6%. Ở một số địa phương như Long Thành, Tân Phú đã tổ chức các lớp bổ túc văn hóa, cho cán bộ, du kích xã, ấp, kể cả các lớp bình dân học vụ, đạt 61% số người trong diện phải xóa mù chữ đã biết chữ. Toàn tỉnh đã có 01 huyện, 01 thị xã  và 50 xã phường được công nhận xóa nạn mù chữ.

Mặt trận dân tộc giải phóng Khu Đông Nam bộ, Mặt trận dân tộc giải phóng sau ngày giải phóng 30/04/1975 đầy khó khăn, đã có những nỗ lực rất lớn trong việc xây dựng tổ chức lực lượng, đoàn kết toàn dân, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách hòa hợp dân tộc của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, là lực lượng để tổ chức, xây dựng chính quyền cách mạng và các đoàn thể chính trị xã hội, nhanh chóng làm nhiệm vụ tiếp quản, ổn định mọi mặt chính trị xã hội; vừa trực tiếp vận động và tổ chức các phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự hỗ trợ của lực lượng võ trang, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, trấn áp bọn phản cách mạng, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự xã hội; khôi phục và phát triển sản xuất, giải quyết nạn đói, ổn định mọi mặt sinh hoạt xã hội của nhân dân… xây dựng và khẳng định niềm tin tưởng của quần chúng nhân dân vào chế độ mới.

II. MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH ĐỒNG NAI QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP VÀ PHÁT TRIỂN QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI (1975 – 1985)

II.1. Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam

Hội nghị cán bộ Dân vận Mặt trận ở miền Nam ngày 27/10/1976, tại TP. Hồ Chí Minh đã triển khai nghị quyết Bộ Chính trị (07/1976) về công tác trước mắt ở miền Nam và xác định 03 nhiệm vụ của công tác dân vận Mặt trận là: đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng mà phong trào trung tâm là “thi đua lao động sản xuất cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội”; tích cực vận động quần chúng tham gia đấu tranh xóa bỏ tư sản mại bản, tàn dư địa chủ phong kiến, tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh; ra sức xây dựng nền văn hóa mới nếp sống mới và phong trào xây dựng, bảo vệ chính quyền của dân, do dân, vì dân. Tăng cường giáo dục chính trị, kết hợp chặt chẽ công tác chính trị tư tưởng với các phong trào hành động cách mạng. Đồng thời ra sức xây dựng lực lượng cách mạng của quần chúng, tập hợp quần chúng, kiện toàn hệ thống tổ chức Mặt trận, đoàn thể tới cơ sở.

Tháng 12 năm 1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng một sự kiện trọng đại trong lịch sử cách mạng của dân tộc, Đại hội chiến thắng, thống nhất đất nước, Bắc Nam xum họp một nhà, đã đề ra đường lối cách mạng của cả nước tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, cùng với việc xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghiã.

Ngày 8/3/1977, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV) đã ra Chỉ thị số 05 về tăng cường công tác dân vận và Mặt trận. Chỉ thị nêu rõ: Mục tiêu chính của công tác dân vận - mặt trận trong quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa là xây dựng chế độ làm chủ tập thể và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Chỉ thị nêu rõ 3 nhiệm vụ cụ thể của toàn Đảng: Một là, nâng cao trách nhiệm của các cấp bộ Đảng, các cấp chính quyền và các đoàn thể đối với công tác dân vận và mặt trận. Hai là, phát huy vai trò của các đoàn thể trên những công tác chính: giáo dục chính trị tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân; đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, động viên, tổ chức nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền tham gia quản lý kinh tế, xã hội; phát triển và củng cố các đoàn thể cách mạng. Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, mặt trận (ở tỉnh, thành phố cần thành lập ban dân vận - mặt trận; ở cấp huyện cần phân công ủy viên thường vụ phụ trách; cấp xã có ủy viên thường vụ hoặc cấp ủy viên phụ trách.

Nước nhà thống nhất, việc thống nhất các tổ chức Mặt trận vừa là nguyện vọng nhân dân cả nước, vừa là đòi hỏi tất yếu của lịch sử. Từ ngày 31/01 đến ngày 04/02/1977, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam họp tại thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất các tổ chức Mặt trận ở cả hai Miền thành một Mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đến tháng 4/1977, Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Đồng Nai được đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai biểu thị sự nhất trí của toàn Đảng bộ, quân và dân Đồng Nai với đường lối, chính sách Đại hội toàn quốc lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam, về chương trình hành động và điều lệ Mặt trận của Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thông qua. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh xác định nhiệm vụ cụ thể của Mặt trận trong giai đoạn cách mạng mới là, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội; tổ chức động viên nhân dân tham gia các phong trào hành động cách mạng. Hoạt động của Mặt trận phải góp phần tạo nên sự nhất trí về chính trị, tinh thần trong xã hội; vận động mọi tổ chức, mọi tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng Hiến pháp chung của cả nước; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tiếp tục hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục thiên tai, ổn định và phát triển kinh tế; xây dựng nền văn hóa mới, bài trừ các tệ nạn xã hội và văn hóa phẩm đồi trụy phản động do xã hội đế quốc, thực dân, phong kiến để lại.

II.2. Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ I, nhiệm kỳ (1978 - 1984)

Qua một năm thực hiện nghị quyết Đaị hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh (02/1977) và nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất vòng hai (4/1977), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai phát triển nhanh về tổ chức, cơ chế hoạt động và phương pháp hoạt động, làm nòng cốt cho phong trào cách mạng của quần chúng. Tuy nhiên tình hình đất nước vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, kẻ thù không ngừng phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cộng thêm những khó khăn về kinh tế, đặt ra cho Mặt trận Tổ quốc tỉnh nhiều vấn đề cần phải tổng kết qua phong trào quần chúng, từ đó đề ra phương hướng nhiệm vụ hoạt động để đáp ứng thời kỳ cách mạng mới.         

Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ I đã được tổ chức từ ngày 9 đến 11/01/1978. Sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh và cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp thì Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh là một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn của toàn dân. Đại hội có 250 đại biểu đại diện cho các ngành, các giới, các giai cấp, tầng lớp nhân dân các dân tộc, tôn giáo về dự. Đại hội đã tập trung đánh giá thành tích các tầng lớp nhân dân và vai trò Mặt trận, các đoàn thể cùng những khó khăn, khuyết điểm, sau 3 năm giải phóng (4/1975-1/1978).

Trong 3 năm, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong tỉnh đã cùng với các ban ngành hướng hoạt động về quần chúng vừa tuyên truyền giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vừa chăm lo ổn định đời sống nhân dân. Mặt trận các cấp cùng các thành viên đã tổ chức học tập, tuyên truyền giáo dục hơn nửa triệu lượt quần chúng, kể cả trong hàng ngũ giáo sĩ, chức sắc các tôn giáo về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, nội dung 3 cuộc cách mạng, quyền làm chủ tập thể, xây dựng nền kinh tế mới, con người mới, chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, chính sách tôn giáo, dân tộc, chính sách ruộng đất, nghĩa vụ lương thực, nghĩa vụ quân sự… và bắt đầu triển khai học tập chủ trương cải tạo và phát triển nông nghiệp theo Nghị quyết II của Trung ương Đảng.

Sự thật diễn ra sau những năm đầu giải phóng đã bóc trần và đập tan mọi luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của kẻ địch nào là “Việt Cộng sẽ trả thù đẫm máu”, nào là “Việt cộng vào, Tôn giáo sẽ bị tiêu diệt”… dần dần bằng những việc làm của chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể cách mạng đã xóa đi những hồ nghi, mặc cảm, tạo được sự chuyển biến về chính trị, tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo. Tăng thêm niềm tin tưởng và phấn khởi của quần chúng, hăng hái thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Đại hội đã hiệp thương dân chủ, nhất trí cử ra Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai nhiệm kỳ I gồm 48 thành viên do ông Nguyễn Thành Long - nguyên Chủ tịch Mặt trận khu Đông Nam bộ, đại biểu Quốc hội khóa VI làm Chủ tịch.

 Các phó Chủ tịch gồm:

 - Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết, ủy viên trung ương Đảng, phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai.

 - Bà Nguyễn Thị Phượng, Tỉnh ủy viên, Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh.

 - Ông Nguyễn Văn Nghiệp, Tỉnh ủy viên, Thư ký Ban chấp hành Nông hội tỉnh.

 - Ông Tống Kim Quang, tự Nguyễn Tạo, ủy viên thường trực Ban Dân vận Mặt trận tỉnh.

 Các ủy viên thường trực chuyên trách gồm:

 Ông Lê Văn Triết, ủy viên Ban Dân vận Mặt trận tỉnh và Ông Phạm Điền Sơn, phó Bí thư Tỉnh Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có 38 ủy viên đại biểu các ngành, các giới, các địa phương.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất và chương trình chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; trên cơ sở phát huy những thành quả đạt được và khắc phục những khó khăn khuyết điểm những năm vừa qua, Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất đã đề ra nhiệm vụ, phương hướng hoạt động nhiệm kỳ (1978 - 1984):

“Tăng cường củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết các tầng lớp nhân dân, dân tộc, Tôn giáo trong tỉnh trên cơ sở nhất quán đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, lấy liên minh công nông làm nền tảng, phát huy tốt vai trò, chức năng giáo dục tập hợp tất cả mọi lực lượng quần chúng làm hậu thuẫn cho Đảng bộ và chính quyền nhân dân trong tỉnh. Phát huy quyền làm chủ tập thể tham gia ba cuộc cách mạng, dấy lên phong trào thi đua sôi nổi thực hiện Nghị quyết tỉnh Đảng bộ, hoàn thành thắng lợi kế hoạch kinh tế, xã hội năm 1978-1980. Đồng thời ra sức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, củng cố  tổ chức, lề lối làm việc của Ủy ban Mặt trận, các đoàn thể; phát huy đúng mức vai trò của các tổ chức quần chúng trong hệ thống chuyên chính vô sản”. Đặc biệt Đại hội đã đề ra năm phong trào thi đua hành động cách mạng trong các tầng lớp nhân dân là: thi đua phát huy quyền làm chủ xã hội chủ nghĩa; lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội; học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật; thi đua xây dựng nếp sống văn hóa mới, con người mới; thi đua bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Đại hội Mặt Trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai lần thứ I đã thành công. Thành phần đại biểu về dự Đại hội bao gồm các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo trong toàn tỉnh, thể hiện được ý chí và tư tưởng đại đoàn kết dân tộc. Lần đầu tiên một tỉnh mới giải phóng, tổ chức được Đại hội của dân tương xứng với vai trò, vị trí của Mặt trận trong chế độ chuyên chính vô sản thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã góp phần nâng cao uy tín và khẳng định vị trí của Mặt trận Tổ quốc trong đời sống chính trị xã hội của nhân dân ta và vai trò làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Chính quyền. Đại hội còn xóa đi nhận thức của một số cán bộ cấp huyện và cơ sở cho rằng vừa qua mặt trận bị bỏ rơi, hoặc mặt trận không làm được gì. Đồng thời cũng giúp cho các cấp ủy, chính quyền địa phương nhận thức đầy đủ trách nhiệm phải quan tâm lãnh đạo và tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc hoàn thành chức năng, nhiêm vụ trong thời kỳ mới.

II.3. Những thành tích nổi bật của phong trào quần chúng thời kỳ           (1975 - 1980)

II.3.1. Phong trào khôi phục và phát triển nông nghiệp

Mặt trận đã vận động tinh thần đoàn kết tương trợ trong các tầng lớp nhân dân nhường cơm sẻ áo, chia sẻ đất đai; cùng với các ngành chính quyền đã hướng dẫn nhân dân khôi phục và phát triển sản xuất, giải quyết được nạn đói trầm trọng. Vận động nhân dân trong tỉnh và tiếp nhận đồng bào từ thành phố Hồ Chí Minh xây dựng được 13 xã, 23 ấp kinh tế mới Phước Thái, Xuyên Mộc…). Mặt trận cùng các đoàn thể vận động nhân dân chia sẻ giúp nhau hàng ngàn ha ruộng đất, khai hoang và phục hóa 50.000 ha; được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang đã thu gom và phá hủy hàng trăm tấn bom mìn. Hội Nông dân vận động quần chúng tích cực hưởng ứng phong trào làm thủy lợi, thâm canh tăng vụ. Kết quả đã nâng diện tích sản xuất lúa, màu vụ đông xuân, hè từ  87.000 ha lên 142.000 ha; sản lượng lương thực bình quân đầu người từ 89 kg năm 1975 lên 240 kg lương thực/người vào cuối năm 1977. Đặc biệt phong trào ra quân lao động làm thủy lợi, phân bón cải tạo đồng ruộng được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, đáng chú ý có đông đảo đội ngũ trí thức, hàng giáo sĩ chức sắc các tôn giáo cùng tham gia.

Nhiều điển hình trong phong trào sản xuất như xã Gia Tân huyện Thống Nhất vận động bà con giáo dân Công giáo làm thủy lợi bạt đồi sẻ núi, đào hàng trăm mét kênh mương sâu 12 m để dẫn nước vào ruộng. Xã Vĩnh Thanh, huyện Long Thành là vùng nước mặn chưa bao giờ làm hai vụ, đồng bào đã phát huy sáng kiến đắp đập ngăn mặn, đào hồ khai thác mạch nước ngầm đưa diện tích vụ đông xuân và hè thu lên 300 ha. Vĩnh Thanh còn là lá cờ đầu của phong trào làm phân xanh phân chuồng. Xã Phú Ngọc, huyện Tân Phú điển hình của phong trào chăn nuôi tập thể. Sản xuất nông nghiệp ổn định, nông dân tích cực đóng thuế và bán lương thực cho nhà nước: các xã Long Tân huyện Long Thành, Xuân Bình huyện Xuân Lộc, Gia Kiệm huyện Thống Nhất, là những xã hoàn thành chỉ tiêu lương thực đầu tiên của tỉnh. Đặc biệt có Ấp 3 xã Xuân Tâm huyện Xuân Lộc phát động thu mua chỉ trong một ngày đạt 60 tấn lương thực; xã Phú Hoa huyện Tân Phú một xã đông đồng bào người Hoa (Nùng) hai năm liền là lá cờ đầu bán lương thực cho Nhà nước. Có nhiều hộ nông dân đã bán 80 đến 90% sản lượng thu hoạch lương thực cho Nhà nước.

Trong tỉnh đã tiến hành một bước công tác cải tạo nông nghiệp với hình thức làm ăn mới. Ở nông thôn thực hiện chính sách ruộng đất do Nông hội làm nòng cốt bà con nông dân đã căn bản tiến hành xong việc điều tra phân loại diện tích đất công để chia cấp cho những hộ thiếu đất sản xuất. Các hình thức làm ăn tập thể theo kiểu hợp tác giản đơn đã xuất hiện và phát triển theo hướng tiến dần lên hợp tác xã hội chủ nghĩa. Năm 1977 có 300 tổ vần đổi công với 8.500 hộ, đến 1978 phát triển thêm 596 tổ và 9.200 hộ nông dân. Phong trào làm ăn tập thể thời gian này là nhân tố tích cực tác động đến việc động viên phong trào nông dân hăng hái sản xuất tự túc lương thực, tăng thêm thu nhập, có lúa dư bán cho Nhà nước, đồng thời tập hợp phát triển nông dân vào tổ chức. Bước đầu xuất hiện một số mô hình Hợp tác xã nông nghiệp như Long Phước huyện Long Thành, Hiệp Hòa thành phố Biên Hòa, Quyết Thắng huyện Châu Thành.

II.3.2. Mặt trận sản xuất công nghiệp và phân phối lưu thông

Phát huy vai trò, chức năng của mình, Mặt trận, các đoàn thể nhất là Công đoàn, Đoàn thanh niên đã tích cực giáo dục công nhân lao động về vai trò, vị trí, tính chất giai cấp công nhân lao động và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; phát động phong trào thi đua thực hiện ba cải tiến, ba điểm cao, phát huy nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm ngày giờ công, sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ có hiệu quả. Nhiều xí nghiệp đã đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch trong sản xuất các mặt hàng phục vụ cho nông nghiệp cho tiêu dùng và xuất khẩu. Năm 1976 Quốc doanh cao su Đồng Nai đã tăng năng xuất vượt kế hoạch (102%). Có 32 trong số 58 xí nghiệp Khu Kỹ nghệ Biên Hòa đạt từ 103 đến 147% kế hoạch về trước thời gian từ 10 đến 60 ngày. Trong năm 1977 các xí nghiệp trong Khu kỹ nghệ Biên Hòa đã phát huy được 3.400 sáng kiến có giá trị, tiết kiệm gần 14 triệu đồng, nhiều xí nghiệp điển hình như Nhà máy dệt Thống Nhất, Xí nghiệp Vinapro… đã hoàn thành kế hoạch cả năm trước 2 tháng.

 Mặt trận, các đoàn thể tăng cường vận động, tuyên truyền được hầu hết bà con kinh doanh công, thương nghiệp tư doanh hưởng ứng chính sách của Đảng, Nhà nước, nhiều người đã hiến cơ sở của mình vào quốc doanh[182], số đông đăng ký công tư hợp doanh sẵn sàng đem vốn, kinh nghiệm của mình đóng góp vào việc  phát triển kinh tế theo đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hình thành được 72 xí nghiệp quốc doanh, 36 cơ sở công tư hợp doanh. Hàng ngàn cơ sở tư doanh hoạt động dưới sự quản lý của nhà nước, trong đó có nhiều cơ sở tiểu thủ công mỹ nghệ đã được hướng dẫn làm ăn tập thể, sản xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu có giá trị.

Đầu năm 1978 Mặt trận, các đoàn thể đã tổ chức nhiều cuộc học tập phổ biến chính sách cải tạo ngành giao thông vận tải và mặt hàng cá cho các nhà tư sản, tiểu chủ, công nhân, ngư dân trong tỉnh. Các nhà tư  sản, tiểu chủ tự nguyện hiến 18 xe và bán 196 xe phương tiện vận tải của mình cho Nhà nước để xây dựng xí nghiệp vận tải quốc doanh và đưa 135 xe vào công tư hợp doanh. Đặc biệt có một số nhà tư sản đã tự nguyện chấp hành chính sách, tự cải tạo mình thành người lao động chân chính của chế độ mới.

II.3.3. Đoàn kết xây dựng chế độ mới, xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân, trấn áp bọn phản cách mạng

Măt trận, các đoàn thể là tổ chức nòng cốt tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần làm chủ xã hội, hăng hái tham gia các cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân ba cấp, xây dựng chính quyền từ tỉnh xuống cơ sở; đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội. Đồng bào các xã Gia Kiệm, Phương Lâm, Phú Hoa, Bàu Hàm, thị xã Vũng Tàu… đã phát hiện hàng trăm binh lính, sĩ quan ngụy trốn trình diện, cải tạo, nhiều tổ chức phản động và tổ chức vượt biên trái phép. Riêng năm 1977, quần chúng nhân dân toàn tỉnh đã phát hiện bắt và gọi hàng 860 tên, có một số tên đầu sỏ phản động nguy hiểm đội lốt tôn giáo họat động phá hoại do chính đồng bào có đạo phát hiện. Các đoàn thể cách mạng không ngừng phát triển. Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được xây dựng và củng cố ở các huyện, thành phố Biên Hòa. Mạng lưới Mặt trận Tổ quốc ở các xã, phường, thị trấn trong tỉnh được hình thành góp phần trong công cuộc đoàn kết toàn dân. Hội Liên hiệp Phụ nữ đã tập hợp được 74% giới nữ, Công đoàn 27%, Nông hội 22%, Thanh niên 12%, Ban chấp hành các đoàn thể được củng cố qua bầu cử dân chủ.

          Tuy nhiên tình hình kinh tế xã hội của cả nước cũng như trong tỉnh thời kỳ này còn rất nhiều những khó khăn và khuyết điểm:

         Về khách quan, đất nước vừa có hòa bình vừa có chiến tranh (biên giới Tây nam, biên giới phía Bắc); các thế lực phản động không ngừng phá hoại công cuộc xây dựng đất nước bằng mọi thủ đoạn; bên cạnh đó hạn hán, thiên tai ảnh hưởng đến sản xuất. Tốc độ phát triển kinh tế chậm, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn nhất là lương thực chưa đủ ăn. Về chủ quan, công tác cải tạo công thương nghiệp tư doanh, thủy sản, nông nghiệp… tiến hành chậm lại mang tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa, duy ý chí; công tác quản lý nhà nước còn hạn chế; quản lý thị trường mang tính chất hành chính tác động giá cả tăng vọt. Quyền làm chủ của nhân dân mới được xác lập nhưng chưa được tôn trọng và phát huy; tệ tham ô, hối lộ cửa quyền, quan liêu, mệnh lệnh làm nhân dân giảm niềm tin vào cán bộ chính quyền; cán bộ đảng viên chưa gần dân.

Mặt khác, vai trò Mặt trận, các đoàn thể quần chúng chưa được coi trọng. Riêng hoạt động mặt trận các đoàn thể còn nhiều hạn chế: công tác tuyên truyền giáo dục chưa sâu, chưa có hình thức, nội dung phù hợp với từng đối tượng quần chúng… việc tuyên truyền giáo dục chưa gắn với quyền lợi của quần chúng; nhiều chính sách chưa được giáo dục một cách đầy đủ cho quần chúng như chính sách đối với gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng; chính sách làm nghĩa vụ lương thực; chính sách làm nghĩa vụ quân sự… trong vùng đồng bào có đạo; chính sách bình đẳng dân tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng… Từ đó phong trào cách mạng của quần chúng có phát triển nhưng chưa đều và chưa liên tục; các đoàn thể quần chúng chưa thu hút được rộng rãi mọi giới, mọi lứa tuổi. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các xã, phường, thị trấn còn một số nơi chưa được thành lập. Quan hệ và phối hợp hành động giữa Mặt trận với các tổ chức thành viên chưa chặt chẽ; chưa có cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo, dân tộc.

II.4. Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ II (1984-1988)

II.4.1. Đặc điểm tình hình đất nước và tỉnh Đồng Nai

          Đến cuối năm 1978, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ  IV, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Đồng Nai ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống chưa được bao lâu thì bọn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh gây ra sự kiện “nạn kiều”, cắt viện trợ, rút chuyên gia, với tham vọng bành trướng bá quyền xâm lược nước ta. Chúng xúi dục bọn Pôn Pốt, Iêng Sa-ri tay sai ở Campuchia gây ra chiến tranh biên giới Tây Nam (1978). Sau đó là cuộc chiến tranh xâm lược của 60 vạn quân tràn sang 6 tỉnh biên giới phía Bắc (tháng 2/1979). Trong nước bọn phản động đội lốt tôn giáo, bọn sĩ quan ngụy quân, ngụy quyền ngoan cố không chịu cải tạo, bọn tàn quân Fullro lẩn trốn, được dịp ngóc đầu dậy, gây mất an ninh chính trị và trật tự xã hội nghiêm trọng. Trong khi đó trên phạm vi cả nước thiên tai dồn dập hai năm liền (1978, 1979) làm cho đời sống kinh tế nhân dân vốn còn khó khăn càng khó khăn hơn.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng, lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước, quyết định của Hội đồng Chính phủ, quân và dân Đồng Nai cùng với đồng bào cả nước lại sôi sục lao vào công cuộc vừa xây dựng đất nước vừa góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược biên giới, đồng thời giúp bạn Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Lớp lớp thanh niên lại tình nguyện lên đường gia nhập quân đội, đi thanh niên xung phong lên biên giới Tây Nam, ra biên giới phía Bắc tình nguyện trong các đoàn chuyên gia giúp tỉnh Kompongthom kết nghĩa.

       Sau chiến tranh biên giới, đất nước lại thanh bình. Tháng 3 năm 1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác quần chúng và khẳng định: “Ở thời kỳ nào công tác vận động và tổ chức quần chúng làm cách mạng cũng có ý nghĩa chiến lược. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và hiện nay khi cách mạng nước ta làm hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng chẳng những không giảm bớt mà còn tăng thêm”. Những năm sau chiến tranh biên giới vết thương cũ chưa được hàn gắn thì vết thương mới lại càng nặng nề hơn. Kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) được thực hiện trong điều kiện đất nước vừa hòa bình thống nhất vừa có chiến tranh càng gặp nhiều khó khăn gay gắt. Kế hoạch 5 năm (1980 - 1985) là giai đoạn cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp bộc lộ những tiêu cực kìm hãm sự phát triển rõ rệt nhất. Kinh tế, xã hội đất nước chưa được khôi phục thì lại rơi vào khủng hoảng và khó khăn gấp bội.

   Tình hình hoạt động của Mặt trận cả nước nói chung, Đồng Nai nói riêng cũng bộc lộ những yếu kém: Không ít cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên kể cả cán bộ Mặt trận đoàn thể còn coi nhẹ công tác Mặt trận; lãnh đạo Mặt trận chưa chặt chẽ, bố trí cán bộ Mặt trận chưa tương xứng… Trước tình hình đó ngày 18/4/1983 Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) đã ra Chỉ thị 17- CT/TW về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới”. Chỉ thị xác định Mặt trận Tổ quốc là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn nhất, đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân lao động với 3 chức năng quan trọng của Mặt trận Tổ quốc là: giáo dục hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phối hợp thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, giữa Mặt trận với chính quyền nhân dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và giám sát.

  II.4.2. Đại hội Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai lần thứ II, đổi mới tổ chức và hoạt động

Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ hai được tổ chức từ ngày 20 đến 21/02/1984, tại thành phố Biên Hòa. Đại hội mang chủ đề: “Đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội vinh dự được đón đồng chí Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại biểu các tỉnh bạn: Tây Ninh, Sông Bé, Vũng Tàu, Thuận Hải và đồng chí Lê Quang Chữ, ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Lê Thành Ba, ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai; đặc biệt Đại hội được đón tiếp đoàn đại biểu tỉnh Kompongthom - Campuchia kết nghĩa sang dự, một biểu tượng tốt đẹp của tình đoàn kết hữu nghị Quốc tế. Có gần 400 đại biểu đại diện các tầng lớp nhân dân, các ngành, các giới, các dân tộc, tôn giáo và đaị biểu Mặt trận các cấp trong tỉnh đã về dự. Đại hội đã được nghe đồng chí Chủ tịch đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy phát biểu ý kiến xác định rõ vị trí, vai trò Mặt trận trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong hệ thống chuyên chính vô sản; chỉ đạo nhiều nội dung quan trọng về công tác Mặt trận Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Ngoài báo cáo chính trị, Đại hội còn được nghe 19 bản tham luận của các đại biểu đại diện lực lượng võ trang, các đoàn thể, Ủy ban Mặt trận các huyện, xã với nội dung phong phú, thiết thực, làm rõ thêm thành tích hoạt động của Mặt trận các cấp như: tham luận của phường Tam Hòa về kinh nghiệm và tác dụng việc thành lập tổ mặt trận gắn với tổ dân phố trên địa bàn dân cư; tham luận của Mặt trận thành phố Biên Hòa về công tác xây dựng nếp sống văn hóa mới; tham luận của Mặt trận huyện Xuân Lộc về kinh nghiệm vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm; tham luận của thị trấn Long Thành về công tác hậu phương quân đội; tham luận của huyện Thống Nhất về phong trào thi đua “kính Chúa yêu nước”, “tốt đời, đẹp đạo” trong đồng bào có đạo; tham luận của huyện Long Đất về cải tạo đình thần; tham luận của Mặt trận huyện Châu Thành về phát huy vai trò là chỗ dựa của Nhà nước; Giới trí thức tham luận về quá trình phát triển và nguyện vọng của giới trí thức tỉnh nhà và hai tham luận của đại diện giáo hội Phật giáo, Công giáo trong tỉnh, đã nói lên tấm lòng của đồng bào có đạo đối với Đảng, Nhà nước cùng đồng hành với dân tộc, hăng hái tham gia xây dựng chế độ mới…

 Đại hội đã hiệp thương dân chủ bầu ra Ủy ban Mặt trận Tổ quốc nhiệm kỳ II gồm 51 ủy viên. Uỷ ban Mặt trận nhiệm kỳ mới đã họp phiên đầu tiên bầu ra Ban thường trực gồm:

- Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết làm Chủ tịch

05 phó Chủ tịch là: 

- Ông Nguyễn Tạo, phó Chủ tịch thường trực

- Bà Nguyễn Thị Minh, ủy viên

- Ông Lê Văn Triết, ủy viên

- Ông Sang Văn Mão, ủy viên

- Ông Nguyễn Văn Thôn, ủy viên

Hai ủy viên thư ký là: Ông Phạm Hồng Hải và Ông Nguyễn Xuân Roanh.

Đến tháng 02-1984, toàn tỉnh đã xây dựng được hệ thống tổ chức mặt trận từ tỉnh đến huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn, nhìn chung bộ máy Ủy ban Mặt trận ở từng cấp đã thể hiện tính chất vừa tiêu biểu, vừa thiết thực, từng bước phát huy được vai trò chức năng Mặt trận trong hoạt động. Đội ngũ cán bộ chuyên trách được tăng cường; cán bộ chủ chốt (chủ tịch, phó chủ tịch) của ủy ban Mặt trận cấp xã, đã được bồi dưỡng nghiệp vụ. Toàn tỉnh có 09 Ủy ban Mặt trận huyện, thành phố và 148 Ủy ban Mặt trận xã, phường thị trấn. Riêng tổ chức Mặt trận cơ sở đã có 30% được phân loại khá, 30% trung bình và 40% còn yếu kém. Ngay từ năm 1980 Ủy ban Mặt trận tỉnh đã bắt đầu nghiên cứu tổ chức mạng lưới Mặt trận tại ấp, khu phố trên địa bàn dân cư, chọn thị trấn Xuân Lộc (huyện Xuân Lộc), phường Tam Hòa (Biên Hòa) làm điểm xây dựng Ban cán sự măt trận khu phố và tổ mặt trận gắn với tổ dân phố, nhanh chóng xác định được mô hình Ban công tác Mặt trận ấp khu phố, tổ Mặt trận gắn với tổ dân cư là phù hợp và phát huy được chức năng phối hợp, thống nhất hành động, đại diện quyền làm chủ của nhân dân. Từ đó mọi chủ chương chính sách của Đảng được thông qua xã, phường đến ban cán sự Mặt trận, tuyên truyền phổ biến cho từng hộ dân và dựa vào sức mạnh của dân để thực hiện. Ngược lại mọi tâm tư nguyện vọng của dân đều đươc tập hợp thông qua Mặt trận phản ánh cho Đảng, chính quyền.

Từ thị trấn Xuân Lộc, phường Tam Hòa, mô hình Ban cán sự mặt trận khu phố (ấp), tổ mặt trận gắn với tổ dân phố (tổ dân cư) đã từng bước nhân ra toàn huyện Xuân Lộc, thành phố Biên Hòa và một số huyện.

Mặt trận không ngừng mở rộng các thành viên, từ 04 đoàn thể chính trị xã hội như Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ, đến năm 1984 đã phát triển thêm các tổ chức hội nghề nghiệp như Hội Nhà báo, Hội Văn nghệ, Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp, Hội Y học cổ truyền, Hội Luật gia và các Hội quần chúng, nhân đạo như Hội Phụ lão, Hội Chữ thập đỏ, Hội Người mù v..v..

 Tuy nhiên Đại hội cũng chỉ rõ Mặt trận Tổ quốc hiện thời chưa thực sự là tổ chức chính trị rộng lớn, mới thể hiện được tính liên hiệp tiêu biểu, chưa thể hiện được tính liên hiệp rộng rãi và tính quần chúng sâu sắc trong cấu tạo thành phần và cả trong phối hợp hoạt động. Việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Mặt trận còn nhiều thiếu sót, nhất là công tác tuyên truyền giáo dục và phối hợp hành động giữa các thành viên; chưa thực sự là chỗ dựa vững chắc của chính quyền, để đóng góp được nhiều cho công tác quản lý kinh tế, cải tạo xã hội và phát huy hiệu lực của Nhà nước chuyên chính vô sản, quyền làm chủ của nhân dân.

II.5. Phong trào quần chúng và vai trò của Mặt trận giai đoạn (1980 - 1985)

II.5.1. Những chủ trương, nhiệm vụ trọng tâm công tác Mặt trận nhiệm kỳ II (1984 – 1988)

Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ III và chương trình hành động của Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II; tiếp tục thực hiện Chỉ thị 17 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) về vai trò vị trí, chức năng nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới, Đại hội xác định 07 nhiệm vụ trọng tâm là:

- Cải tiến và tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục năng cao sự nhất trí về chính trị tinh thần trong nhân dân.

- Động viên phong trào thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm ổn định đời sống nhân dân.

- Tham gia đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.

- Tăng cường quốc phòng toàn dân giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vận động thanh niên làm nghĩa vụ quân sự, sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

- Xây dựng nếp sống văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cách mạng văn hóa tư tưởng.

- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng đảng, xây dựng chính quyền.

- Tăng cường đoàn kết quốc tế.

Đại hội đề ra nhiệm vụ phải xây dựng và củng cố tổ chức Mặt trận Tổ quốc vững mạnh, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức thành viên và thống nhất vận dụng mô hình xây dựng Ban cán sự Mặt trận khu phố, tổ Mặt trận gắn với tổ dân phố của phường Tam Hòa (thành phố Biên Hòa). Đồng thời hình thành ban giám sát Mặt trận (Ban thanh tra nhân dân) ở các xã, phường, thị trấn. Thành phần Ban cán sự Mặt trận (Ban Mặt trận) ấp, khu phố gồm đại diện tổ Đảng, Ban quản lý ấp, các đoàn thể và một số thành viên tiêu biểu khác. Nhiệm vụ của Ban cán sự Mặt trận là thực hiện phối hợp thống nhất hành động giữa Mặt trận và các đoàn thể với chính quyền, tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; vận động đoàn kết tương trợ nhau trong cuộc sống; đồng thời thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân. Phản ánh tâm tư nguyện vọng ý kiến của dân, tham gia Ban thanh tra nhân dân, phát huy quyền làm chủ, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Riêng việc xây dựng tổ Mặt trận nên chọn một số nơi đặc trưng cho từng vùng, từng lĩnh vực như vùng tôn giáo vùng dân tộc thiểu số, người Hoa, đô thị, nông thôn làm điểm, rồi mới nhân ra diện rộng.

Nghị quyết của Đại hội Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai lần thứ II thể hiện rõ vị trí, chức năng quan trọng của mặt trận trong giai đoạn mới, Mặt trận là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn nhất vừa có tính liên hiệp rộng rãi, vừa mang tính quần chúng sâu sắc. So với Đại hội lần thứ I, Đại hội lần II đã có bước phát triển và tiến bộ cả về hình thức, nội dung và quy mô tổ chức; thể hiện việc vận dụng đúng đắn Chỉ thị 17 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V; đồng thời đánh dấu bước tiến bộ của Ủy ban Mặt trận, Ban thường trực Mặt trận tỉnh. Đại hội được đánh giá là bước ngoặt to lớn của công tác Mặt trận tỉnh Đồng Nai sau mười năm giải phóng.

Thắng lợi của phong trào quần chúng có ý nghĩa trước tiên là mặt trận sản xuất, thực hành tiết kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội: Bà con nông dân được sự hỗ trợ của công nhân đã khai hoang phục hóa, làm thủy lợi, ứng dụng kỹ thuật, thâm canh tăng vụ; đến năm 1983 cả tỉnh đã căn bản tự túc được lương thực không phải nhờ Trung ương chi viện, sản lượng bình quân đầu người tăng lên 280 kg/năm. Công nhân lao động trong các xí nghiệp, nông, lâm trường đã phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm và sử dụng nguyên liệu tại chỗ, duy trì, ổn định sản xuất trong điều kiện hết sức khó khăn. Tích cực phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề truyền thống như gốm mỹ nghệ, gạch ngói, mây tre, khai thác vật liệu xây dựng; vừa giải quyết việc làm, vừa làm ra nhiều sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.

Đặc biệt các tầng lớp nhân dân đã từng bước hưởng ứng và chấp hành chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa của nhà nước trên lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và phân phối lưu thông: qua 4 năm cải tạo nông nghiệp (1979 - 1983), giai cấp nông dân trong tỉnh kể cả bần cố nông và trung nông đã chia sẻ ruộng đất và giúp đỡ phương tiện sản xuất, hưởng ứng phương thức làm ăn mới từ cá thể lên tổ đoàn kết, tập đoàn sản xuất, rồi phát triển lên hợp tác xã, làm ăn tập thể. Đến năm 1984 toàn tỉnh có 14 hợp tác xã, 900 tập đoàn sản xuất và hơn 2.000 tổ đoàn kết, trong đó có 10 hợp tác xã và 500 tập đoàn sản xuất bắt đầu đi vào thực hiện hình thức khoán sản phẩm. Có những xã đã cơ bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, trong đó có xã ở vùng tôn giáo, có xã 100% hộ đồng bào dân tộc thiểu số vào tập đoàn sản xuất. Đến đầu năm 1985 trên toàn tỉnh đã xây dựng được 09 xã điển hình về phát triển nông nghiệp toàn diện, 86 tập đoàn sản xuất tiên tiến.

Trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc, Mặt trận và các đoàn thể vận động hàng ngàn thanh niên hăng hái lên đường làm nghĩa vụ quân sự, gia nhập quân đội, thanh niên xung phong, làm nghĩa vụ quốc tế. Các tầng lớp nhân dân không phân biệt trai gái, già trẻ, tôn giáo, dân tộc hưởng ứng cuộc vận động huy động lương thực, thực phẩm kể cả phương tiện kỹ thuật, lẫn công cụ thô sơ, tình nguyện góp của, góp công xây dựng các tuyến phòng thủ biên giới và phòng thủ bờ biển, đã ghi thêm một hình ảnh đẹp và hào hùng vào lịch sử bảo vệ Tổ quốc của tỉnh nhà trong giai đoạn cách mạng mới. Ngoài ra các tầng lớp nhân dân còn hăng hái tham gia dân quân chiến đấu, tự vệ, tổ an ninh nhân dân, ở khắp các vùng nông thôn, đô thị nhà máy, công, nông trường, kịp thời phát hiện và tham gia đập tan hơn 30 tổ chức chính trị phản động, truy bắt và gọi hàng nhiều tên cầm đầu các tổ chức phản cách mạng và Fullrô.

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc: Trên cơ sở quán triệt, thực hiện Chỉ thị 17 của Ban Bí thư Trung ương, công tác dân vận thời gian này có chuyển biến rõ rệt. Đến năm 1985 tổ chức Mặt trận đã hình thành hệ thống từ tỉnh đến cơ sở bao gồm 09 Ủy ban Mặt trận huyện, thành phố, 153 Ủy ban Mặt trận phường, xã và đã thành lập mạng lưới Mặt trận trên địa bàn dân cư được 542 ban cán sự ấp và 2.282 tổ Mặt trận hoạt động bước đầu có hiệu quả. Ủy ban Mặt trận đã bám sát các cuộc vận động chính trị xã hội của Đảng và Nhà nước đề ra, thực hiện được chức năng phối hợp và thống nhất hành động với các đoàn thể và chính quyền tổ chức tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị, hướng nhân dân tự tổ chức và chăm lo một phần đời sống vật chất, tinh thần. Mặt trận đã chủ trì vận động nhân dân mua công trái xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm, số dư hàng năm đều tăng và vượt chỉ tiêu Trung ương giao.

Từ năm 1984 - 1985 Mặt trận các cấp đã chú ý đến công tác phụ lão, vận động các cụ tham gia công tác địa phương, thành lập quỹ bảo thọ chăm sóc sức khỏe, tạo được không khí đoàn kết thương yêu trong giới phụ lão và trong nhân dân, vận động được 7.716 cụ tham gia quỹ bảo thọ với số tiền đã góp 736.228 đ. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, Mặt trận đã phối hợp với chính quyền tổ chức và vận động đồng bào định canh định cư xây dựng nơi ăn, ở, chăm sóc sức khỏe và học tập, cử cán bộ đến cùng ăn cùng ở với đồng bào để hướng dẫn sản xuất, xây dựng cuộc sống mới, khắc phục dần các tập tục lạc hậu mê tín dị đoan.

Đối với đồng bào có đạo, Mật trận các cấp đã phối hợp với các đoàn thể, chính quyền giáo dục về đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước vận động và hướng dẫn đồng bào sống hòa thuận lương, giáo, đấu tranh với những biểu hiện mê tín; vận động đồng bào làm theo khẩu hiệu “tốt đời đẹp đạo”. Nhờ vậy, nhiều địa phương có đông đồng bào theo đạo phong trào lao động sản xuất và làm nghĩa vụ lương thực vượt kế hoạch. Cuối năm 1985, Mặt trận đã phối hợp với Ban Dân vận Tỉnh ủy tạo điều kiện giúp đỡ đồng bào Công giáo tổ chức thành công đại hội thành lập Ủy ban đoàn kết Công giáo yêu nước của tỉnh.

Mặt trận và các đoàn thể đã góp phần xây dựng Đảng bằng hoạt động thiết thực của mình trên các mặt: tổ chức tuyên truyền giáo dục quần chúng về chủ trương đường lối cách mạng và tổ chức vận động quần chúng thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng. Giáo dục đoàn viên, hội viên xây dựng đoàn thể mình vững mạnh gắn với việc xây dựng Chi, Đảng bộ vững mạnh. Trong 5 năm các đoàn thể đã giới thiệu hàng vạn thanh niên ưu tú cho Đảng. Trong đó Đoàn Thanh niên giới thiệu được 10.000 đoàn viên, đã kết nạp được 1.375 đảng viên mới. Hàng năm việc lấy ý kiến quần chúng tham gia xây dựng Đảng đã thành nề nếp từ khi thực hiện chỉ thị 53 của Ban Bí thư và Nghị quyết 29 của Tỉnh ủy, việc phát huy dân chủ trong lãnh đạo của nhiều cấp ủy tốt hơn, tạo điều kiện cho các đoàn thể tham gia ý kiến vào chương trình công tác của cấp ủy, của Chi bộ đảng hàng tháng, hàng quý và đấu tranh phê phán những hiện tượng mất dân chủ, vi phạm phẩm chất, đạo đức của một số đảng viên có chức, có quyền, đã tạo được sự gắn bó giữa quần chúng với đảng viên, giữa tổ chức quần chúng với sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng.

Việc tham gia quản lý Nhà nước đã được coi là một chức năng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể. Trong quá trình hoạt động, Mặt trận, các đoàn thể đã thể hiện được trách nhiệm xây dựng chính quyền như tham gia xây dựng kế hoạch nhà nước từ cơ sở. Tổ chức động viên quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng, cải tạo quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, làm tốt công tác bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp… Mặt trận và các đoàn thể đã tham gia với chính quyền các cấp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp lại sản xuất, bố trí lao động, đấu tranh ổn định giá cả thị trường, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật góp sức cùng chính quyền khắc phục dần những sai sót, và tìm ra những biện pháp tích cực thực hiện thắng lợi Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị về cải cách quản lý kinh tế. Ngoài ra, Mặt trận cùng các đoàn thể còn vận động nhân dân làm nghĩa vụ quốc tế với tỉnh Kompongthom kết nghĩa, tổ chức các hình thức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm xây dựng tổ chức, hoạt động giữa các đoàn thể hai tỉnh và vận động nhân dân đóng góp vật chất, kinh phí viện trợ cho nhân dân tỉnh bạn.

Có thể nói qua quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh; cùng với cả nước, cơ cấu xã hội tỉnh Đồng Nai đã có những biến đổi sâu sắc. Giai cấp địa chủ và tư sản mại bản đã bị xóa bỏ, những nhà tư sản công thương, đại bộ phận đã tiếp thu chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế mới trên địa bàn tỉnh. Các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, dân tộc đã sống đoàn kết, hòa hợp với lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Mặt trận đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo được mở rộng, trong đó tuyệt đại bộ phận những người trước đây vì lý do này hay lý do khác đã phục vụ cho chế độ Mỹ, ngụy nay đã được giúp đỡ trở về với dân tộc thành những công dân của chế độ mới. Liên minh công nông, nền tảng của Mặt trận Tổ quốc tiếp tục được hình thành phát triển trong điều kiện mới.

Như vậy, phong trào quần chúng và vai trò công tác Mặt trận thời kỳ 1980 - 1985 đã có những chuyển biến tiến bộ, góp phần tích cực củng cố  hệ thống chuyên chính vô sản từ tỉnh xuống cơ sở, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo ổn định mọi mặt đời sống nhân dân, tổ chức và hoạt động từng bước được xác lập sát với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng.

III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG GIAI ĐOẠN ĐẦU CẢ NƯỚC THỐNG NHẤT ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TẬP TRUNG

Đồng Nai là một tỉnh đa tôn giáo, đa dân tộc vì vậy công tác dân vận, mặt trận luôn được Đảng bộ coi trọng. Từ Mặt trận Dân tộc giải phóng Khu Đông Nam bộ đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai, và từ Ban Dân vận Mặt trận gắn với Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc (1976 - 1983) đến Ban Dân vận cấp ủy (1983 - 1985) đều đã sớm xác định công tác dân vận mặt trận ở Đồng Nai chính là công tác vận động tôn giáo, dân tộc, phải tiếp tục phát huy vai trò khối đoàn kết toàn dân xây dựng và mở rộng Mặt trận Tổ quốc thống nhất.

Năm 1978 Tỉnh ủy đã có hội nghị chuyên đề về công tác vận động người Hoa, năm 1983 mở hội nghị chuyên đề về vận động đồng bào Công giáo… Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng tại Đồng Nai có 430.000 đồng bào theo đạo Công giáo chiếm trên 30% dân số. Cả tỉnh có gần 40 cộng đồng dân tộc anh em sinh sống, đặc biệt có 65.000 đồng bào Nùng di cư từ các tỉnh biên giới phía Bắc vào và trên 25.000 đồng bào Hoa sinh sống lâu đời, ngoài ra còn có hơn 100.000 sĩ quan, binh lính chế độ cũ tan rã tại chỗ. Như vậy cơ cấu dân cư rất đa dạng với những nguồn gốc, chính trị, xã hội, tâm lý, tư tưởng nguyện vọng khác nhau.

III.1. Về xây dựng phát triển tổ chức

Ngay từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ Mặt trận dân tộc giải phóng khu miền Đông Nam bộ đến Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Đồng Nai đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai thông qua 2 kỳ đại hội, Mặt trận đã thể hiện được vai trò tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc; được xây dựng và hoạt động theo yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới. Tính chất của Mặt trận Tổ quốc trong giai đoạn này chính là tổ chức rộng rãi của những người yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, của những lực lượng đoàn kết cùng đấu tranh cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa .

Về tổ chức: Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên phát triển rất nhanh về mạng lưới tổ chức và tập hợp lực lượng đoàn viên, hội viên vào các đoàn thể cách mạng. Đây chính là nguyên nhân cơ bản quyết định sự phát triển của phong trào quần chúng những năm đầy khó khăn thử thách sau ngày giải phóng.

Đến cuối năm 1985, toàn tỉnh đã hoàn thành việc xây dựng tổ chức Mặt trận ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) và đã thành lập mạng lưới Mặt trận trên địa bàn dân cư xuống tận ấp, khu phố, tổ dân. Nếu tính theo độ tuổi lao động thì toàn tỉnh đã có gần 700.000/850.000 người được tập hợp vào các tổ chức đoàn thể cách mạng. Riêng 5 đoàn thể chính trị - xã hội như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Công đoàn, Hội Nông dân tập thể và Hội Liên hiệp phụ nữ đã tập hợp được 580.000 người, số còn lại là các hội quần chúng khác. Trong lứa tuổi từ 6 đến 15 tuổi có 170.000/460.000 cháu được tập hợp vào đội viên Thiếu niên Tiền phong và 21.749 cháu là đội viên nhi đồng Hồ Chí Minh.

Đoàn viên Công đoàn tập hợp được 106.089 người đạt 80,3 % tổng số công nhân, viên chức.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có 49.141 đoàn viên, đạt 12,2% tổng số thanh niên; đặc biệt Đoàn đã quan tâm thu hút rộng rãi các lực lượng thanh niên, tập hợp được 98.414 hội viên Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam chiếm tới 29,4% tổng số thanh niên. Chứng tỏ thời kỳ này phong trào thanh niên rất mạnh; kết nạp 112.000 đội viên đội Thiếu niên Tiền phong đạt tỷ lê 51,3% tổng số thiếu niên.

Hội Nông dân tập thể thu hút được 204.000 hội viên đạt 41,76% tổng số lao động chính trong giai cấp nông dân.

Hội Liên hiệp phụ nữ đã tập hợp 239.000 hội viên đạt 57,9% tổng số phụ nữ trong độ tuổi.

III.2. Về hoạt động

Ngoài việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ thường xuyên như tuyên truyền giáo dục, phối hợp hành động giữa các tổ chức thành viên, làm cầu nối giữa dân với Đảng, Nhà nước, hoạt động nổi bật của Mặt trận thời gian này là vừa làm chổ dựa cho chính quyền các cấp, vừa xây dựng, vận động phong trào quần chúng tố giác, trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ chính quyền. Mặt trận còn trực tiếp vận động một số giới và tầng lớp nhân sĩ, trí thức tiêu biểu, những người có uy tín trong các tôn giáo, dân tộc, những người thuộc diện cải tạo xã hội chủ nghĩa, những người đã từng cộng tác với chế độ cũ và người Việt Nam sống ở nước ngoài… Hoạt động của Mặt trận đã bắt đầu hướng về cơ sở, hướng vào mục tiêu xây dựng cuộc sống mới. Nhiệm vụ chính trị của Mặt trận, các tổ chức thành viên là củng cố mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tinh thần trong xã hội, phát huy nhiệt tình cách mạng, ý thức làm chủ, động viên nhân dân thi đua lao động sản xuất tích cực tham gia công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, nhất là những năm đánh thắng chiến tranh biên giới, làm nghĩa vụ quốc tế và chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực phản động, thù địch.

III.3. Về phong trào quần chúng

10 năm (1975-1985) qua, tuy tình hình kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, nhưng phong trào quần chúng trên các lĩnh vực đời sống, kinh tế do Mặt trận, các đoàn thể làm nòng cốt vẫn phát triển. Đây là thực tiễn chứng tỏ lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần đoàn kết nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào chung được sự hưởng ứng của toàn dân thực sự là động lực chủ yếu xây dựng, ổn định và phát triển tỉnh Đồng Nai giai đoạn này là: phong trào thi đua thực hành tiết kiệm lao động sản xuất, phong trào tham gia vận động cải tạo quan hệ sản xuất, phong trào bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, phong trào đoàn kết thực hiện nếp sống văn hóa mới và phong trào tiết kiệm, mua công trái xây dựng Tổ quốc.

          Khó khăn của thời kỳ (1975-1985) là thời kỳ cả nước chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Tình trạng hành chính hóa, quan liêu hóa, trở thành phổ biến trong hệ thống chính trị. Nhiều cấp ỷ Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên kể cả cán bộ mặt trận chưa nhận thức đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mặt trận trong giai đoạn cách mạng mới coi nhẹ tổ chức mặt trận, coi mặt trận là tượng trưng, hình thức. Vì vậy hoạt động của mặt trận nhìn chung chưa theo kịp nhiệm vụ chính trị, chưa chú ý đúng mức đến phát huy và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ III, Chỉ thị 17 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II đã có nhiều yếu tố phù hợp giai đoạn mới, nhưng do tư duy cũ, phong cách cũ, tổ chức và cơ chế cũ kìm hãm, là nguyên nhân sâu xa còn những mặt hạn chế, yếu kém của công tác mặt trận trong thời kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên qua đó lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đã được thử thách và minh chứng; những yếu tố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã bắt đầu hình thành trong điều kiện mới, là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc để toàn dân tỉnh Đồng Nai cùng cả nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện.

 


CHƯƠNG IX

MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH ĐỒNG NAI

TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, CÔNG NGHIỆP HÓA,

HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (1986 - 2000)

 

I. CỦNG CỐ TỔ CHỨC CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN CÁC CẤP ĐỂ ĐƯA CÔNG TÁC MẶT TRẬN LÊN NGANG TẦM NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội nhấn mạnh đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: sản xuất lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; bồi dưỡng phát huy nhân tố con người. Đường lối đổi mới mở ra một giai đoạn phát triển lịch sử mới vô cùng quan trọng cho đất nước.

Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ rõ: “Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức quần chúng, hướng mạnh về cơ sở, thu hút đông đảo nhân dân vào các phong trào cách mạng; củng cố liên minh công - nông và chăm lo giáo dục thế hệ trẻ, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và đảm bảo quyền công dân; chống tệ quan liêu cửa quyền, ức hiếp quần chúng trong bộ máy lãnh đạo và quản lý các cấp. Thực hiện có nền nếp khẩu hiệu: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Động viên và tổ chức quần chúng tham gia quản lý kinh tế, quản ký xã hội, tham gia các hoạt động cải cách kinh tế. Thông qua phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo và rèn luyện con người mới, xây dựng những tập thể lao động mới, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài”.

Nghị quyết Đại hội VI, Chỉ thị 17-CT/TW (ngày 18/4/1983) của Ban Bí thư Trung ương về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận trong giai đoạn mới“, giúp công tác Mặt trận của tỉnh có những định hướng chuyển biến tích cực.

Để thực hiện được nhiệm vụ trên, Ủy ban Mặt trận tỉnh chú trọng đến việc củng cố tổ chức ở cấp xã, phường. Ủy ban Mặt trận xã, phường  được cơ cấu đủ số lượng và đại diện thành phần các đoàn thể, không có sự chênh lệch (trước đó một số xã chỉ có 9 thành viên Mặt trận, trung bình khoảng 20, riêng xã Phước Tân huyện Long Thành có tới 38 ủy viên).

Phần đông cán bộ chủ chốt của Mặt trận cơ sở là cán bộ đã nghỉ hưu có kinh nghiệm công tác dân vận, cựu chiến binh được rèn luyện qua thực tế chiến đấu, có nhiệt tình, tương đối có sức khỏe, có năng lực công tác quần chúng. Các đảng bộ xã, phường đề cử các đảng viên có uy tín đảm đương cương vị chủ tịch Mặt trận, cá biệt cũng có chủ tịch Mặt trận là người ngoài đảng, là những người nhiệt tình, có uy tín xã hội, nhất trí cao với cương lĩnh và tôn chỉ của Mặt trận.

Phương thức hoạt động chính: tham gia phối hợp bàn bạc thống nhất với chính quyền, với các đoàn thể, các tôn giáo, các dân tộc ở địa phương.

Ngược về trước, ngay năm 1980, Ủy ban Mặt trận tỉnh bắt đầu nghiên cứu hình thức tổ chức của Mặt trận tại địa bàn dân cư ấp, khóm. Cán bộ Mặt trận làm thí điểm tại phường Tam Hòa (thành phố Biên Hòa), gắn tổ Mặt trận với tổ dân phố. Năm 1982, Ủy ban Mặt trận tỉnh tiếp tục nghiên cứu lập ban cán sự Mặt trận khóm (nay đổi là khu phố). Từ đó, cơ bản hoàn chỉnh tổ chức ban cán sự Mặt trận khóm và tổ Mặt trận tại địa bàn dân cư gắn với tổ dân phố, trở thành mô hình phù hợp, phát huy tốt vai trò đoàn kết nhân dân tại cơ sở. Ban cán sự Mặt trận, tổ Mặt trận phối hợp thống nhất hành động giữa vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quản lý với Mặt trận đại diện cho quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Năm 1985, Ủy ban Mặt trận tỉnh tiếp tục chỉ đạo điểm thị trấn Xuân Lộc (huyện Xuân Lộc cũ, nay là thị xã Long Khánh) tổ chức Ban công tác Mặt trận khu phố theo mô hình phối hợp ba bộ phận: Đảng, chính quyền, Mặt trận (gồm các đoàn thể quần chúng). Đồng chí bí thư chi bộ khu phố làm trưởng ban công tác Mặt trận, đại diện chính quyền khu phố và đại diện Mặt trận khu phố làm phó ban, đại diện các đoàn thể làm ủy viên. Số ủy viên Mặt trận khu phố từ 9-15 thành viên.

Ở địa bàn dân cư cơ sở cấp thấp nhất, tiến hành hợp nhất tổ Mặt trận với tổ dân phố theo nguyên tắc: mỗi tổ phải liền cư, lấy hộ làm thành viên, gồm từ 30 đến 50 hộ.

Từng tháng, cán bộ Mặt trận tổ chức họp giao ban, phát hiện những vấn đề nảy sinh cần tập trung trí tuệ giải quyết thích đáng. Mô hình này được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, hiệu quả, từ đó nhân rộng ra các phường, các thị trấn trong toàn tỉnh.

Nhưng ở nông thôn, mô hình này chưa phù hợp vì nhiều địa phương cơ sở Đảng yếu, thậm chí có ấp chưa có đảng viên và địa bàn dân cư đã có tổ an ninh nhân dân. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh chủ trương xây dựng mô hình cấp ấp, cụ thể:

- Nơi nào có chi bộ thì đồng chí bí thư chi bộ hoặc tổ trưởng đảng làm trưởng ban, đại diện chính quyền ấp và ủy viên Mặt trận xã làm phó ban, đại diện các tổ chức đoàn thể khác làm ủy viên.

- Nơi nào chưa có chi bộ thì vị ủy viên Mặt trận xã làm trưởng ban …

Số lượng cán bộ Mặt trận ấp từ 5-9 người.

Tại địa bàn dân cư, tổ chức tổ Mặt trận kết hợp tổ an ninh nhân dân hoặc tổ Mặt trận song song với tổ an ninh nhân dân, theo ba nguyên tắc (liền cư, hộ là thành viên, khoảng 30 hộ là cùng).

Tính đến ngày 20/1/1992, toàn tỉnh Đồng Nai có 527 ban công tác Mặt trận ấp/khu phố đạt tỉ lệ 92,13%. Số tổ Mặt trận là 4.299, thu hút 58% số hộ.

Đến năm 1999, toàn tỉnh đã xây dựng được 974 ban công tác Mặt trận ấp, khu phố với 9.043 tổ Mặt trận. Qua kiểm tra, phân loại, số đơn vị đạt loại vững mạnh là 45,9%, loại khá đạt 33,7%, đạt loại trung bình đạt 18%, tỉ lệ yếu kém chỉ hơn 1% [183].

Căn cứ trên thực tiễn sinh động, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Mặt trận Tổ quốc tỉnh chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc các cấp phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành thực hiện chủ trương đa dạng hóa hình thức tập hợp lực lượng để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Ngoài các đoàn thể trong hệ thống chính trị như đoàn Thanh niên Cộng sản, hội Liên hiệp thanh niên, hội Phụ nữ, hội Cựu chiến binh, Liên đoàn Lao động…, Mặt trận tỉnh thu hút thêm 28 thành viên mới bao gồm các tổ chức kinh tế: Hiệp hội gốm mỹ nghệ, Hiệp hội công thương, hội Làm vườn, hội Chế biến lâm đặc sản… các hội xã hội - nghề nghiệp: hội Người cao tuổi, hội Từ thiện, hội Người mù, hội Khoa học kinh tế, hội Hóa học, hội Châm cứu, hội Điều dưỡng, hội Dược học, hội Tin học, hội Khoa học lịch sử, hội Khoa học xây dựng, hội Nghiên cứu giảng dạy văn học… Các hiệp hội và hội nói trên thu hút hàng chục ngàn hội viên, là nòng cốt để thực hiện chủ trương đại đoàn kết phù hợp với tình hình mới.

Toàn tỉnh có khoảng 150 vị tiêu biểu của các dân tộc ít người, 640 vị chức sắc, chức việc các tôn giáo tham gia Ủy ban Mặt trận các cấp, tạo ra phong trào Tốt đời, đẹp đạo sâu rộng trong cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. Ủy ban Mặt trận tỉnh phối hợp với chính quyền hướng dẫn Đại hội người công giáo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội Phật giáo, hội nghị đại biểu cơ sở Cao Đài Tây Ninh và Cao Đài Ban Chỉnh… xây dựng chương trình hoạt động hướng vào việc đại đoàn kết toàn dân xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Những năm 1987 - 1988, để góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chính trị cho các tầng lớp nhân dân, Mặt trận tỉnh chỉ đạo các cấp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai vận động, tổ chức nhân dân tham gia xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhân dân trong tỉnh đã tích cực thảo luận, đóng góp ý kiến, tham gia xây dựng các bộ luật lớn: Luật đất đai, dự thảo Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, sửa đổi Luật tổ chức, Luật bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Mặt trận cũng tổ chức tập hợp ý kiến của nhân dân đề nghị Đảng và Nhà nước bổ sung hoàn thiện các cơ chế, chính sách cụ thể đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Mặt trận phản ánh, đề xuất bổ sung, sửa đổi một số chủ trương, chính sách của chính quyền địa phương cũng như trung ương: chính sách thuế, nghĩa vụ lao động, chính sách đối với công nhân cao su, tiền lương của người hưu trí, chế độ trợ cấp cho các người hưởng chính sách… Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các cấp góp phần nâng cao kiến thức pháp luật và phát huy tinh thần làm chủ của mình trong xã hội, nâng cao uy tín của Mặt trận trong dân.

Thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị, cán bộ Mặt trận các cấp vận động nhân dân trong tỉnh tham gia phát hiện, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tích cực tham gia xây dựng chính quyền, quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.

Cùng với việc thể chế hóa một bước cơ chế phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thành viên đẩy mạnh công tác động viên, tổ chức các phong trào thi đua thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và quân dân toàn tỉnh đã đạt được những kết quả khả quan, góp phần quan trọng vào thành tựu chung:

- Tổ chức công đoàn vận động công nhân lao động trong tỉnh tích cực thi đua lao động sản xuất, tham gia phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh thực hiện các chương trình sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Quyết định 217/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng đã giải phóng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Nhà nước, kích thích sức lao động sáng tạo của đội ngũ công nhân lao động trong tỉnh. Nhiều phong trào do công đoàn phát động như Luyện tay nghề thi thợ giỏi, Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật... được đông đảo đoàn viên công đoàn hưởng ứng.

- Giai cấp nông dân trong tỉnh phấn khởi thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về cơ chế khoán hộ. Sản xuất nông nghiệp hồi phục và có mặt phát triển khi vấn đề cơ cấu lại nông nghiệp được tiến hành mạnh mẽ. Người nông dân tự chủ trong sản xuất, bắt đầu chỉ nuôi/trồng những con/cây mang lại lợi nhuận cao.

- Ủy ban Mặt trận và các đoàn thể đẩy mạnh cuộc vận động chủ trương phát triển kinh tế gia đình. Ủy ban Mặt trận kết hợp với ngành công nghiệp, Hội Nông dân tổ chức họp đúc kết kinh nghiệm phát triển kinh tế gia đình của các điển hình tiên tiến, phổ biến sâu rộng. Nhân dân chủ động lo toan cuộc sống hàng ngày, tư tưởng trông chờ, ỷ lại nhà nước dần được khắc phục. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền giáo dục đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước qua đối thoại để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra làm chưa nhiều. Khảo sát thực tế cho thấy dân đi họp cao nhất chỉ 40% số hộ do nội dung sinh hoạt không thiết thực. Khi cải tiến nội dung họp: bàn giúp nhau trong sản xuất và đời sống, bảo vệ an ninh xóm làng, giải quyết tranh chấp ruộng đất, kê khai ruộng đất, miễn giảm thuế … thì dân đi họp đông, có nơi có lúc tỉ lệ họp dân vượt dự kiến.

Đại hội Mặt trận tỉnh Đồng Nai lần thứ ba (năm 1989) nêu hai mục tiêu chủ yếu là dân chủ pháp luật chăm lo đời sống quần chúng thì việc thực hiện mục tiêu dân chủ hàng đầu ở các cấp huyện, thành phố, xã, phường còn khá lúng túng. Nói chung, các cấp Mặt trận chưa làm được vai trò hướng dẫn nhân dân thực hiện quyền giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước; tham gia giải quyết đơn thư khiếu tố còn hạn chế. Mục tiêu chăm lo đời sống còn nặng về động viên và huy động đóng góp hơn là chăm lo quyền lợi thiết thực của dân.

Cuộc vận động xây dựng cuộc sống mới trên địa bàn dân cư là một nét mới, là công tác trọng tâm của Mặt trận Tổ quốc các cấp trong những năm này. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đã động viên các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tham gia xây dựng, tu bổ các công trình lợi ích công cộng.

Các nhóm đoàn kết, các tổ tự quản, các tổ tín chấp, các tổ xoá đói giảm nghèo tự quản… đi vào hoạt động. Các phương thức mới tập hợp nhân dân đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân, đã phát huy tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau, chăm sóc nhau, cùng nhau tổ chức cuộc sống chung yên vui, lành mạnh trên từng địa bàn ấp, khu phố. Tính tích cực chính trị và trách nhiệm công dân được khơi dậy, phát triển, góp phần dấy lên phong trào quần chúng thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

Phong trào quần chúng chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, những người có công với nước ngày càng thiết thực. Các hoạt động vận động phụ lão, vận động đồng bào các tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số và cộng đồng người Hoa trong tỉnh cũng có những tiến bộ rõ nét và thu được nhiều kết quả thiết thực. Bà con người Hoa an tâm, phấn khởi làm ăn, nhiều người bỏ vốn đầu tư hoặc quan hệ với người thân ở nước ngoài đầu tư vốn liếng, kỹ thuật về nước. Đồng bào Ch’ro, Mạ, S’tiêng ở các khu định cư Lý Lịch, Bù Cháp được tạo điều kiện ổn định chỗ ở, ổn định sản xuất, từng bước cải thiện đời sống. Tuy nhiên những mặt yếu kém tồn tại là: trình độ văn hóa, chính trị của đồng bào các dân tộc còn thấp, việc đào tạo cán bộ người dân tộc chưa được thực sự quan tâm, do chưa hiểu tâm tư đồng bào nên việc đầu tư xây dựng vùng Tà Lài lớn song kém hiệu quả, chưa đáp ứng nguyện vọng nên bà con chưa yên tâm định canh định cư …

Tham gia thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng, Mặt trận Tổ quốc các cấp trong tỉnh tích cực tuyên truyền luật Nghĩa vụ quân sự, động viên thanh niên khám tuyển và gia nhập bộ đội, tổ chức cùng các đoàn thể và chính quyền thăm hỏi, tặng quà số anh em luyện tập ở các đơn vị, tham gia vận động thực hiện chính sách hậu phương quân đội.

Những tháng cuối năm 1988, các cấp Mặt trận trong tỉnh sôi nổi thảo luận, tham gia, đóng góp ý kiến vào dự thảo báo cáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trình Đại hội III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp từ ngày 1 đến ngày 4/11/1988 tại thủ đô Hà Nội. Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung và nhiệm vụ cụ thể nhằm tăng cường và đổi mới công tác Mặt trận.

Tháng 6/1989, Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ IV được tổ chức. Đại hội đánh giá những kết quả đạt được trong 5 năm (1984 - 1989) biểu dương tinh thần đoàn kết, cố gắng phấn đấu vượt khó khăn, tham gia xây dựng và phát triển tỉnh nhà của các tầng lớp nhân dân. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm những mặt hạn chế, yếu kém: chưa thật sự phát huy được vai trò là người đại diện cho quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, có nhiều vấn đề nóng bỏng quan hệ thiết thân đến quyền lợi của quần chúng, đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, đến quốc kế dân sinh, đến chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được Mặt trận tham gia với đầy đủ trách nhiệm trước nhân dân... Do đó, tác dụng của Mặt trận trong việc tập hợp và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân còn hạn chế.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết Đại hội III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại hội Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai đã xác định phương hướng nhiệm vụ chung: “Tiếp tục phát huy những thành quả thắng lợi và thuận lợi của sự nghiệp đổi mới theo đường hướng củng cố và phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nông bền vững dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đi sâu, đi sát cơ sở, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thống nhất hành động với các đoàn thể và các tổ chức thành viên, động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tham gia các phong trào hành động nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh trong những năm tới”.

Đại hội đã đề ra 6 nhiệm vụ cụ thể của các cấp Mặt trận:

- Giáo dục vận động các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng chính quyền, thực hiện dân chủ và pháp luật.

 - Vận động các tầng lớp quần chúng đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm nhằm thực hiện tốt kế hoạch kinh tế - xã hội của nhà nước, góp phần chăm lo ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

- Vận động nhân dân thực hiện các chính sách xã hội và văn hóa.

- Thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc và tự do tín ngưỡng.

- Vận động nhân dân tham gia củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

- Tăng cường giáo dục tinh thần quốc tế vô sản, tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào, Campuchia, Liên Xô và các nước anh em.

Đại hội đã hiệp thương cử 61 đại biểu đại diện cho các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội, các ngành và các cá nhân tiêu biểu vào Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai khóa III. Bà Nguyễn Bạch Tuyết tiếp tục được tái cử chức vụ Chủ tịch.

Những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ do mắc nhiều sai lầm. Tình hình đó đã tác động sâu sắc đến kinh tế - xã hội và tư tưởng, tình cảm của các tầng lớp nhân dân ta. Kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời kỳ này phát triển chậm, việc làm, đời sống nhân dân trở nên hết sức bức xúc. Không ít người đã biểu hiện tư tưởng hoài nghi, dao dộng.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Mặt trận tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân. Việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội trên từng địa bàn dân cư được các cấp Mặt trận tham gia tích cực hơn. Các tầng lớp nhân dân được tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Mặt trận cũng thực hiện tốt trọng trách tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VIII và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp.

Năm 1990, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh góp phần vào nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống: kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 15 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, 45 năm ngày thành lập nước …Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Mặt trận tuyên truyền sâu rộng đường lối, chính sách đại đoàn kết toàn dân của Đảng, truyền thống 60 năm vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/1990). Cũng trong năm này, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các đoàn thể thành viên đã tổ chức cho đông đảo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tham gia đóng góp ý vào dự thảo Nghị quyết 8B của Trung ương về đổi mới và tăng cường công tác vận động quần chúng của Đảng.

Tháng 10/1991, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ V (vòng 2) khai mạc. Báo cáo “Tình hình và nhiệm vụ chính trị” trình bày tại Đại hội đã nhận định: “Mặt trận và các đoàn thể đã mở Đại hội các cấp, củng cố tổ chức và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động gắn với xây dựng một số mô hình mới ở cơ sở như  Tổ nhân dân tự quản, hội Phụ lão, hội Bảo thọ, Công đoàn tự chủ hoạt động, Chủ tịch công đoàn giỏi, Thanh niên thực hiện chuyển giao kỹ thuật và thực hành kỹ thuật, Nông dân sản xuất giỏi, Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, nuôi con khỏe dạy con ngoanđộng viên được hội viên, đoàn viên và quần chúng hưởng ứng. Phong trào quần chúng ở vùng đồng bào tôn giáo được củng cố một bước, đã hòa nhập với phong trào cách mạng của nhân dân.

Song, còn nhiều cấp ủy Đảng chưa thực sự quan tâm đến công tác vận động quần chúng, nhất là ở các vùng đồng bào tôn giáo, đồng bào dân tộc ít người. Một số nghị quyết, chủ trương của Đảng chưa tới quần chúng, chưa nắm kịp thời nguyện vọng và đời sống của quần chúng, nên việc giải quyết thắc mắc của quần chúng còn chậm và một số trường hợp chưa thỏa đáng. Tệ hách dịch, quan liêu, ức hiếp, xa rời quần chúng còn xảy ra, có nơi nghiêm trọng. Vai trò của các đoàn thể chưa phát huy đầy đủ việc giáo dục, động viên quần chúng còn hạn chế. Quyền làm chủ của quần chúng chưa phát huy đúng mức, mặc khác có hiện tượng dân chủ cực đoan, thiếu tôn trọng pháp luật.

Tổ chức, bộ máy của Ủy ban Mặt trận và các đoàn thể tuy được củng cố, nhưng đội ngũ cán bộ có trình độ và kinh nghiệm vận động quần chúng còn ít, chưa được quy hoạch và đào tạo có hệ thống. Chính sách đối với cán bộ hoạt động đoàn thể chưa phù hợp, nên ảnh hưởng đến nhiệt tình công tác, một bộ phận cán bộ tư tưởng thiếu ổn định. Chất lượng hoạt động ở các cơ sở xã, ấp còn chưa đều, có nơi mang tính hình thức. Nội dung và phương thức hoạt động chưa chuyển kịp với tình hình mới, chưa phù hợp với sự vận động và phát triển kinh tế, nắm không chắc đoàn viên, hội viên. Đoàn viên, hội viên do ít bồi dưỡng, giáo dục và chưa có chính sách chăm lo quyền lợi thiết thực, nên đa số chưa thiết tha với đoàn thể “.

Trên cơ sở nhận định trên, Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm vụ công tác của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể từ năm 1991 đến năm 2000: “Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các hội của quần chúng phải xác định phương hướng hoạt động, cơ bản là xuất phát từ lợi ích chân chính và thiết thực của quần chúng, tích cực đổi mới mọi mặt theo Nghị quyết 8B/TW làm tốt nhiệm vụ giáo dục và tập hợp quần chúng tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Nội dung, phương thức hoạt động cần đa dạng hơn và phát huy được vai trò nòng cốt của đoàn viên, hội viên. Trước mắt là tiếp tục củng cố các mô hình đã có, kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng trong toàn tỉnh. Coi trọng phát triển đoàn viên, hội viên; bồi dưỡng cá nhân tích cực trong quần chúng để phát triển Đảng. Kiện toàn bộ máy Mặt trận và đoàn thể các cấp, bảo đảm tinh gọn có chất lượng. Phấn đấu đến năm 1995 đạt 60% - 70% cơ sở mạnh, khá và giảm dần diện yếu kém...

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua cương lĩnh của Đảng về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (1991 - 2000). Mô hình con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hình thành những nét chủ yếu.

Đại hội xác định rõ vấn đề củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài và chỉ rõ nội dung đại đoàn kết toàn dân trong thời kỳ mới. Đại hội khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là sợi dây thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”. Với quan điểm đúng đắn đó, Đại hội VII của Đảng đã mở ra những triển vọng mới cho sự nghiệp củng cố và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam.

Hoạt động của Mặt trận có thêm những nhân tố thuận lợi mới. Đảng và Nhà nước đẩy mạnh việc thể chế hóa vai trò, vị trí và trách nhiệm của Mặt trận trên một số lĩnh vực hoạt động. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Trách nhiệm của Mặt trận tham gia thực hiện các quyền lập pháp không những được ghi trong Hiến pháp mà còn được chế định rõ ràng trong nhiều bộ luật và văn bản dưới luật.

Ngày 17/11/1993, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết 07-NQ/TW về “Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”. Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ chung của Mặt trận và nhấn mạnh việc củng cố, mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam : “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần được củng cố và mở rộng về tổ chức và hoạt động để thực sự là một tổ chức tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi thể hiện nguyện vọng và ý chí của các tầng lớp nhân dân; tham gia xây dựng giám sát và bảo vệ chính quyền, tham gia quản lý xã hội, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng” góp phần tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Nghị quyết 07 Bộ Chính trị đề ra 4 chủ trương lớn trong tăng cường mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân và tiếp tục đổi mới về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cùng với cả nước, tình hình kinh tế xã hội của tỉnh từ giữa năm 1992 - 1995 đã có những chuyển biến tích cực. Bước đầu đất nước ta ra khỏi bờ vực khủng hoảng. Kinh tế đạt mức tăng trưởng khá, các mặt văn hóa xã hội có những chuyển biến tiến bộ. Tuy nhiên, quá trình chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự dịch chuyển cơ cấu đội ngũ công nhân lao động, sự hình thành tầng lớp doanh nhân hoạt động trong thành phần kinh tế tư nhân, liên doanh với nước ngoài. Sự phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo đặt ra những yêu cầu mới trong phấn đấu thực hiện công bằng xã hội. Mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động đến lối sống và đạo đức xã hội, tiêu cực trong bộ máy Nhà nước và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp khiến lòng dân không yên, niềm tin vào Đảng giảm sút.

Trước tình hình mới, Mặt trận tỉnh và các đoàn thể tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tập hợp, động viên, tổ chức nhân dân tham gia các hoạt động kinh tế xã hội, các chủ trương, giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân của Đảng được triển khai thực hiện. Công tác đào tạo công nhân được tăng cường, đào tạo lại đội ngũ công nhân lành nghề đội ngũ được giữ vững, tổ chức công đoàn bước đầu được xây dựng trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

Hội Nông dân tỉnh đẩy mạnh công tác phát triển hội viên, phát động phong trào giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, tham gia phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cũng như các mặt văn hóa xã hội ở nông thôn.

Đoàn Thanh niên với phong trào Thanh niên lập nghiệp và tuổi trẻ giữ nước đã vừa bồi dưỡng vừa phát huy được vai trò xung kích của tuổi trẻ trong thời đổi mới. Hội Liên hiệp thanh niên tỉnh mở rộng được việc tập hợp đoàn kết thanh niên  với nhiều hoạt động sôi nổi, thiết thực.

Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh có nhiều hình thức, biện pháp vận động chị em giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, nuôi dạy con tốt, thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.

Được thành lập năm 1990, Hội Cựu chiến binh tỉnh có nhiều hoạt động thiết thực phát huy được bản chất Anh bộ đội Cụ Hồ, hỗ trợ, giúp đỡ các cựu chiến binh ổn định cuộc sống gia đình, đoàn kết góp phần tích cực giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ của tỉnh nhà.

Công tác tập hợp, vận động, chăm sóc người cao tuổi, công tác đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh cũng có nhiều chuyển biến tích cực.

Tháng 5/1995 Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ IV đã long trọng khai mạc. Xuất phát từ tình hình chung của đất nước và của tỉnh, Đại hội đã xác định nhiệm vụ chung của công tác Mặt trận đến năm 2000: “Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người tán thành công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu xây dựng tỉnh nhà thành tỉnh công nông nghiệp và dịch vụ giàu mạnh, góp phần cùng cả nước giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nh ằm thực hiện di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.

Đại hội đã hiệp thương cử ra 74 đại biểu đại diện cho các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội, các ngành và các cá nhân tiêu biểu đồng bào dân tộc ít người, các đại diện tôn giáo tham gia Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh khóa IV do ông Lê Văn Triết làm Chủ tịch. Bà Nguyễn Bạch Tuyết - nguyên Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh khóa III được cử làm Chủ tịch danh dự Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh khóa IV.

II. PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, GÓP PHẦN THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA-HIỆN ĐẠI HÓA XÂY DỰNG ĐỒNG NAI GIÀU ĐẸP VĂN MINH

Quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ do Đại hội lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đề ra có nhiều thuận lợi rất cơ bản. Đại hội lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã công bố chương trình 12 điểm về Đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, chỉ rõ những trọng tâm công tác của Mặt trận.

Tháng 5/1996, trong khí thế toàn Đảng, toàn quân toàn dân hăng hái thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, phấn khởi kỷ niệm 106 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỷ niệm 21 năm ngày giải phóng miềm Nam thống nhất đất nước, Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ tỉnh Đồng Nai khai mạc. Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đã nhận định: “Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội quán triệt các Nghị quyết của Đảng, có quy chế phối hợp hoạt động với chính quyền và quy chế phối hợp hoạt động giữa các thành viên trong khối. Tổ chức và tạo điều kiện cho quần chúng phát huy trí tuệ tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giám sát hoạt động và đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ở cơ sở, xây dựng và nhân rộng nhiều mô hình tập hợp đông đảo các tầng lớp quần chúng. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng về cơ sở, quan tâm chăm lo đến đời sống thiết thực của nhân dân. Qua đó mở rộng được khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh các phong trào quần chúng tham gia xóa đói giảm nghèo, giúp nhau phát triển kinh tế, thực hiện cứu trợ, từ thiện, hòa giải, giáo dục truyền thống cách mạng trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh - thiếu niên, động viên quần chúng nhân dân tham gia thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị ở địa phương...

Để tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong thời gian tới, Đại hội đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội. Nội dung hoạt động phải xuất phát từ việc chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng về lợi ích vật chất, tinh thần của nhân dân, thống nhất nghĩa vụ và quyền lợi, kết hợp với việc chú trọng giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, tạo động lực thúc đẩy các phong trào cách mạng của nhân dân. Mọi hoạt động phải tập trung hướng về cơ sở nhằm đẩy mạnh cuộc vận động, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở địa bàn dân cư, phát triển đoàn viên, hội viên, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, cũng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động, rèn luyện cán bộ, khắc phục bệnh quan liêu, hành chính trong công tác vận động quần chúng. Hoàn chỉnh quy chế phối hợp giữa Mặt trận với các đoàn thể, với chính quyền nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng, tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân tham gia giám sát, xây dựng bảo vệ Đảng và Nhà nước. Chú trọng xây dựng, tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm các mô hình tập hợp quần chúng có hiệu quả cao của Mặt trận và các đoàn thể nhân rộng ra trong tỉnh. Tăng cường công tác vận động quần chúng trong vùng đồng bào các tôn giáo, dân tộc. Thực hiện quy hoạch, ổn định cán bộ, đẩy mạnh đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, kinh nghiệm và có chế độ đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng các cấp nhất là ở cơ sở, đảm bảo đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...”

Với những cố gắng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, công tác Mặt trận của tỉnh đã có bước tiến quan trọng: đa dạng hóa các loại hình tổ chức, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hoạt động xã hội, nâng cao chất lượng phối hợp thống nhất hành động giữa Mặt trận Tổ quốc với các tổ chức thành viên, các ngành. Đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc các cấp được tăng cường bồi dưỡng, không ngừng nâng cao năng lực công tác.

Ủy ban Mặt trận tỉnh chỉ đạo tiếp tục kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức nâng cao chất lượng hoạt động, hướng về cơ sở, hoạt động, trở thành cơ sở chính trị vững chắc cho chính quyền nhân dân, đưa đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Mặt trận Tổ quốc các cấp góp phần thúc đẩy phong trào quần chúng nhân dân cùng Nhà nước thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, thực hiện các chính sách xã hội: phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc thương binh liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng và các hoạt động nhân đạo từ thiện... Công tác Mặt trận đạt được những kết quả rõ nét trong các chương trình xã hội lớn, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, thực hiện an ninh, quốc phòng toàn dân. Các mô hình nhân dân tự quản được xây dựng ở nhiều địa bàn dân cư và phát huy hiệu quả tốt.

Tuy nhiên, diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khủng hoảng kinh tế khu vực Đông Nam Á đã tác động đến tình hình cả nước nói chung và Đồng Nai nói riêng. Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh chậm lại. Một số vấn đề xã hội tồn tại bức xúc, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ đảng viên làm ảnh hưởng xấu đến tâm tư tình cảm của các tầng lớp nhân dân.

Để tổ chức, động viên sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, những năm 1996 - 2000, MTTQ các cấp trong tỉnh đã tăng cường hiệp thương, thống nhất phối hợp hành động với các tổ chức thành viên thực hiện các chương trình công tác của Mặt trận. Điểm lại một số việc lớn đã làm trong khoảng 15 năm, từ năm 1986 đến năm 2000, ta thấy:

II.1. Phong trào đoàn kết, giúp nhau thi đua phát triển kinh tế làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo

Mặt trận Tổ quốc các cấp từ tỉnh đến cơ sở coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận phối hợp với các cơ quan nhà nước, các ban ngành và đoàn thể tích cực vận động nhân dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng.

Phong trào xóa đói giảm nghèo khởi xướng từ Tp. Hồ Chí Minh năm 1992 đã phát triển mạnh ở Đồng Nai từ năm 1993. Đây là chủ trương rộng lớn, mới mẻ, đa dạng, tổng hợp. Mặt trận tỉnh chủ động học hỏi các tỉnh, thành bạn, sáng tạo xây dựng chương trình, mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp … Chúng ta phát động dân tự giác giúp dân về giống, vốn, kinh nghiệm sản xuất; giúp người nghèo đói có cơ may thoát đói, vượt nghèo, người chưa giàu có cơ may vươn lên làm giàu hợp pháp. Kết quả từ năm 1993-2000, có 717.802 lượt hộ của 9.549 tổ được vay vốn với tổng số tiền là 283 tỉ 200 triệu đồng không tính lãi hoặc lãi rất thấp, 104.927 cây con giống các loại, 87.456 ngày công lao động đồng thời đã giúp xây dựng các dự án với tổng số vốn vay 44 tỉ 286 triệu đồng, giải quyết cho 49.864 lao động có việc làm. Nhờ phối hợp thực hiện tốt các giải pháp của chương trình xóa đói giảm nghèo đã đề ra, toàn tỉnh xóa cơ bản 11.824 hộ đói, giảm 51.586 hộ nghèo (đạt 91,28%). Đến cuối năm 2000 toàn tỉnh chỉ còn 4.924 hộ nghèo theo chuẩn mực cũ (1,14%) so với kế hoạch dự kiến là (4%), đặc biệt có 493/971 ấp và khu phố (49%), 107/163 xã phường, thị trấn (66%) đã giảm được tỷ lệ đói nghèo từ 95-100%. Hình thức tổ tự quản xóa đói giảm nghèo đã giúp cho các tổ viên sử dụng giống vốn hiệu quả, đồng thời giảm được những khoản nợ quá hạn khó đòi.

Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư (ngày 15/1/2001) và Báo cáo của hội Nông dân Đồng Nai nêu lên một số điển hình:

Ông Huỳnh Công Huệ ở khu D ấp Phước Lý xã Đại Phước (huyện Nhơn Trạch) cho 4 hộ mượn 4 ha ruộng sản xuất không tính lãi.

Ông Dương Văn Sơn ở xã Bảo Quang huyện Long Khánh vận động nhân dân ủng hộ 36 triệu đồng cho quỹ hỗ trợ nông dân, giúp 28 lượt hộ vay lãi suất thấp, trong đó 9 hộ nghèo vươn lên làm ăn khá; ông còn bán thiếu 5.600 gà giống cho bà con, đến khi xuất chuồng mới trả vốn.

Ông Nguyễn Văn Sáu ở ấp Tân Hạnh, xã Bảo Bình huyện Xuân Lộc giúp hộ nghèo 3 cây vàng không tính lãi.

18 hộ người Ch’ro ở xã Tây Hòa huyện Thống Nhất được cộng đồng dân cư giúp 9 triệu đồng để mua 6 con bò (8 tháng tuổi).

Anh Lâm Quang Trí ở xã Lộc An huyện Long Thành bán một số tài sản, đầu tư nuôi 6 con bò Sind. Anh liên hệ chặt với xí nghiệp Chăn nuôi bò sữa và trường đại học Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh học hỏi khoa học kỹ thuật, mua thêm 5 ha đất để trồng cỏ, đến năm 2000 phát triển đàn bò sữa 44 con.

Anh Nguyễn Hồng Hải ở xã Phú Lập huyện Tân Phú, từ Gò Công (Tiền Giang) lên lập nghiệp chỉ có vài tạ gạo làm vốn. Gia đình khó nhọc khai hoang lúc đầu được 1,5 ha trồng bắp, đậu, lúa; sau tính toán, tiết kiệm để tích lũy đã mở mang thêm bàu, đìa… chỉ từ năm 1997 đến năm 2000 có 3 ha tiêu, 3,7 ha nuôi cá cộng với chăn nuôi heo gà, thu nhập mỗi năm khoảng 500 triệu đồng. Anh giúp 30 hộ nghèo 2.000 nọc tiêu, hướng dẫn kỹ thuật … tổ chức câu lạc bộ trồng tiêu giúp nhau sản xuất.

Chị Nguyễn Thị Nguyên Lộc ở xã Xuân Đường, huyện Cẩm Mỹ là lao động chính (chồng mất sức không thể lao động) đã khai phá, sang nhượng 5 ha đất (trồng 3,8 ha cà phê, 1 ha tiêu xen sầu riêng, 0,2 ao), nuôi 5 heo nái, 40 heo thịt. Chị tham gia đầy đủ các buổi tập huấn, khuyến nông, xem tivi, đọc sách báo kỹ thuật … nên kết quả trồng trọt, chăn nuôi lãi ròng 200 triệu/năm. Chị giúp một số hộ nghèo 20 triệu đồng không tính lãi, hướng dẫn kỹ thuật cho số hộ phát triển kinh tế, đời sống…

Khu phố 4 phường Bình Đa vận động nhân dân cho 8 hộ nghèo mượn 10 triệu đồng không tính lãi để buôn bán nhỏ.

Nhân dân ấp 5 xã Nam Cát Tiên huyện Tân Phú đóng góp 25 chỉ vàng và 10 triệu đồng (không tính lãi) giúp một số hộ nghèo có vốn sản xuất …

Các tổ xóa đói giảm nghèo tự quản hoạt động tốt đảm bảo cho vay đúng đối tượng nên vốn vay được bảo toàn, tỉ lệ người vay không trả được nợ rất nhỏ thường rơi vào trường hợp bệnh tật kéo dài, tai nạn … mất vốn.

Nét chung của các hộ nông dân làm kinh tế giỏi là tính tự lực cao, óc tính toán tỉ mỉ, có kế hoạch sản xuất và chi tiêu, có tinh thần giúp đỡ bà con trong xóm ấp.

Thành công bước đầu của chương trình xóa đói giảm nghèo đã khơi dậy và phát huy tốt truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái tình làng nghĩa xóm tốt đẹp hơn.

II.2. Phong trào đền ơn đáp nghĩa và hoạt động nhân đạo từ thiện

Đồng Nai là vùng đất có truyền thống cách mạng lâu đời, trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, nhân dân các dân tộc toàn tỉnh đã có nhiều đóng góp và hy sinh to lớn.

Năm 1991, trước phong trào Đền ơn đáp nghĩa sôi nổi của thành phố Hồ Chí Minh, hai đồng chí Bảy Phượng và Tố Nga đã bàn bạc, tiến hành hội nghị đầu bờ vận động xây dựng 2 căn nhà tình nghĩa đầu tiên ở Mã Đà.

Phát huy truyền thống Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ người trồng cây, cao trào phát triển rầm rộ sôi nổi. Từ 1996 - 2000 Mặt trận Tổ quốc các cấp trong tỉnh đã phối hợp với các ngành chức năng và các tổ chức thành viên vận động xây dựng được 1.091 căn nhà tình nghĩa trị giá 20 tỉ 229 triệu đồng (gồm tiền do ngân sách cấp, và các khoản do vận động) cho các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người có công chưa có nhà ở, gia đình liệt sĩ, thương binh nặng... Riêng năm 1997, hai vị giám mục và các linh mục quản hạt góp 25 triệu đồng để xây dựng 1 căn nhà tình nghĩa; linh mục Nguyễn Thới Minh ở Long Khánh vận động giáo dân trong xứ đạo xây dựng 1 căn trị giá 20 triệu. Mặt trận vận động các cơ quan, doanh nghiệp và nhà hảo tâm tặng 964 sổ tiết kiệm trị giá 1.064.700.000 đồng, sửa chữa 201 căn nhà trị giá 749.433.000 đồng, chăm sóc phụng dưỡng suốt đời 93 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 452 gia đình chính sách.

Mặt trận vận động đóng góp xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa của tỉnh với tổng số tiền là 6.734.146.261 đồng. Ngoài ra còn tổ chức nhiều đoàn đi thăm, tặng quà cho khoảng 35.000 - 40.000 các hộ được hưởng chính sách (người có công, thương binh, gia đình liệt sĩ …) nhân dịp tết Nguyên đán, ngày Thương binh liệt sỹ 27/7... với số tiền trên 3,5 tỷ đồng/năm.

Từ năm 1998 - 2000, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh qua phong trào vận động nhà tình thương cho người nghèo đã xây dựng 1.105 căn trị giá 4.790.751.000 đồng. Các địa phương tiêu biểu trong phong trào này là các huyện Nhơn Trạch, Long Thành, thành phố Biên Hòa.

Cuộc vận động ủng hộ nhân dân Cu-ba anh hùng đã được cán bộ, công nhân viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tích cực hưởng ứng đạt kết quả 2,3 tỉ, vượt chỉ tiêu của Trung ương giao (2,1 tỷ đồng). Các đợt vận động ủng hộ, cứu trợ lũ lụt cho các vùng trong và ngoài tỉnh trong 5 năm với số tiền là 20.769.449.125 đồng và nhiều hiện vật có tác dụng thiết thực. Riêng các khu dân cư công giáo phát huy tinh thần bác ái giúp nhau trong cộng đồng 1.209 triệu đồng. Giáo dân hạt Tân Mai, Hố Nai, các nữ tu dòng Đa Minh Thánh Tâm, Tam Hiệp, Hà Nội quyên góp giúp đồng bào bị cơn bão số 5 trên 200 triệu. Nhiều giáo xứ cùng hội Chữ thập đỏ tổ chức khám chữa bệnh và phát thuốc miễn phí cho đồng bào nghèo trị giá hơn 800 triệu, giúp đỡ người bệnh nghèo ở các bệnh viện 500 triệu đồng …

Thông qua cuộc vận động 04, hoạt động nhân đạo, từ thiện trở thành phổ biến ở nhiều địa bàn dân cư. Chỉ tính từ năm 1996 đến năm 2000, bà con đã giúp nhau hàng chục tỉ đồng để tương trợ, cứu trợ, sửa chữa nhà, mai táng, thăm hỏi người bệnh, tổ chức khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí… cho các gia đình khó khăn nghèo túng. Hội Từ thiện tỉnh quyên góp tặng 11 tivi màu cho Trung tâm huấn nghệ cô nhi, Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật mồ côi trị giá trên 23 triệu đồng. Nhân dân khu phố 5 phường Tân Phong Biên Hòa tự nguyện góp tiền mua 1 tivi màu tặng bệnh viện Da liễu Đồng Nai. Ông Hoàng Cao Thân ở ấp Phương Lâm 2 xã Phú Lâm nuôi và chăm sóc 4 người già không nơi nương tựa. Tổ chẩn trị y học dân tộc ấp Tân Mai 2 xã Phước Tân huyện Long Thành khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân trong ấp. Hội Y học dân tộc hàng năm tổ chức khám chữa bệnh, hốt thuốc miễn phí cho người nghèo trị giá từ 2 đến 3 tỉ đồng. Hội Từ thiện duy trì việc tổ chức bữa ăn sáng miễn phí cho bệnh nhân nghèo tại bệnh viện Đồng Nai. Hội Chữ thập đỏ thành phố Biên Hòa phục vụ tại Bệnh viện Nhi tỉnh Đồng Nai.

Ban trị sự Phật giáo, Ủy ban đoàn kết công giáo tỉnh có chỉ tiêu thi đua gắn nội dung cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư với phương châm Tốt đời đẹp đạo, Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chùa Thanh Long nhận phụng dưỡng suốt đời một bà mẹ liệt sĩ, chùa Pháp Hoa huyện Định Quán trợ cấp hàng tháng cho 10 cụ già neo đơn mỗi suất 15 kg gạo và 30.000 đồng, tặng 10 học sinh nghèo mỗi suất 15 kg gạo và 100.000 đồng …

II.3. Phong trào đoàn kết phát huy dân chủ, tham gia giữ gìn trật tự trị an và xây dựng quốc phòng toàn dân

Mặt trận các cấp thường xuyên phối hợp với các đoàn thể, các ngành liên quan tổ chức tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước cho hơn 3.881.490 lượt người tham dự. Ủy ban Mặt trận tổ chức triển khai Luật MTTQVN cho hơn 150.910 lượt cán bộ Mặt trận cơ sở và các tổ chức đoàn thể thành viên; tổ chức góp ý các dự thảo luật và văn kiện Đại hội Đảng các cấp với hơn 3.298 vị đại diện các nhân sỹ trí thức, chức sắc các tôn giáo và đại biểu các dân tộc thiểu số và người Hoa trong tỉnh tham dự.

Phối hợp với Đoàn Đại biểu Quốc hội - HĐND tỉnh, Mặt trận các cấp tổ chức cho các đại biểu tiếp xúc với 248.157 lượt cử tri, qua đó tập hợp những nguyện vọng chính đáng của nhân dân phản ảnh kịp thời với Đảng, Nhà nước. Mặt trận tham gia tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X (1997) và bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp (1999) đảm bảo dân chủ, đúng luật, an toàn và tiết kiệm với kết quả cử tri đi bầu lần sau cao hơn lần trước (bầu cử Đại biểu Quốc hội, tỷ lệ cử tri đi bầu là 99,74%, bầu cử HĐND 3 cấp tỷ lệ cử tri đi bầu là 99,86%). Thực hiện vai trò giám sát, Mặt trận Tổ quốc các cấp trong tỉnh đã đề nghị bãi miễn 8 đại biểu HĐND huyện và 57 đại biểu HĐND xã. Mặt trận cũng triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở 100% thôn, ấp, khu phố (972 đơn vị) trong toàn tỉnh, tham gia hòa giải thành công 15.062 vụ mất đoàn kết ở địa bàn dân cư, giúp giảm áp lực khiếu kiện lên tòa án và các cơ quan chính quyền nhà nước. Mặt trận cơ sở cùng với chính quyền địa phương hàng năm giải quyết hàng ngàn vụ tranh chấp đất đai không lớn (chưa đến mức kiện ra tòa).

Trên lĩnh vực an ninh trật tự, Mặt trận phối hợp chặt với ngành chức năng thành phố Biên Hòa, các huyện Thống Nhất, Long Khánh, Long Thành làm thí điểm về phong trào xây dựng tổ dân phố tự quản, tổ nhân dân tự quản về an ninh trật tự. Nội dung tổ tự quản là:

- Quản lý tốt nhân hộ khẩu.

- Chăm lo đời sống nhân dân.

- Làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trên giao.

Ba tiêu chuẩn của hộ gia đình tự quản là:

   + Tự quản lý đời sống (kinh tế, văn hóa).

   + Không để người thân trong gia đình vi phạm pháp luật.

   + Đoàn kết nội bộ nhân dân, tham gia sinh hoạt đầy đủ ở địa phương.

Qua phong trào tổ dân phố tự quản, tổ nhân dân tự quản về an ninh trật tự, nhân dân đã cung cấp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật 6.931 nguồn tin có giá trị, giúp truy bắt 3.328 đối tượng phạm tội, vận động 546 đối tượng phạm pháp ra đầu thú (số có tội nặng thì bắt giữ, phần lớn chỉ đưa ra kiểm điểm giáo dục trước nhân dân rồi tổ dân phố theo dõi giáo dục tiếp). Các tổ tự quản bảo lãnh, cảm hóa một số đối tượng, giúp họ tự sửa chữa. Các anh Hồ Văn Tiếp (ấp 3 xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch), Lê Văn Hiệp (ấp 1 xã Phú Hoà, huyện Định Quán), Nguyễn Hồng Khanh (khu phố 3 phường Bình Đa, thành phố Biên Hoà)… là những đối tượng “có vấn đề”, qua sự bảo lãnh của công an khu vực, tổ Mặt trận và nhân dân trong địa bàn đã trở lại thành người lương thiện. Số đối tượng như thế này hiện nay không ít trong toàn tỉnh.

 Đồng Nai đã xây dựng trên 8.000 tổ tự quản ở cộng đồng dân cư cho tới năm 2000. Cuộc vận động xây dựng xã phường lành mạnh không có tệ nạn xã hội thực hiện có kết quả bước đầu tại 71/163 xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh. Ủy ban Mặt trận các cấp tỉnh, huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn kết hợp chặt chẽ với ban Chỉ đạo 814, công an giáo dục sâu rộng công tác phòng chống tệ nạn xã hội, xây dựng xã phường lành mạnh không có tệ nạn xã hội. Nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm trong giới chức sắc tôn giáo, người cao tuổi, các già làng với chủ đề kiên quyết bài trừ các tệ nạn xã hội được Mặt trận tổ chức. Nhờ nhân dân cung cấp tin tức, từ năm 1993-1998 các cơ quan chức năng đã truy quét, đã triệt phá 239 ổ mãi dâm, bắt 236 chủ chứa, 660 gái bán dâm đưa đi cải tạo lao động. Về ma túy, ta triệt phá 109 vụ vận chuyển, bắt 168 tên, tịch thu 36,9 kg thuốc phiện và hêrôin, thu gom 1017 lượt người nghiện nặng - phần lớn ở Biên Hòa, Tân Phú, Xuân Lộc, Long Khánh, Long Thành - đưa vào Trung tâm cai nghiện Xuân Phú để trị bệnh, giáo dục qua lao động. Trạm y tế Bửu Hòa là nơi cai nghiện cắt cơn tốt cho hàng trăm người nghiện với chi phí thấp, phù hợp điều kiện kinh tế gia đình họ.

Về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, MTTQ các cấp trong tỉnh đã phối hợp với các tổ chức đoàn thể thành viên tuyên truyền, giáo dục Luật Nghĩa vụ quân sự đồng thời tham gia tổ chức cử tuyển đảm bảo công khai, dân chủ, góp phần hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân hàng năm của tỉnh ở cả 3 cấp. Các chiến sĩ mới nhập ngũ đang rèn luyện ở quân trường được cán bộ Mặt trận cùng các đoàn thể đi thăm, tặng quà, động viên anh em cố gắng học tập. Khi chiến sĩ ra quân, Mặt trận bàn bạc với các cơ quan bố trí cho học nghề để ổn định cuộc sống.

II.4. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa

Phong trào thực hiện nếp sống văn minh gia đình văn hóa gắn với cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư  (theo tinh thần thông tri 04 của Trung ương Mặt trận và chỉ thị 36 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai) tiếp tục được duy trì và phát triển. Bốn nội dung của gia đình văn hóa là:

- Gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

- Đoàn kết tương trợ bà con xóm, phố.

- Thực hiện kế hoạch hoá gia đình, các cặp vợ chồng trẻ không sinh con thứ ba.

- Chấp hành tốt nghĩa vụ công dân.

Năm 1995 có 60,78% số hộ đăng ký và có 55,14% hộ đạt tiêu chuẩn được công nhận. Đến cuối năm 2000 số hộ đăng ký tăng lên 86% và số hộ đạt tiêu chuẩn được công nhận là 72,5%.

Xóm ấp, khu phố văn hóa có năm nội dung:

- Đoàn kết giúp nhau trong cuộc sống, trong phát triển kinh tế, phấn đấu khu dân cư không còn hộ đói, giảm hộ nghèo.

- Có đời sống văn hóa lành mạnh (không có tệ nạn xã hội: ma tuý, mại dâm, cờ bạc…), phát huy dân chủ (dân biết, dân bàn, dân tham gia làm, dân kiểm tra). Thực hiện tốt việc kế hoạch hóa gia đình, xây dựng khu dân cư không còn tệ nạn xã hội, mọi người trong độ tuổi đều biết chữ.

- Có cảnh quan xóm ấp đổi mới, có điện - đường - trường học - trạm xá, tụ điểm văn hóa vui chơi cho thanh thiếu niên, có từ 50% số hộ trở lên đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa.

- Thực hiện tốt luật pháp và chính sách xã hội, truyền thống nhân nghĩa, từ thiện. Phấn đấu khu dân cư không có người vi phạm pháp luật bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển hội viên, đoàn viên, xây dựng Đảng chính quyền, Mặt trận, đoàn thể vững mạnh.

Chương trình xã hội hóa giao thông hàng năm vẫn được tổ chức thực hiện có kết quả. Hai phường Tân Mai và Tân Phong đi đầu trong việc xã hội hóa giao thông theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Mặt trận phường cùng các đoàn thể và các chức sắc tôn giáo vận động nhân dân đóng góp để cán đá, rải bê tông nhựa nóng cho các đường trong phường, chỉ một thời gian ngắn bộ mặt khu dân cư thay đổi: khang trang, sạch đẹp hẳn. Sau đó, các phường Tam Hòa, Tân Tiến, Bình Đa, Quang Vinh, Trung Dũng (thành phố Biên Hoà), thị trấn Xuân Lộc, các xã Bình Lộc, Xuân Tân (huyện Long Khánh), thị trấn Long Thành, xã Phước Tân (huyện Long Thành), các xã Gia Kiệm và Gia Tân 2 (huyện Thống Nhất), các xã Xuân Bảo, Sông Ray (huyện Xuân Lộc) … bằng nhiều phương thức chủ động huy động không bình quân (góp tiền, công lao động, phương tiện phục vụ), nhân dân tự ký hợp đồng với đơn vị thi công, tổ chức giám sát thi công, xây dựng qui chế bảo quản với sự hướng dẫn của chính quyền, Mặt trận. Qua việc xã hội hóa làm đường giao thông nội bộ, nhân dân tự nguyện di dời hàng trăm ngàn mét hàng rào, hiến đất, chặt cây cối mở rộng đường. Cá nhân tiêu biểu là ông Võ Văn Đức (ấp Bến Đình, xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch) chặt số cây ăn trái trị giá hàng triệu đồng. Nhân dân tổ dân cư 3, 4, 5 ấp Lộc Hòa xã Tây Hòa huyện Thống Nhất tự di dời 12.000 mét hàng rào để làm đường.

Trong 5 năm từ 1996 - 2000, Mặt trận các cấp đã vận động nhân dân đóng góp được trên 50 tỷ đồng cùng nhà nước sửa chữa, nâng cấp 436 km đường, tạo thuận lợi cho nhân dân trong việc đi lại và vận chuyển nông sản hàng hóa. Ngoài ra việc vận động xây dựng nhà vệ sinh ở nông thôn, giải tỏa các bãi rác, đào giếng để sử dụng nước hợp vệ sinh, khai thông đường mương, cống rãnh, xây dựng ấp, khu phố có đường thông hè thoáng, nhà sạch, phố đẹp đang trở thành phong trào rộng rãi và có hiệu quả thiết thực.

II.5. Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe cộng đồng phấn đấu xây dựng khu dân cư không có người sinh con thứ 3

Mặt trận các cấp đã vận động nhân dân đóng góp xây dựng quỹ xã hội hóa giáo dục của tỉnh với tổng số tiền trên 98 tỷ đồng để xây dựng 810 phòng học, sửa chữa nâng cấp 632 phòng, mua sắm trang thiết bị cho các trường học, tặng học bổng cho học sinh nghèo hiếu học trị giá 785.655.000 đồng cùng với nhiều hiện vật khác. Không chỉ giới hạn trong việc phát động cha mẹ học sinh đóng góp theo qui định, Mặt trận cùng các đoàn thể phối hợp với chính quyền địa phương và ngành giáo dục còn vận động các đơn vị, các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài tỉnh tham gia phong trào xã hội hóa giáo dục như công ty Vedan, công ty Tae Kwang Vina, công ty Vietronics Biên Hòa, trường Sĩ  quan lục quân 2, xí nghiệp Lắp máy 45, nông trường cao su Thái Hiệp Thành, hòa thượng Thích Thanh Từ, thiền viện Thường Chiếu, linh mục Vũ Ngọc Yến (giáo xứ Bạch Lâm, huyện Thống Nhất), linh mục Nguyễn Hữu Kiều (giáo xứ Núi Đỏ huyện Long Khánh) … Giáo dân ấp Hòa Bình xã Đông Hòa (huyện Thống Nhất, nay là huyện Trảng Bom) đóng góp xây dựng 5 phòng học và tường rào trị giá trên 300 triệu đồng. Linh mục Vũ Ngọc Yến vận động giáo dân trong xứ hiến 9700 m2 đất để xây dựng trường học …

Đất đai là tài nguyên ngày càng có giá cao, song cả tỉnh đã có 32 vị hiến đất xây dựng công trình giáo dục [184].

Năm 1998, ông Phan Văn Chống hiến 9.000 m2 để xây dựng lớp học của trường tiểu học Cầu Xéo thị trấn Long Thành; ông Thòong Sềnh Kín hiến 1 mẫu đất cộng với ông Lâm Văn Chuyển tặng 2.500 m2 để xây dựng trường tiểu học Phú Tân (Định Quán); ông Huỳnh Văn Tư hiến 1.500 m2 đất làm trường tiểu học Thanh Sơn (Định Quán).

Năm 1999, ban Quí tế phường Trảng Dài thành phố Biên Hòa hiến 2.000 m2 xây dựng 6 phòng học của trường tiểu học Trảng Dài; ông Huỳnh Điểu Hồng tặng 800 m2 xây lớp học của trường tiểu học Tân Hiệp (Long Thành); ông Trần Văn Bổ tặng 500 m2 xây lớp mẫu giáo xã Phước Bình (Long Thành); ông K’Lư (dân tộc Xtiêng) hiến 800 m2 đất xây lớp mẫu giáo xã Tà Lài (Tân Phú); ông Dương Văn Măng hiến 1.000 m2 xây 2 phòng của trường tiểu học Trần Quốc Toản xã Phú Xuân (Tân Phú); giáo xứ Bạch Lâm xã Gia Tân 2 huyện Thống Nhất hiến 4.500 m2 xây lớp học.

Năm 2000, ông Đỗ Tấn Nữa tặng 200 m2 đất xây lớp mẫu giáo xã Phước Khánh (Nhơn Trạch); ban Hộ tự chùa Linh Phú hiến 4.100 m2 xây 9 phòng trường trung học cơ sở Phú Sơn (Tân Phú); ông Nguyễn Văn Dầu tăng 180 m2 xây khu vệ sinh trường tiểu học Huỳnh Tấn Phát xã Phú Xuân; bà Nguyễn Thị Tư hiến 1.000 m2 xây 4 phòng trường tiểu học Cây Xoài xã Tân An (Vĩnh Cửu);

Năm 2001, ông Lý Văn Ri tặng 2.000 m2 đất để xây trường trung học cơ sở Dương Văn Thì xã Phú Hữu (Nhơn Trạch); ông Nguyễn Ngọc Lư hiến 1.000 m2 mở rộng trường tiểu học Hữu Nghị xã Phú Lập (Tân Phú); ông Nguyễn Chí Dũng tạng 600 m2 xây phòmh cho mẫu giáo Phú Lộc (Tân Phú); ông Hồ Viết Tiếu hiến 1 ha dự định xây trường trung học cơ sở Ngọc Định.

Năm 2002, ông Trần Văn Kỉ tặng 500 m2 xây phòng cho trường tiểu học Lộc An (Long Thành); ông Lê Quang Long tặng 600 m2 xây phòng cho mẫu giáo Phú Bình (Tân Phú); ông Sềnh Cún Pẩu tặng 550 m2 xây trường mẫu giáo Ngọc Lan thị trấn Định Quán.

Việc hiến đất xây dựng trường học thể hiện sự quan tâm sâu sắc của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đối với sự nghiệp giáo dục-đào tạo và trở thành một phong trào có ý nghĩa chính trị lớn trong sự nghiệp xã hội hóa giáo dục. Mặt trận và ngành giáo dục cùng các đoàn thể quan tâm vận động mở các lớp học tình thương tạo điều kiện cho trẻ được tiếp tục đi học. Nhiều tổ chức, cá nhân tự nguyện cho mượn nhà làm phòng học, vận động trẻ ra lớp, vận động các nhà hảo tâm tặng vở, bút … Ông Đào Văn Truyện (ấp Suối Sóc, Xuân Mỹ, Long Khánh) cho mượn nhà làm lớp học, còn vận động học viên người dân tộc đến lớp. Mặt trận và hội Khuyến học phường Tân Mai (Biên Hòa) xây dựng lớp học tình thương trị giá 12 triệu, trao 1.307 suất học bổng tổng cộng 90 triệu. Dòng nữ tu Thánh Thể, dòng Mến thánh giá Bắc Hải tổ chức lớp học cho các em bại liệt. Tịnh xá Ngọc Ấn tòng lâm giúp mỗi tháng 200.000 đồng cho lớp học tình thương của đồng bào dân tộc Chơro ở Suối Rết (Xuân Hòa, Long Khánh) …

Nhờ phong trào xã hội hóa giáo dục, công tác chống mù chữ và phố cập bậc tiểu học, đến năm 1998 có 100% phường, xã, thị trấn trong tỉnh được công nhận phổ cập tiểu học.

Phong trào xây dựng Gia đình có ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo ngày càng lan tỏa rộng. Năm 1999, toàn tỉnh có 43.669 hộ đạt tiêu chuẩn này. Phong trào Tấm áo tặng bà, Áo lành tặng bạn được các cấp, các ban ngành, các tầng lớp nhân dân nhiệt tình hưởng ứng vì tác động mạnh đến việc gìn giữ truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam với các thế hệ sống đạo đức, hiếu thảo.

 Về chăm sóc sức khỏe nhân dân: Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trong tỉnh và các tổ chức thành viên đã phối hợp chặt chẽ với ngành y tế có nhiều hoạt động tích cực và hiệu quả nhất là trong việc phòng chống sốt rét ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Một số bệnh viện của tỉnh, huyện và Hội Chữ thập đỏ, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Y học cổ truyền đã tổ chức nhiều đợt khám bệnh nhân đạo cấp thuốc miễn phí cho đồng bào, đi đôi với việc tổ chức vận động ăn ở vệ sinh, làm sạch môi trường nhờ đó mà bệnh sốt rét và tỷ lệ tử vong do bệnh sốt rét gây ra hàng năm đều giảm đáng kể. Việc phòng chống dịch bệnh ở mỗi khu dân cư hàng năm đều được tích cực vận động, đồng thời phong trào luyện tập thể dục thể thao để giữ gìn sức khỏe được phát động, đặc biệt là phong trào thể dục dưỡng sinh trong người cao tuổi được phát triển rộng khắp trên địa bàn tỉnh.

Mặt trận cùng hội phụ nữ phối hợp chặt với Ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình đẩy mạnh việc vận động kế hoạch hóa gia đình Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ… Nhiều khu dân cư hình thành các câu lạc bộ không sinh con thứ ba như ấp Chợ xã Phước Thiền (Nhơn Trạch), khu phố 9 phường Tân Phong (Biên Hòa), câu lạc bộ đình sản nam dân tộc Ch’ro xã Xuân Thọ (huyện Xuân Lộc). Trong 5 năm (1996-2000), đã có 1.130 chức sắc, chức việc các tôn giáo, 1.470 già làng, người Hoa, người cao tuổi dự các cuộc tọa đàm về kế hoạch hóa gia đình. Vì vậy nên tỉ lệ tăng dân số chỉ còn ở mức 1,5% (năm 2000). 

II.6. Tập trung kiện toàn tổ chức vững mạnh, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đi đôi với việc tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức thống nhất hành động của Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trên địa bàn tỉnh

Hơn 10 năm, đặc biệt là từ năm 1996 - 2000, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể thành viên đã phối hợp triển khai thực hiện tốt thông tri 04-TT/MTTW của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chỉ thị 36-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai về cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở địa bàn dân cư. 6 nội dung thiết thực, cụ thể của cuộc vận động mang tính toàn dân, toàn diện và được thực hiện lâu dài có ý nghĩa lớn về kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng nhằm phát huy nội lực, xây dựng cuộc sống mới về mọi mặt cho nhân dân tại cộng đồng dân cư theo phương châm Lấy sức dân mà chăm lo cho dân. Cuộc vận động đã đáp ứng được lợi ích thiết thực của cộng đồng dân cư, được nhân dân tích cực hưởng ứng. Đến nay đã có 100% khu dân cư (972/972 ấp, khu phố) phát động thực hiện phong trào. Qua hơn 5 năm thực hiện đã có 732 khu dân cư đạt tốt và khá, 77 khu dân cư đạt xuất sắc; 350 khu dân cư được tặng giấy khen cấp huyện, thành phố; 130 khu dân cư được tặng bằng khen cấp tỉnh; 05 khu dân cư được tặng bằng khen cấp Trung ương (trong đó có 2 khu dân cư được chọn đi dự liên hoan khu dân cư xuất sắc toàn quốc tại thủ đô Hà Nội).

Qua cuộc vận động này khối đại đoàn kết toàn dân trong tỉnh được tăng cường, tình làng nghĩa xóm được phát huy, quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân được thực hiện theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, khơi dậy mạnh mẽ nguồn nội lực trong nhân dân, cùng với nhà nước xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. Mặt khác cũng qua cuộc vận động này hệ thống mạng lưới Ban công tác Mặt trận ấp, khu phố và Tổ Mặt trận ở địa bàn dân cư từng bước được củng cố kiện toàn và xây dựng, phát triển đều khắp. Năm 1995 toàn tỉnh có 911 Ban công tác Mặt trận ấp, khu phố; 6.845 Tổ mặt trận trên địa bàn dân cư. Đến cuối năm 2000 có 976 Ban công tác Mặt trận, 9.064 tổ Mặt trận.

Hệ thống Mặt trận cơ sở xã, phường, thị trấn không ngừng được củng cố kiện toàn về mặt tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động. Năm 1995 có 47,85% đơn vị cơ sở vững mạnh; 36,8% cơ sở khá; 15,3% cơ sở trung bình, đến năm 2000 cơ sở vững mạnh 75,46%; cơ sở khá 22,09%; cơ sở trung bình 2,45%.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh đã tiến hành đa dạng hoá các hình thức tập hợp lực lượng để không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, ngoài ra các đoàn thể thành viên chủ yếu trong hệ thống chính trị, Mặt trận tập hợp thêm 30 tổ chức thành viên với hơn 5.200 hội viên bao gồm các tổ chức kinh tế như: Hiệp hội gốm mỹ nghệ, Hiệp hội công thương, hội Làm vườn, hội Chăn nuôi, Hiệp hội chế biến lâm đặc sản... Các tổ chức xã hội, nghề nghiệp như: hội Từ thiện, hội Người mù, hội Khuyến học, hội Nhà báo, hội Châm cứu, hội Y học dân tộc, Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật tỉnh ...

Hội người cao tuổi đã thành lập ở tất cả các phường, xã, thị trấn trong toàn tỉnh và đi vào nề nếp, với 9/9 Ban đại diện cấp huyện, thành phố và 1 Ban đại diện ở cấp tỉnh được sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi của các cấp chính quyền và các tổ chức đoàn thể. Hoạt động của hệ thống người cao tuổi các cấp trong tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt qua phong trào thi đua Tuổi cao, chí càng cao, nêu gương sáng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Trung ương Hội phát động trong những năm gần đây ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của người cao tuổi trong sự nghiệp phát triển mới của Đồng Nai.

Về đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, liên minh chính trị phối hợp thống nhất hành động là nguyên tắc tổ chức, là chức năng và phương hướng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc các cấp trong tỉnh đã chủ động lấy 6 nội dung của cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư làm nội dung đổi mới công tác Mặt trận, đã đi vào cuộc sống ở thôn, ấp, khu phố, được đông đảo các tầng lớp dân cư, đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo đồng tình hưởng ứng đã góp phần tạo nên nét đẹp trong cuộc sống ở từng cộng đồng dân cư.

Sự phối hợp thống nhất hành động đã thể hiện bằng việc ký kết các quy chế, các chương trình công tác giữa Mặt trận Tổ quốc với Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân dân, giữa Mặt trận Tổ quốc với các ngành như: Văn hóa - thông tin, Giáo dục - đào tạo, Lao động thương binh - xã hội, Giao thông vận tải, Công an, Nông nghiệp phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, Trung tâm y tế dự phòng, Cục thuế, Cục phòng chống tệ nạn xã hội... Ngoài ra còn phối hợp với Sở Tư pháp trong việc tổ chức tuyên truyền phổ biến pháp luật cho nhân dân. Phối hợp với Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận Tỉnh ủy, Ban Tôn giáo chính quyền tỉnh để triển khai các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nghị định của Chính phủ đến chức sắc, chức việc các tôn giáo và các giới thành viên của Mặt trận. Cùng với Hội Nông dân tỉnh tổ chức họp mặt già làng và biểu dương những nông dân sản xuất giỏi tiêu biểu trong đồng bào các dân tộc thiểu số.

Ngày 28-29/6/2003, Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ V đã được tiến hành. Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm vụ chung đến năm 2004 là Phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường, tập hợp đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, các tôn giáo trong Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức làm nền tảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng tỉnh Đồng Nai giàu mạnh, văn minh.

Đại hội đã hiệp thương cử ra 71 vị đại biểu đại diện cho các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội, các ngành và các cá nhân tiêu biểu vào Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Khóa V. Ông Dương Minh Ngà được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

Nhìn lại chặng đường trong những năm 1996 - 2000, cùng với đề xướng và lãnh đạo đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại đại hóa đất nước, Đảng ta ngày càng khẳng định vấn đề có ý nghĩa chiến lược là xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ đất nước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Vị trí, vai trò, chức năng to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng được khẳng định và thể chế hóa trong Hiến pháp và các bộ luật của Nhà nước. Đặc biệt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa Việt Nam (khóa X) thông qua ngày 12/6/1999 là cơ sở pháp lý để nâng cao vị thế Mặt trận lên tầm cao mới trong đời sống chính trị xã hội của toàn dân tộc.

Các cấp ủy Đảng ở Đồng Nai dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã quán triệt và lãnh đạo thực hiện một cách nghiêm túc có vận dụng, sáng tạo những quan điểm, chủ trương của Đảng về tổ chức Mặt trận và công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh đã tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội và sự phát triển của tỉnh nhà. Cùng với cả nước vững bước vào thế kỷ 21, MTTQ tỉnh càng nỗ lực hơn nữa nhằm góp phần xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng đất nước nói chung và Đồng Nai nói riêng, vì mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 


KẾT LUẬN

 

Đồng Nai là mảnh đất “Địa linh nhân kiệt“ có quá trình hình thành và hội cư khá tiêu biểu. Từ thế kỷ thứ 17, để tránh cuộc chiến tranh phi nghĩa giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, những nông dân nghèo khó của xứ Ngũ Quảng đã lần hồi theo đường bộ, đường biển vào Nam và vùng đất Đồng Nai, dừng chân khai phá, sinh cơ, lập nghiệp, cùng các cộng đồng cư dân khác góp công sức xây dựng thương cảng Cù Lao phố - một biểu tượng của truyền thống đoàn kết dân tộc ở Đồng Nai.

Điều kiện tự nhiên, đặc điểm lao động, sinh hoạt và sự dung hợp văn hóa trên vùng đất mới… càng gắn kết những cộng đồng cư dân, xây dựng nên truyền thống đoàn kết và là tác nhân tạo nên tính cách con người Đồng Nai rất phóng khoáng, cởi mở, trọng chữ tín hơn tiền tài, dũng cảm và kết đoàn. Khi đất nước nguy biến, đối mặt với nguy cơ bị xâm lược, cộng đồng các dân tộc, các tầng lớp xã hội đã không ngừng đoàn kết đấu tranh và một lòng tập hợp dưới ngọn cờ đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh để làm nên thắng lợi.

Cách mạng tháng Tám ở Biên Hòa thành công khẳng định đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng ta, trước hết là đường lối đại đoàn kết dân tộc. Chính nhờ tập hợp, đoàn kết tất cả dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà Đảng bộ Biên Hòa tuy chỉ có 40 đảng viên nhưng đã lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945. Đoàn kết là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm sự thành công của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai nói riêng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ (1945-1975), Biên Hòa - Đồng Nai là một trong những chiến trường trọng điểm, nơi đặt những cơ quan chỉ huy đầu não, những căn cứ quân sự chiến lược lớn của địch ở miền Đông Nam bộ. Biên Hoà - Đồng Nai cũng là chiến trường có những căn cứ cách mạng quan trọng như chiến khu Đ, chiến khu rừng Sác, nhiều thành phần dân tộc, trong đó đội ngũ công nhân khá đông, nhiều tôn giáo. Thực dân, đế quốc xâm lược thực hiện nhiều âm mưu thủ đoạn thâm độc trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, không chỉ nhằm đánh phá căn cứ cách mạng, tiêu diệt lực lượng kháng chiến mà còn nhằm mục tiêu quan trọng là gây chia rẽ dân tộc, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết toàn dân.

Có thể nói cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ vì độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cũng là cuộc đấu tranh của Đảng bộ và nhân dân Biên Hoà - Đồng Nai nhằm xây dựng và bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân, bởi chỉ có xây dựng được khối đại đoàn kết, mới tạo được sức mạnh tổng hợp toàn dân đánh bại kẻ thù.

Nhận thức rất rõ vấn đề có ý nghĩa chiến lược này, trong chống Pháp, chống Mỹ, Đảng bộ địa phương đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng, tổ chức Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Dân tộc giải phóng với những tổ chức thành viên theo ngành giới, để tập hợp rộng rải các tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc kháng chiến.

30 năm kháng chiến gian khổ, hy sinh, cán bộ Mặt trận các cấp trong tỉnh đã lăn lộn với phong trào, bám đất, bám dân, sống chết với dân để tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng, cương lĩnh đoàn kết toàn dân của Mặt trận, phát động mọi tầng lớp nhân dân tùy theo khả năng của mình tham gia kháng chiến. Do đặc điểm chiến trường, công tác vận động đồng bào dân tộc, đồng bào có đạo, vận động công nhân (cao su và công nghiệp) rất được Đảng bộ, Mặt trận chú trọng và mang lại hiệu quả thiết thực. Từ vùng căn cứ, đến vùng du kích, tạm chiếm (trong chống Pháp); vùng rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị (trong chống Mỹ), trong các ngành giới, loại hình lao động… cán bộ Mặt trận các cấp đều có mặt làm nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, cùng với nhân dân đấu tranh. Không ít cán bộ Mặt trận đã ngã xuống cho sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó có đồng chí Điểu Xiển, người con ưu tú của dân tộc Ch’ro, đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên (1946); Nguyễn Văn Nghĩa, nguyên Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh Biên Hòa thà hi sinh (11-1946) nhất định không cộng tác với giặc Pháp.

Trong kháng chiến cán bộ Mặt trận thực hiện phương châm “5 bước công tác”, thực hiện “3 cùng” với nhân dân, kết hợp tuyên truyền đường lối của Đảng với hướng dẫn nhân dân đấu tranh bảo vệ quyền lợi thiết thân, đã góp phần to lớn xây dựng niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của cách mạng; động viên được các nguồn lực trong dân ủng hộ kháng chiến. Gắn bó với nhân dân, kết hợp hài hòa lợi ích của cách mạng với lợi ích quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ cách mạng và nhân dân là bài học cho công tác Mặt trận ở bất kỳ thời điểm nào.

Đất nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng như các tỉnh ở Nam bộ, Đồng Nai chịu nhiều thiệt hại do chiến tranh ác liệt để lại hậu quả nặng nề: Nhiều ruộng đất bị bỏ hoang, nạn thất nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn do thiếu nguyên liệu…, một bộ phận nhân dân, nhất là những người có cộng tác với chính quyền, quân đội Sài Gòn thì hoang mang lo sợ… Bên cạnh đó, các thế lực thù địch không ngừng tuyên truyền, xuyên tạc, kích động, tập hợp lực lượng chống phá công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tình hình mới đặt cho Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai một nhiệm vụ nặng nề: Xây dựng tổ chức Mặt trận vững mạnh từ tỉnh xuống cơ sở, làm nòng cốt thực hiện chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc, tập hợp rộng rải tất cả dân tộc, tôn giáo, tầng lớp giai cấp xã hội cùng với Đảng, Chính quyền và các đoàn thể cách mạng vận động mọi nguồn lực khắc phục hậu quả chiến tranh; ổn định tình hình chính trị trật tự an toàn xã hội; xây dựng phát triển kinh tế xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.

Phát huy truyền thống đại đoàn kết trong kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và Ủy ban Mặt trận Trung ương Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận tỉnh Đồng Nai đã không ngừng được mở rộng, ra sức động viên và tổ chức toàn dân trong tỉnh tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng chính quyền, phát huy quyền làm chủ xã hội chủ nghĩa, hăng hái thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần hoàn thành thắng lợi các kế hoạch Nhà nước đề ra.

Trong giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới, từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai không ngừng được củng cố, mở rộng, đổi mới phương thức tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, hình thành mạng lưới công tác Mặt trận đến tất cả ấp, khu phố và địa bàn  dân cư trong tỉnh, đưa đường lối đổi mới của Đảng vào cuộc sống, chăm lo đến đời sống thường ngày, mối quan tâm và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Nhiều phong trào, nhiều cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc tỉnh phát động đã thực sự đi vào lòng dân, được nhân dân đồng tình hưởng ứng đạt hiệu quả thiết thực, điển hình là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” nay là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”... Mặt trận Tổ quốc đã góp phần quan trọng trong việc đưa đường lối của Đảng, Chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân; vận động và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực xây dựng chính quyền, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân, phát huy các nguồn lực xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà.

Gần hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế Đồng Nai phát triển theo định hướng đổi mới, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp - dịch vụ thương mại - nông nghiệp (trong đó tỷ trọng công nghiệp chiếm tỷ lệ trên 63%). Tuy nhiên, các thế lực phản động trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách gây mất ổn định chính trị nhằm phá hoại khối đoàn kết dân tộc; đồng thời mặt trái của cơ chế thị trường với nhiều tác động tiêu cực cũng có khả năng gây phức tạp, làm rạn nứt mối quan hệ truyền thống trong cộng đồng. Cơ cấu các giai cấp, thành phần dân cư, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội có ảnh hưởng đến tư tưởng của nhân dân trong tỉnh. Đó là những thách thức to lớn đối với Mặt trận, công tác Mặt trận hiện nay.

Nhìn lại quá trình 70 năm xây dựng và trưởng thành của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai, tuy mỗi chặng đường cách mạng và tên gọi của tổ chức Mặt trận có khác nhau, song công tác Mặt trận luôn luôn được Đảng bộ tỉnh xác định là một bộ phận gắn bó máu thịt với sự nghiệp cách mạng, là một công tác quan trọng của Đảng. Từ thực tiễn hoạt động sinh động, phong phú và đa dạng của tỉnh nhà hơn 7 thập kỷ qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau :

1. Mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng, coi trọng đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết dân tộc nhằm mục đích đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Đây sợi chỉ đỏ, là bài học xuyên suốt quá trình 70 năm đấu tranh cách mạng vẻ vang của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai.

Mỗi giai đoạn lịch sử, Mặt trận Dân tộc Thống nhất đều có nhiệm vụ cụ thể xuất phát từ đường lối của Đảng, yêu cầu của đất nước và dân tộc. Nhưng tính chất chung nhất, nhiệm vụ xuyên suốt của Mặt trận bao giờ cũng là tổ chức tập hợp đông đảo nhất, rộng rãi nhất lực lượng của toàn xã hội với mục tiêu thực hiện đại đoàn kết toàn dân. Nếu trước 1945, Mặt trận Việt Minh tập hợp quần chúng với mục tiêu giành độc lập; trong kháng chiến chống thực dân Pháp mục tiêu đó là vận động toàn dân đoàn kết bảo vệ nền độc lập vừa giành được; trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mục tiêu đó là đoàn kết toàn dân kết hợp sức mạnh toàn dân với sức mạnh thời đại giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc; thì ngày nay mục tiêu của Mặt trận là tập hợp toàn dân tộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Căn cứ vào nhiệm vụ mục tiêu chiến lược, từng thời đoạn lịch sử, Mặt trận đề ra khẩu hiệu thích hợp và phương thức tập hợp quần chúng một cách cụ thể, hiệu quả. Trong kháng chiến, tùy theo đặc điểm từng vùng, Mặt trận vận dụng nhiều hình thức hoạt động bí mật, công khai, bán công khai, tập hợp các đoàn thể cách mạng, các nhân sĩ trí thức yêu nước, các tôn giáo, dân tộc… cùng đoàn kết kháng chiến; thì ngày nay trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc, đối tượng vận động tập hợp của Mặt trận càng được mở rộng hơn, không chỉ theo tầng lớp giai cấp, mà còn chú trọng đến đặc điểm ngành nghề, lao động, tính chất hoạt động và địa bàn cư trú (không chỉ vận động người Việt trong nước, mà còn vận động kiều bào ở ngoài nước), trên cơ sở khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nòng cốt. Thực tế gần 20 năm đổi mới cho thấy việc xác định đối tượng, để không ngừng củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân là nhiệm vụ chiến lược, một trong những nguyên nhân tăng cường sức mạnh, hoàn thành thắng lợi các chương trình hành động Mặt trận đã đề ra.

2. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là nhiệm vụ chung của toàn bộ hệ thống chính trị. Trong đó tổ chức Mặt trận các cấp phải chủ động, bám sát cơ sở, nắm bắt nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đề xuất với Đảng, Nhà nước và tổ chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng

Sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân là nhiệm vụ thường xuyên của hệ thống chính trị, được khẳng định trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội.

Trong thời kỳ chiến tranh, thực tế mỗi cán bộ, chiến sĩ đều là một “cán bộ Mặt trận”, và chỉ có làm tốt công tác vận động quần chúng thì mới có thể tồn tại và hoạt động được. Trong bất cứ tình hình nào, khó khăn hay thuận lợi, dù ở vùng căn cứ hay vùng du kích, tạm chiếm, không chỉ cán bộ làm công tác Mặt trận xác định “dân là gốc”, nhờ vậy ta kịp thời nắm bắt nguyện vọng của quần chúng, được quần chúng thông tin, thậm chí hiến kế để hoạt động có hiệu quả. Cán bộ Mặt trận trong kháng chiến đã làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng với nhân dân.

Ngày nay, Mặt trận được tổ chức rộng, các cấp ủy quán triệt quan điểm của Đảng để xác định chủ trương, phương hướng nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế xã hội, định hướng cho hoạt động của công tác Mặt trận, nhưng Đảng cũng là một thành viên của Mặt trận. Đảng thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo công tác Mặt trận, giúp tổ chức Mặt trận kiện toàn đội ngũ cán bộ và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động đồng thời gương mẫu trong vai trò thành viên của tổ chức Mặt trận.

Hội Đồng Nhân dân, Ủy Ban Nhân dân chủ động và tạo điều kiện cụ thể để Mặt trận thực sự là cơ sở chính trị xã hội, là chỗ dựa cho chính quyền, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và chính quyền. Xây dựng quy chế về mối quan hệ và làm việc giữa Hội Đồng Nhân dân - Ủy Ban Nhân dân với Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp là một trong những biện pháp thiết thực để tăng cường sự phối hợp thống nhất hành động giữa hệ thống Mặt trận với chính quyền, đồng thời nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tất cả đảng viên, cán bộ với công tác vận động quần chúng. Như vậy, Mặt trận mới phản ánh kịp thời đến chính quyền những nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và thực hiện tốt vai trò giám sát của Mặt trận đối với hoạt động của chính quyền theo quy định của pháp luật.

3. Công tác tổ chức tập hợp quần chúng phải có yêu cầu và nội dung hoạt động cụ thể, đồng thời phải biết kết hợp chăm lo lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân gắn với công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và ý thức chấp hành kỷ cương luật pháp cho nhân dân

Mỗi giai đoạn cách mạng, đều có những nhiệm vụ chiến lược, công tác Mặt trận không thoát ly các nhiệm vụ đó. Tuy nhiên ở mỗi thời đoạn, đối tượng vận động của Mặt trận có khác, do đó đòi hỏi công tác vận động quần chúng, đoàn kết tập hợp quần chúng phải được đổi mới về cả nội dung và phương thức cho phù hợp.

Trong thời kỳ kháng chiến, cán bộ, chiến sĩ nói chung, cán bộ Mặt trận nói riêng đều lấy dân làm cơ sở, gắn bó chặt chẽ với quần chúng, trong hoạt động gắn bó hai nhiệm vụ: tuyên truyền đường lối kháng chiến, vận động nhân dân tham gia cách mạng, đồng thời biết lắng nghe, bảo vệ lợi ích của nhân dân (lãnh đạo đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ kết hợp đấu tranh chính trị). Đem lại quyền lợi cho nhân dân chính là một biểu hiện kết quả cụ thể trong công tác vận động quần chúng[185].

Ngày nay Mặt trận là cầu nối giữa Đảng, Chính quyền với nhân dân, việc đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận càng phải được đẩy mạnh hơn. Thực hiện tốt chức năng phối hợp, thống nhất hành động với các tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền các cấp, tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh của tỉnh. Hướng công tác Mặt trận về địa bàn dân cư, đến từng hộ gia đình, để vừa nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, vừa nâng cao ý thức công dân. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với phong trào xây dựng ấp, khu phố văn hóa. Coi trọng hoạt động thực tiễn, lấy đó làm thước đo kết quả công tác Mặt trận của tập thể và cá nhân.

4. Quan tâm chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc có ý nghĩa quyết định hiệu quả quá trình đổi mới công tác Mặt trận theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Trong kháng chiến, cán bộ nói chung, cán bộ Mặt trận nói riêng được dân mến, dân thương, dân tin, bởi cán bộ là đại diện của Đảng, là hiện thân của cách mạng, trước kẻ thù thì dũng cảm, kiên cường đấu tranh, với nhân dân thì tin tưởng, biết lắng nghe, quan tâm đến quyền lợi của dân.

Bài học này ngày nay vẫn còn nguyên giá trị của nó. Trình độ nhân dân không ngừng được nâng lên, kết hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới, ngày nay cán bộ Mặt trận ngoài việc xác định vững vàng lập trường, quan điểm của Đảng, chủ trương chính sách, pháp luật Nhà nước, còn đòi hỏi những kiến thức toàn diện về kinh tế, quản lý, pháp luật, tâm lý học… mới có đủ năng lực để tuyên truyền, giáo dục, giải thích, động viên đối tượng tham gia các tổ chức, hoạt động.

Công tác vận động quần chúng, công tác Mặt trận không thể là vận động chung chung, mà phải hướng vào việc làm lợi cho tập thể, cho xã hội, cho nhân dân, nhằm mục tiêu cải thiện, nâng cao đời sống quần chúng.

5. Tăng cường sự lãnh đạo của các ấp ủy Đảng đối với công tác Mặt trận

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng lãnh đạo công tác Mặt trận. Quá trình phát triển và cống hiến của Mặt trận không tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Đảng vừa là tổ chức thành viên trong Mặt trận vừa là người lãnh đạo Mặt trận.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận không phải là sự áp đặt mà là đòi hỏi khách quan từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, từ chính cương lĩnh và hoạt động của Mặt trận. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích của toàn dân tộc. Vì vậy để lãnh đạo được toàn thể giai cấp và dân tộc, lãnh đạo được Mặt trận, Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực tổ chức thực tiễn và uy tín chính trị, bản lĩnh chính trị. Năm 1939 khi còn hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có ý kiến chỉ đạo công tác Mặt trận.

Người nêu rõ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo“.

Thực hiện lời chỉ dẫn đó, Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và đổi mới đã luôn luôn rèn luyện để xứng đáng là người lãnh đạo Mặt trận. Đường lối của Đảng được thể hiện và quán triệt trong cương lĩnh, hoạt động của Mặt trận. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là hạt nhân đoàn kết toàn dân và tăng cường đoàn kết trong Mặt trận. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện rất quan trọng để củng cố sức mạnh và hoạt động có hiệu quả của Mặt trận. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo tốt công tác Mặt trận chính là lãnh đạo tốt đối với toàn xã hội, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam, do đó công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng“.

Hơn 70 năm qua, hoạt động dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai nói riêng đã không ngừng phấn đấu và trưởng thành, xứng đáng là tổ chức liên minh chính trị, là tổ chức liên hiệp, tự nguyện của các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và đã tạo ra sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị mà Đảng bộ tỉnh đã giao cho.

Truyền thống vẻ vang và một số bài học kinh nghiệm quý báu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh hơn 7 thập kỷ qua là tiền đề tạo sức bật mới để chúng ta vững tin vào thắng lợi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm xây dựng Đồng Nai thành một tỉnh có cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ và nông nghiệp phát triển hiện đại, đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh“ mãi mãi xứng đáng với vai trò, vị trí của một tổ chức chính trị xã hội rộng lớn nhất mà lịch sử dân tộc đã giao cho.

 

PHỤ LỤC

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua các kỳ Đại hội

----------------------

 

1- Lễ ra mắt Ủy Ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Đồng Nai: 24/3/1976.

2- Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ I: Từ ngày 9 -11/01/1978.

3- Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ II: Từ ngày 20 - 21/04/1984.

4- Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ III: Từ ngày 21 - 23/06/1989.

5- Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ IV: Từ ngày 10 - 11/05/1995.

6- Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ V: Từ ngày 28 - 29/06/2000.

 

* Các vị Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai qua các thời kỳ

1- Ông Nguyễn Thành Long - Chủ tịch Ủy Ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh (24/3/1976 - 8/01/1978), Chủ tịch Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai Khóa I (11/01/1978 - 19/2/1984).

2- Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết - Chủ tịch Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai Khóa II, III (3/1984 - 11/5/1995).

3- Ông Lê Văn Triết - ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai Khóa IV (nhiệm kỳ 1995 - 2000)

4- Ông Dương Minh Ngà - Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai Khóa IV (nhiệm kỳ 2000 - 2005).

* Những phần thưởng cao quý được Đảng, Nhà nước trao tặng

1- Huân chương Lao động hạng Ba.

2- Huân chương Lao động hạng Nhì.

 

 

 

 

ỦY BAN MTTQVN TỈNH ĐỒNG NAI, KHÓA  I

(Nhiệm kỳ 1976 – 1984)

1. Ông Nguyễn Thành Long - Nguyên Chủ tịch UBMT Khu Đông Nam bộ, Chủ tịch UBMT tỉnh Đồng Nai, đại biểu Quốc hội khóa VI.

2. Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

3. Ông Võ Văn Vân - Tỉnh ủy viên, Phó ban DVMT tỉnh Đồng Nai, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

4. Bà Huỳnh Thị Phượng - Tỉnh ủy viên, Thư ký LHCĐ tỉnh Đồng Nai.

5. Bà Lê Thị Huệ - Tỉnh ủy viên, Hội trưởng Hội LHPN tỉnh Đồng Nai.

6. Ông Nguyễn Văn Nghiệp - Tỉnh ủy viên, Thư ký Ban chấp hành Nông hội tỉnh Đồng Nai.

7. Ông Tống Kim Quang (tự Nguyễn Tạo) - Ủy viên thường trực Ban DVMT tỉnh, nguyên Tổng thư ký Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

8. Ông Lê Văn Triết - Ủy viên Ban DVMT tỉnh Đồng Nai, nguyên Ủy viên UB.MTTQVN tỉnh ĐN.

9. Ông Trịnh Minh Bách - Cán bộ Ban DVMT tỉnh Đồng Nai.

10. Ông Phạm Điền Sơn - Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai.

11. Ông Nguyễn Văn Nguyên - Trưởng ty Giáo dục tỉnh Đồng Nai, nguyên Uỷ viên Uỷ ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

12. Ông Huỳnh Văn Bình - Trưởng ty Nông nghiệp tỉnh Đồng Nai, nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

13. Ông Nguyễn Văn Sâm - Phó ty Văn hóa và Thông tin tỉnh Đồng Nai, nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

14. Ông Nguyễn Việt Hoa (Thượng tá) - Tỉnh đội Phó Tỉnh đội Đồng Nai, nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

15. Bà Lê Thị Thanh (Bác sĩ) - Hội trưởng Hội bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em tỉnh Đồng Nai, nguyên Phó trưởng ty Y tế, Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

16. Ông Vày A Sám (Dân tộc Hoa Nùng) - Nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai, nguyên Đại biểu Quốc hội khóa VI.

17. Ông Dương Văn Lực (Đại diện đồng bào dân tộc ít người) - Nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

18. Ông Nguyễn Văn Đường - Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN thị xã Vũng       Tàu, nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

19. Ông Nguyễn Văn Chữ (Nhân sĩ) - Nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

20. Linh mục Vũ Hữu Văn - Nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh ĐN.

21. Bà Nguyễn Thị Thoại - Thư ký công đoàn cao su nhà máy An Lộc (Quốc doanh cao su Đồng Nai).

22. Ông Nguyễn Quyết Chiến - Anh hùng quân đội.

23. Ông Lê Tư Huyền - Tổng biên tập báo Đồng Nai.

24. Ông Nguyễn Việt Hùng - Bác sĩ, Ủy viên thường trực Hội Chữ thập đỏ    tỉnh Đồng Nai.

25. Ông Sang Văn Mão (Dân tộc Ch’ro) - Cán bộ Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

26. Ông Nguyễn Hồng Kỳ - Chủ tịch Ủy ban MTTQVN. TP Biên Hòa.

27. Ông Phạm Thanh  Lý - Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN huyện Long Thành.

28. Ông Lâm Dân Hùng - Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Xuân Lộc.

29. Ông Huỳnh Văn Phú - Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Tân Phú.

30. Ông Hà Văn Thịnh - Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Thống Nhất.

31. Ông Trần Văn Dân - Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Long Đất.

32. Bà Huỳnh Thị Tâm - Chủ tịch Ủy ban MTTQVN xã Long Phước (huyện Long Thành).

33. Bà Võ Thị Nhạn - Chủ tịch UBMTTQVN xã Lợi Hòa (Vĩnh Cửu).

34. Bà Nguyễn Thị Vân- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN xã Xuân Tâm (Xuân Lộc).

35. Ông Hồ Sám - Chủ tịch Ủy ban MTTQVN xã Phú Hòa (Tân Phú).

36. Ông Hồ Chất - Kỹ sư cơ khí Ty công nghiệp Đồng Nai.

37. Ông Phạm Ngư Lân - Kỹ sư điện Ty công nghiệp Đồng Nai.

38. Ông Lương Hữu Dần - Bác sĩ thú y, Phó phòng chăn nuôi Ty Nông nghiệp tỉnh Đồng Nai.

39. Ông Đặng Mai Xuân - Giáo viên cấp III mới giải phóng trường Nam Hà, Biên Hòa.

40. Bà Phan Thị Hường - Giáo viên cấp I mới giải phóng Vũng Tàu, Phó thư ký công đoàn Giáo dục Vũng Tàu.

41. Ông Đặng Văn Nhơn - Bần ngư, Ủy viên BCH ngư nghiệp xã Phước Hải (Long Đất), gia đình liệt sĩ, Ủy viên HĐND tỉnh Đồng Nai.

42. Bà Trần Thị Lưu - Công nhân tiểu thủ công, Ủy viên BCH công đoàn Xí nghiệp Dona Biên Hòa, Ủy viên HĐND tỉnh Đồng Nai.

43. Ông Tăng Văn Hóa - Tư sản Giao thông vận tải thành phố Biên Hòa, đã chấp hành tốt chính sách cải tạo ngành Giao thông vận tải.

44. Bà Dương Thị Ri (Tức Sư cô Diệu Tấn) - Phật giáo cổ truyền, trụ trì chùa Thạch Động, Bửu Long, Biên Hòa.

45. Linh mục Nguyễn Đắc Cầu - Trưởng hạt Phước Lễ (Châu Thành) Ủy viên HĐND tỉnh Đồng Nai.

46. Nữ tu Nguyễn Thị Mỹ - Phó quản đốc Viện cô nhi Trí Đức, Biên Hòa.

47. Ông Thái Lãnh Thanh (tức Nguyễn Văn Lãnh) - Lễ sanh, Hội phó tỉnh đạo Cao Đài, Ban chỉnh đạo Đồng Nai.

48. Đại đức Thích Huệ Tâm - Ủy viên UBMTTQVN huyện Xuân Lộc.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


BAN THƯỜNG TRỰC UBMTTQVN TỈNH KHÓA I

 

1/- Chủ tịch:

Ông Nguyễn Thành Long - Nguyên Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Khu Đông Nam bộ, Đại biểu Quốc hội Khóa VI.

2/- Các Phó chủ tịch:

- Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai.

- Ông Nguyễn Văn Vân - Tỉnh ủy viên, Phó Ban Dân vận Mặt trận tỉnh Đồng Nai.

- Bà Huỳnh Thị Phượng - Tỉnh ủy viên, Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Đồng Nai.

- Bà Lê Thị Huệ - Tỉnh ủy viên, Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đồng Nai.

- Ông Nguyễn Văn Nghiệp - Tỉnh ủy viên, Thư ký Ban Chấp hành Nông hội tỉnh Đồng Nai.

- Ông Tống Kim Quang (Nguyễn Tạo) - Ủy viên Thường trực Ban Dân vận Mặt trận tỉnh, Phó Chủ tịch chuyên trách Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh.

3/- Các Ủy viên Thường trực:

- Ông Lê Văn Triết - Ủy viên Ban Dân vận Mặt trận tỉnh, Ủy viên thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

- Ông Trịnh Minh Bách - Ủy viên Thường trực chuyên trách Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

- Ông Phạm Điền Sơn - Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai.

 

 

 

 

 


ỦY BAN MTTQVN TỈNH ĐỒNG NAI, KHÓA II

                                       (Nhiệm kỳ 1984 - 1989)

 

1.   

Ông Nguyễn Văn Thông

- Ủy viên TVTU, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh uỷ ĐN.

2.   

Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết

- Ủy viên TƯ Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh ĐN.

3.   

Ông Tống Kim Quang

(Tức Nguyễn Tạo)

- Nguyên Phó Ban Dân vận TU, Ủy viên Ủy ban TWMTTQVN, Phó Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh ĐN.

4.   

Bà Nguyễn Thị Minh

- Nguyên Thư ký LHCĐ tỉnh, Phó Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh, nay là Phó Ban Dân vận TU.

5.   

Ông Lê Văn Triết

- Nguyên Phó Ban Dân vận Tỉnh ủy, UVTT Ủy ban MTTQVN tỉnh ĐN.

6.   

Ông. Sang Văn Mão

(CB dân tộc Ch’ro)

- Nguyên UVTT, Uỷ ban MTTQVN tỉnh ĐN, đại biểu Quốc hội khóa 7.

7.   

Ông Phạm Hồng Hải

- Nguyên UVTT/ kiêm Chánh Văn phòng UBMTTQVN tỉnh ĐN.

8.   

Ông Trần Xuân Roanh

- Nguyên Phó Giám đốc XNQD Mì màu, thuộc Sở lương thực ĐN, cán bộ Uỷ ban MTTQVN tỉnh ĐN.

9.   

Ông Nguyễn Văn Động

- Tỉnh uỷ viên, Thư ký LHCĐ tỉnh ĐN.

10.                         

Bà Phạm Thị Sơn

- Tỉnh uỷ viên, Phó Chủ tịch Hội NDTT tỉnh ĐN.

11.                         

Ông Trần Văn Khánh

- Tỉnh uỷ viên, Bí thư Đoàn TNCSHCM tỉnh ĐN.

12.                         

Bà Lê Thị Huệ

- Tỉnh uỷ viên, Hội trưởng Hội LHPN tỉnh, Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh ĐN.

13.                         

Ông Nguyễn Công Hạnh

- Đại tá, Phó chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh ĐN.

14.                         

Ông Cao Đình Thanh

- Trung tá, Trưởng phòng Chính trị Bộ CHQS tỉnh.

15.                         

Ông Nguyễn Việt Hùng

- Bác sĩ, Ủy viên TT Hội Chữ thập đỏ tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN.

16.                         

Ông Võ Thế Đại

- Chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh ĐN.

17.                         

Ông Hoàng Văn Bổn

- Thiếu tá QĐ, Tổng biên tập phim QĐ, Phó Hội trưởng hội văn nghệ tỉnh ĐN.

18.                         

Ông Trương Văn Minh

(tự Lê Minh)

- Hội trưởng Hội Y học dân tộc Sở Y tế tỉnh ĐN.

19.                         

Bà Nguyễn Thị Hồng Lạc

- Phó chủ nhiệm Ủy ban bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em tỉnh ĐN.

20.                         

Ông Tăng Ngọc Minh

- Bác sĩ, Phó Giám đốc Sở Y tế tỉnh ĐN.

21.                         

Ông Nguyễn Công Tánh

- Phó Giám đốc Sở Giáo dục tỉnh ĐN.

22.                         

Ông Võ Văn Hiền

- Phó Giám đốc Sở TBXH, Trưởng ban Vận động người Mù tỉnh ĐN.

23.                         

Ông Lâm Hiếu Trung

- Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở VHTT tỉnh ĐN.

24.                         

Ông Trần Quí Thanh

- Phó Giám đốc Ngân hàng tỉnh ĐN.

25.                         

Ông Nguyễn Văn Sâm

- Trưởng ban Ngoại vụ tỉnh, nguyên Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN.

26.                         

 

 

27.                         

Ông Đặng Mai Xuân

- Giáo viên cấp III trường Nam Hà, TP Biên Hòa, nguyên Uỷ viên UBMTTQVN tỉnh ĐN.

28.                         

Ông Hà Minh Thuấn

- Kỹ sư cơ khí, Trưởng phòng kỹ thuật Sở Công nghiệp ĐN.

29.                         

Ông Phạm Ngư Lân

- Kỹ sư, Trưởng phòng kỹ thuật Viện quy hoạch thiết kế Sở xây dựng ĐN, nguyên Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN.

30.                         

Bà Lưu Thị An Biên

- Phó ban Khoa học kỹ thuật tỉnh ĐN.

31.                         

Ông Lương Hữu Dần

- Kỹ sư Chăn nuôi, nguyên Phó phòng chăn nuôi, Chủ nhiệm trại heo Đông Phương, Sở Nông nghiệp ĐN, nguyên Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN.

32.                         

Ông Nguyễn Cảnh Tước

- Kỹ sư Trồng trọt, Trưởng phòng HTH Sở Nông nghiệp ĐN.

33.                         

Ong Trần Văn Khâm

- Bác sĩ , Sở Y tế tỉnh ĐN.

34.                         

Bà Trần Thị Lưu

- Công nhân tiểu thủ công nghiệp, Thư ký BCH.CĐ xí nghiệp DoNa, Đại biểu Quốc hội khóa 7, nguyên Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN.

35.                         

Ông Vày A Sám

(dân tộc Nùng)

- Nguyên Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN, đại biểu Quốc hội khóa 6.

36.                         

Ông Kà Lư

(dân tộc Stiêng)

- Chi ủy viên xã Phú Lập, huyện Tân Phú, tỉnh ĐN.

37.                         

Hoà thượng Thích Huệ Thành

- Phó pháp chủ, thường trực Hội đồng Chứng minh TƯ, Trưởng ban Trị sự phật giáo tỉnh ĐN.

38.                         

Sư cô Diệu Tấn

- Nguyên Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN, Ủy viên Ban Trị sự phật giáo tỉnh ĐN.

39.                         

LM Hoàng Văn Tiên

- Linh mục, Hạt trưởng hạt Hố Nai 3, Chánh xứ, xứ Ngô xá, huyện Thống Nhất, tỉnh ĐN.

40.                         

LM Nguyễn Hoa Viên

- Linh mục, Chánh xứ, xứ Thị cầu, xã Đại Phước, huyện Long Thành, tỉnh ĐN.

41.                         

Nữ tu Nguyễn Thị Mỹ

- Phó quản đốc Viện Mầm non, thành phố Biên Hòa, nguyên Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN.

42.                         

Lễ sanh Nguyễn Văn Lãnh

- Hội phó Tỉnh hội Cao đài, Ban chỉnh ĐN,           nguyên Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN.

43.                         

Ông Hồ Văn Thiệp

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN thành phố Biên Hòa.

44.                         

Bà Nguyễn Thị Hòa

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Vĩnh Cửu.

45.                         

Ông Trần Quý

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Thống Nhất.

46.                         

Ông Nguyễn Công Thành

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Xuân Lộc.

47.                         

Ông Võ Hồng Thanh

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Tân Phú.

48.                         

Ông Nguyễn Văn Ấn

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Châu Thành.

49.                         

Ông Trương Văn Xinh

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Long Thành.

50.                         

Ông Nguyễn Văn Tơ

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Long Đất.

51.                         

Bà Phạm Thị Yến

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Xuyên Mộc.

 

                 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                  BAN THƯỜNG TRỰC UBMTTQVN TỈNH KHÓA II

          1/- Chủ tịch:    

Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai.

2/- Phó Chủ tịch:

- Ông Nguyễn Văn Thông - Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy.

- Ông Tống Kim Quang (Nguyễn Tạo) - nguyên Phó Ban Dân vận Tỉnh ủy, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Bà Nguyễn Thị Minh - Nguyên là Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh, Phó Ban Dân vận Tỉnh ủy.

3/- Ủy viên Thường trực:

- Ông Lê Văn Triết - Phó Ban Dân vận Tỉnh ủy.

- Ông Sang Văn Mão - Ủy viên Thường trực Ủy ban Mặt tận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Đại biểu Quốc hội Khóa VII.

- Ông Phạm Hồng Hải - Ủy viên thường trực kiêm Chánh Văn phòng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

- Ông Trần Xuân Roanh - Nguyên Phó Giám đốc xí nghiệp quốc doanh mì màu thuộc Sở Lương thực Đồng Nai.                                                                                     

                 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                  UỶ BAN MTTQVN TỈNH ĐỒNG NAI, KHÓA III

(Nhiệm kỳ 1989 – 1994)

 

1.      

Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết

- Nguyên Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh, khóa II.

2.      

Ông Nguyễn Văn Thông

- Ủy viên TVTU, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy.

3.      

Ông Nguyễn Văn Y

- Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh, khóa II.

4.      

Ông Lê Văn Triết

- Phó Ban Dân vận Tỉnh ủy, Phó ban Tôn giáo Nhà nước, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh, khóa II.

5.      

Ông Sang Văn Mão

(dân tộc Ch’ro)

- Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh, khóa II.

6.      

Ông Hà Văn Minh

- Nguyên Ủy viên Thường trực Ủy ban MTTQVN tỉnh, khóa II.

7.      

Bà Lê Tố Nga

- Nguyên Ủy viên Thường trực Ủy ban MTTQVN tỉnh, khóa II.

8.      

Ông Trần Xuân Roanh

- Nguyên Ủy viên Thư ký Ủy ban MTTQVN tỉnh, khóa II.

9.      

Ông Nguyễn Ngọc Đức

- Hội Trưởng Hội Liên hiệp thanh niên tỉnh Đồng Nai.

10.                         

Ông Nguyễn Văn Bảo

- Đại tá, Phó Chỉ huy trưởng Chính trị các LLVT tỉnh ĐN.

11.                         

Ông Huỳnh Châu

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Tân Phú.

12.                         

Ông Nguyễn Trung Diễn

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN phường Bình Đa, thành phố Biên Hòa.

13.                         

Ông Nguyễn Văn Đông

- Chủ tịch Liên Đoàn Lao động tỉnh ĐN.

14.                         

Ông Hoàng Văn Bổn

- Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh ĐN.

15.                         

Bà Ngô Thị Đường

- Tu sĩ, Ủy viên Ủy ban ĐKCG tỉnh ĐN.

16.                         

Ông Phạm Hồng Hải

- Phó Giám đốc Sở Giáo dục tỉnh ĐN.

17.                         

Bà Trần Thị Hòa

- Hội trưởng Hội LHPN tỉnh ĐN.

18.                         

Ni sư Huệ Hương

- Chánh đại diện Phật giáo thành phố Biên Hòa.

19.                         

Ông Nguyễn Văn Huệ

- Anh hùng Lực lượng Vũ trang tỉnh ĐN.

20.                         

Ong Nguyễn Văn Hoà

- Phó chủ tịch Hội nuôi ong tỉnh

21.                         

Ông Nguyễn Văn Hoàng

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Xuyên Mộc.

22.                         

Ông Lê Bá Hiền

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN thị trấn Bà Rịa, huyện Châu Thành.

23.                         

Ông Lê Văn Hết

(dân tộc Chăm)

- Ủy viên Ủy ban MTTQVN xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc.

24.                         

Ông Phan Văn Hết

- Kỹ sư Hóa, Tổ trưởng tổ tổng hợp Ủy ban KHKT tỉnh ĐN.

25.                         

Ông Huỳnh Văn Hiện

- Nhà sản xuất Ngư nghiệp xã Phước Hải, huyện Long Đất.

26.                         

Ông Võ Văn Hiền

- Phó Giám đốc Sở Lao động TBXH tỉnh.

27.                         

Ông Vũ Khánh

- Phó phòng biên tập báo Đồng Nai.

28.                         

Ông Vũ Khắc Lập

- Chủ nhiệm HTX Đan lát bậc cao Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa.

29.                         

Bà Phạm Thiên Lý

- Thư ký thường trực Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

30.                         

Ông Thái Lãng Thanh

(tự Nguyễn Văn Lãnh)

- Giáo hữu, Phó đầu họ Cao đài tỉnh ĐN.

31.                         

Ông K’ Bố

(dân tộc S’tiêng)

- Bí thư Chi bộ 1, xã Phú Lập, huyện Tân Phú.

32.                         

Ông K’ Leo

(dân tộc Châu Mạ)

- Ủy viên Ủy ban MTTQVN xã Phú Bình, huyện Tân Phú.

33.                         

Ông Đào Văn Minh

- Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh ĐN.

34.                         

Ông Lê Minh

- Lương y, Chủ tịch Hội Y học dân tộc tỉnh ĐN.

35.                         

Ông Tăng Ngọc Minh

- Bác sĩ, Giám đốc bệnh viện Đồng Nai.

36.                         

Bà Sì Sắc Múi

(người Hoa)

- Ủy viên Ủy ban MTTQVN huyện Xuân Lộc.

37.                         

Ông Tố Nguyên

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN thành phố Biên Hòa.

38.                         

Ông Vũ Sĩ Ngôi

- Lương y, Chủ tịch Hội Y học dân tộc thành phố Biên Hòa.

39.                         

Ông Trương Văn Nhân

- Chủ tịch ban MTTQVN thị xã Vĩnh An.

40.                         

Ông Nguyễn Ngọc Nhung

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN thị trấn Xuân Lộc, huyện Xuân Lộc.

41.                         

Ông Huỳnh Văn Nghĩa

- Chủ tịch HTX Gốm Thái Dương, thành phố Biên Hòa.

42.                         

Ông Nguyễn Hồng Phúc

- Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh ĐN.

43.                         

Ông Nguyễn Văn Phú

- Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Tân Phú.

44.                         

Ông Lưu Văn Phúc

- Chủ nhiệm HTX Dệt Tân Hòa, phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa.

45.                         

Bà Cao Xuân Thanh Phương

- Bác sĩ, Trung tâm Nhi đồng tỉnh ĐN.

46.                         

Ông Trần Quý

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Thống Nhất.

47.                         

Ông Đặng Minh Quang

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Long Thành.

48.                         

Ông Huỳnh Văn Quân

- Phó Giám đốc Sở TDTT tỉnh ĐN.

49.                         

Bà Nguyễn Thị Minh Tư

- Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh ĐN.

50.                         

Ông Thích Diệu Tâm

(Hòa thượng)

- Phó ban Trị sự Phật giáo tỉnh ĐN.

51.                         

Ông Đào Văn Tý

(dân tộc Cha’ro)

- Ủy viên Ủy ban TWMTTQVN, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Xuân Lộc.

52.                         

Ông Lê Hữu Thành

- Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ tỉnh ĐN.

53.                         

Ông Lê Thiện

- Thư ký Hội Nhà báo tỉnh ĐN.

54.                         

Ông Trần Xuân Thảo

(Linh mục)

- Phó Chủ tịch Ủy ban ĐKCG yêu nước.

55.                         

Ông Huỳnh Việt Thanh

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Châu Thành.

56.                         

Ông Nguyễn Đông Thành

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Xuân Lộc.

57.                         

Ông Nguyễn Hữu Thành

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN xã Bàu Hàm I, huyện Thống Nhất.

58.                         

Ông Diệp Cẩm Thu

- Phó hiệu trưởng trường PTTH Ngô Quyền.

59.                         

Ông Đoàn Văn Thơm

- Nhà Sản xuất nông nghiệp, Ủy viên Ủy ban MTTQVN huyện Tân Phú.

60.                         

Ông Nguyễn Văn Vy

- Giám đốc trường Văn hóa nghệ thuật tỉnh ĐN.

61.                         

Ông Nguyễn Hữu Viễn

(Mục sư)

- Giáo hội Tin lành, Ủy viên Ủy ban MTTQVN huyện Xuân Lộc.

62.                         

Ông Trần Trác

- Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Xô.

63.                         

Ông Lâm Hiếu Trung

- Giám đốc Sở Văn hóa thông tin tỉnh ĐN.

64.                         

Ông Ngô Xuân Trường

- Phó giám đốc Sở Y tế tỉnh ĐN.

65.                         

Ông Đặng Mai Xuân

- Phó hiệu trưởng trường PTTH Ngô Quyền.

66.                         

Ông Hồ Xương

(người Hoa)

- Ủy viên Ủy ban MTTQVN thành phố Biên Hòa.

 

 

 

 

 

 

 

BAN THƯỜNG TRỰC UBMTTQVN TỈNH, KHÓA III

 

1- Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết - Chủ tịch.

2- Ông Nguyễn Văn Thông     - Phó Chủ tịch.

3- Ông Nguyễn Văn Y             - Phó Chủ tịch.

4- Ông Nguyễn Ngọc Đức       - Ủy viên Thư ký.

 

Ủy BAN MTTQVN TỈNH ĐỒNG NAI, KHÓA IV

(Nhiệm kỳ 1995 – 2000)

 

1. 

Ông Lê Văn Triết

- Phó Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

2. 

Ông Nguyễn Xuân Chiến

- Nguyên Chủ tịch UBMTTQVN huyện Thống Nhất, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

3. 

Ông Nguyễn Trọng Thiêm

- Nguyên Phó Bí thư Huyện ủy Tân Phú.

4. 

Ông Nguyễn Ngọc Đức

- Uỷ viên Thường trực UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

5. 

Ông Sang Văn Mão

- Phó Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

6. 

Ông Nguyễn Đình Thắng

- Uỷ viên TVTU/ Trưởng Ban Dân vận, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

7. 

Ông Mai Sông Bé

- Thư ký Hội nhà Báo tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

8. 

Ông Hoàng Văn Bổn

- Nhà văn, Giám đốc/ kiêm Tổng biên tập NXB Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

9. 

Ông Lê Danh Cát

- Chủ tịch Hội người Mù tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

10.                         

Ông Vương Ngọc Cúc

- Đại biểu người Hoa, thành phố Biên Hòa.

11.                         

Ông Châu Youssos

(giáo cả)

- Đại biểu dân tộc Chăm, xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc.

12.                         

Ông Đặng Phùng Chánh

- Chủ DNTN Gốm Song Tiến, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gốm mỹ nghệ ĐN.

13.                         

Ông Nguyễn Quyết Chiến

- Anh hùng LLVT, Chánh thanh tra Quốc phòng Bộ CHQS tỉnh.

14.                         

Ông Nguyễn Văn Dũng

- Chuyên viên Ban Tổ chức UBMTTQVN tỉnh.

15.                         

Bà Nguyễn Thị Diệu

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Vĩnh Cửu.

16.                         

Ông Hoàng Đắc

- QUậN Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

17.                         

Ông Trần Văn Đức

- Bác sĩ phẩu thuật tổng quát Bệnh viện Đồng Nai.

18.                         

Ông Tạ Văn Điển

- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh.

19.                         

Bà Trần Thị Điệp

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Nhơn Trạch.

20.                         

Bà Trần Thị Hòa

- Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

21.                         

Bà Nguyễn Thị Kim Hoàng

- Chánh Văn phòng UBMTTQVN tỉnh.

22.                         

Ông Nguyễn Văn Hai

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Long Khánh.

23.                         

Ông Nguyễn Thế Huân

- Trưởng bộ phận tuyên truyền Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.

24.                         

Thượng toạ Thích Huệ Hiền

- Chánh thư ký Ban trị sự phật giáo Việt Nam tỉnh.

25.                         

Ni sư Huệ Hương

- Giám tự chùa Bửu Phong, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

26.                         

Ông Bửu Hiếu

- Phó Chủ nhiệm HTX mua bán, thị trấn Long Thành, huyện Long Thành.

27.                         

Ôn Nguyễn Thái Hải

- Nhà văn, Trưởng ban Văn học nghệ thuật tỉnh.

28.                         

Ông Phan Văn Hết

- Phó Giám đốc Trung tâm kỹ thuật, Sở KHCN & MT tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

29.                         

Linh mục Lê Minh Hiến

- Chánh xứ Thanh Sơn, xã Quang Trung, huyện Thống Nhất.

30.                         

Ông Vũ Khánh

- Đại biểu cán bộ Lão thành Cách mạng.

31.                         

Linh mục Nguyễn Hữu Kiều

- Chánh xứ Thánh mẩu, hạt Túc Trưng, huyện Định Quán.

32.                         

Ông K’ Lư

- Đại biểu dân tộc Stiêng, Ủy viên UBMTTQVN xã Tà Lài, huyện Tân Phú.

33.                         

Ông K’ Giao

- Đại biểu dân tộc Châu Mạ, huyện Định Quán

34.                         

Bà Trương Thị Lan

- Chuyên viên Ban Văn hóa xã hội UBMTTQVN tỉnh

35.                         

Ông Ngô Phước Lợi

- Chủ tịch Hội Kim hoàn tỉnh.

36.                         

Ông Lê Minh

- Chủ tịch Hội Y học dân tộc tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

37.                         

Ông Đào Văn Minh

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Long Thành.

38.                         

Bà Phạm Thị Minh

- Chuyên viên nghiên cứu tổng hợp UBMTTQVN tỉnh.

39.                         

Bà Sì Sắc Muối

- Đại biểu người Hoa, huyện Long Khánh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

40.                         

Ông Hồ Văn Mảnh

- Giám đốc xí nghiệp GTVT ngoài quốc doanh.

41.                         

Bà Lê Tố Nga

- Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ tỉnh.

42.                         

Ông Tố Nguyên

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN thành phố Biên Hòa.

43.                         

Ông Nguyễn Văn Nổi

- Đại biểu dân tộc Châuro, ấp Lý Lịch xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu.

44.                         

Ông Nguyễn Nam Ngữ

- Giám đốc Sở VHTT - TDTT tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

45.                         

Ông Hồ Xuân Nghiêm

- Hiệu trưởng trường PTTH Ngô Quyền.

46.                         

Ông Huỳnh Hữu Nghĩa

- Chủ nhiệm HTX Gốm Thái Dương, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

47.                         

Ông Vũ Sĩ Ngôi

- Lương y, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

48.                         

Ông Trần Công Phong

- Phó Giám đốc công ty TNHH sản xuất Vật liệu xây dựng 1/5.

49.                         

Bà Cao Xuân Thanh Phương

- Bác sĩ, Trưởng khoa nhiễm trung tâm Nhi Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

50.                         

Linh mục Trần Xuân Phú

- Chánh xứ Văn Hải, thị trấn Long Thành, Phó chủ tịch Ủy ban ĐKCG tỉnh.

51.                         

Ông Lê Ngọc Quý

- Phó giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh.

52.                         

Ông Phan Văn Quang

- Chủ nhiệm HTX cơ khí & sửa chửa ôtô Thanh Quang.

53.                         

Ông Đỗ Hữu Tài

- Phó Giám đốc Sở giáo dục tỉnh.

54.                         

Ông Lý Minh Thanh

- Chủ cơ sở sản xuất gạch bông Minh Thanh.

55.                         

Ông Nguyễn Thành Tuấn

- Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh.

56.                         

Linh mục Nguyễn Bá Tước

- Chánh xứ Thái Hiệp, tổ trưởng tổ ĐKCG thành phố Biên Hòa.

57.                         

Ông Phạm Thành Trung

- Phó Chủ tịch thường trực Hội Nông dân tỉnh.

58.                         

Ông Đặng Mạnh Trung

- Phó Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh ĐN.

59.                         

Ông Nguyễn Thành Trí

- Phó Bí thư Đoàn TNCSHCM, Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên tỉnh ĐN.

60.                         

Ông Nguyễn Đức Thọ

- Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh ĐN.

61.                         

Ông Trần Mạnh Thường

- Phó Chủ tịch Hội Làm vườn tỉnh ĐN.

62.                         

Ông Phạm Kim Thanh

- Phó Chủ tịch Hội Chăn nuôi tỉnh ĐN.

63.                         

Ông Nguyễn Hữu Trung

- Chủ tịch Hội đồng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

64.                         

Ông Lý Thành Trung

- Thượng tá, Phó chỉ huy trưởng Chính trị Bộ CHQS tỉnh ĐN.

65.                         

Ông Võ Hồng Thanh

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Định Quán.

66.                         

Ông Nguyễn Văn Toàn

- Chủ tịch Ủy ban MTTQVN huyện Xuân Lộc.

67.                         

Ông Trần Đức Thịnh

- Chủ tịch HĐQT công ty cổ phần bao bì Đồng Nai.

68.                         

Ông Thượng Hoài Thanh

- Giáo hữu đầu họ đạo, Thánh thất Cao đài Biên Hòa.

69.                         

Ông Nguyễn Trung Trí

- Giám đốc công ty TNHH Đỉnh Cao Apexco.

70.                         

Hòa thượng Thích Diệu Tâm

- Phó ban trị sự Phật giáo tỉnh ĐN.

71.                         

Ông Diệp Cẩm Thu

- Giám đốc trung tâm Tin học & ngoại ngữ, Uỷ viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

72.                         

Ông Nguyễn Văn Vy

- Nhạc sĩ, nhà giáo ưu tú, Hiệu trưởng trường VHNT tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

73.                         

Mục sư Nguyễn Hữu Viễn

- Hội thánh Tin lành huyện Long Khánh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3.

74.                         

Bà Trần Thị Thu Vân

- Chuyên viên Ban Dân chủ pháp luật UBMTTQVN tỉnh

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BAN THƯỜNG TRỰC UBMTTQVN TỈNH , KHÓA IV:

1/ Chủ tịch:

Ông Lê Văn Triết.

2/ Các Phó chủ tịch :

- Ông Nguyễn Xuân Chiến.

- Ông Nguyễn Trọng Thiêm.

- Ông Sang Văn Mão.

- Ông Nguyễn Ngọc Đức.

3/ Ủy viên thường trực:

Bà Nguyễn Thị Kim Hoàng.

ỦY BAN MTTQVN TỈNH ĐỒNG NAI, KHÓA V

(Nhiệm kỳ 2000 – 2005)

 

1.   

Ông Lê Danh Cát

- Chủ tịch Hội Người Mù tỉnh Đồng Nai, Uỷ viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3, 4.

2.   

Ông Đặng Phùng Chánh

- Chủ tịch Hiệp Hội Gốm mỹ nghệ Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

3.   

Linh mục Nguyễn Kim Đoan

- Phó chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Đồng Nai.

4.   

Ong Nguyễn Đức

- Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

5.   

Thượng toạ Thích Huệ Hiền  (Lương Trung Hiếu)

- Phó ban Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

6.   

Bà Trần Thị Hòa

- Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3, 4.

7.   

Ông Lê Văn Hồng

- Chủ tịch Hiệp Hội Công thương tỉnh, Uỷ viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

8.   

Ông Nguyễn Sơn Hùng

- Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên tỉnh ĐN.

9.   

Ông Huỳnh Phước Lương

- Ủy viên Thường vụ, kiêm Thư ký Hội y học cổ truyền tỉnh Đồng Nai.

10. 

Bà Lê Tố Nga

- Phó chủ tịch Hội từ thiện tỉnh Đồng Nai.

11. 

Ông Nguyễn Thiện  Nhật

- Phó Chủ tịch Hội nhà Báo tỉnh Đồng Nai.

 

12. 

Ông Lê Hồng Phương

- Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Đồng Nai.

13. 

Bà Bùi Ngọc Thanh

- Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Đồng Nai.

14. 

Ông Nguyễn Đức Thọ

- Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh ĐN, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

15. 

Ông Trần Mạnh Thường

- Phó Chủ tịch Hội làm vườn tỉnh Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3, 4.

16. 

Ông Lâm Hiếu Trung

- Chủ tịch Liên hiệp các Hội KHKT tỉnh Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

17. 

Bà Lê Thị Trâm

- Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ tỉnh Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

18. 

Ông Lý Thành Trung

- Chỉ huy phó chính trị BCH QS tỉnh ĐN, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

19. 

Ông Phạm Thanh Trung

- Chủ tịch Hội Nông dân VN tỉnh ĐN, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

20. 

Ông Đặng Mạnh Trung

- Bí thư Tỉnh Đoàn ĐN, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

21. 

Ông Nguyễn Thanh Tùng

- Chủ tịch Hội CCB tỉnh Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  22

Bà Trần Thị Điệp

- Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN Nhơn Trạch, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  23

Ông Nguyễn Văn Hai

- Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN Long Khánh, Uỷ viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  24

Ông Đào Văn Minh

- Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN Long Thành, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  25

Ông Vũ Đức Khải

- Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN Thống Nhất, Uỷ viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  26

Ông Vũ Đức Lợi

- Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN huyện Tân Phú, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  27

Ông Trương Văn Nhân

- Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN Vĩnh Cửu.

  28

Ông Tố Nguyên

- Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN Tp. Biên Hòa, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  29

Ông Võ Hồng Thanh

- Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN Định Quán, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  30

Ông Nguyễn Tấn Thông

- Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN Xuân Lộc, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  31

Ông Phạm Đức Bình

- Chủ tịch HĐQT Cty TNHH Thanh Bình.

  32

Ông Hoàng Văn Bổn

- Nhà Văn, nguyên Giám đốc NXB Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh ĐN, khóa 3, 4.

  33

Ông Châu Yossos

(giáo cả)

- Đại biểu dân tộc Chăm, xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  34

Ông Vương Ngọc Cúc

- Đại biểu người Hoa TP. Biên Hòa, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  35

Ông Trần Như Độ

 

 

- Giám đốc trung tâm Khuyến nông tỉnh ĐN.

  36

Ông Nguyễn Thế Huân

- Hiệu trưởng trường Chính trị tỉnh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  37

Lm Nguyễn Hữu Kiều

- Linh mục, Chánh xứ GX ấp Núi Đỏ, xã Bàu Sen, huyện Long Khánh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  38

Bà Lềnh Cống Kíu

(người Hoa)

- Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Phú Lợi, huyện Định Quán, đại biểu người Hoa, huyện Định Quán.

  39

Ông Vũ Khánh

- Đại biểu CB lão thành Cách mạng.

  40

Ông K’Cân

- Đại biểu dân tộc S’Tiêng, huyện Tân Phú.

  41

Ông K’Giao

- Đại biểu dân tộc Châu mạ, huyện Định Quán, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  42

Bà Nguyễn Thị Nguyên Lộc

- Đại biểu nông dân sản xuất giỏi, xã Xuân Đường, huyện Long Khánh.

  43

Ông Huỳnh Hữu Nghĩa

- Chủ nhiệm HTX gốm Thái Dương, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3,4.

  44

Ông Nguyễn Văn Nổi

- Đại biểu dân tộc Chơ ro, huyện Vĩnh Cửu, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

 

  45

Nữ tu Nguyễn Thị Phượng

- Phó tổng quyền dòng mến Thánh giá Bắc Hải, Phó chủ tịch UBĐKCG tỉnh Đồng Nai.

  46

Hoà thượng Thích Diệu Tâm  (Nguyễn Diệu Tâm)

- Phó Ban trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  47

Sư cô Thích nữ Như Tịnh

- Thiền viện Linh Chiếu, huyện Long Thành.

  48

Ông Thượng Hoài Thanh

- Giáo hữu đầu họ đạo, thánh thất Cao Đài Biên Hoà, Uỷ viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  49

Ông Nguyễn Ngọc Thanh

- Bác sĩ đa khoa Bệnh viện Thống Nhất Đồng Nai.

  50

Ông Nguyễn Văn Thông

- Trưởng Ban liên lạc tù chính trị, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3, 4.

  51

Ông Diệp Cẩm Thu

 

 

 

- GĐ Trung tâm tin học và ngoại ngữ Sở GD-ĐT, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3, 4.

  52

Ông Nguyễn Trung Trí

- GĐ Cty TNHH Đỉnh Cao ApexCo.Ltd, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  53

Ông Nguyễn Hữu Viễn

- Mục sư Hội Thánh Tin lành huyện Long Khánh, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3, 4.

  54

Ông Phan Huy Anh Vũ

- Bác sĩ đa khoa Bệnh viện Đồng Nai.

  55

Ông Nguyễn Văn Vy

- Nhạc sĩ, nhà giáo ưu tú, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 3, 4.

 

 

 

  56

Ông Điểu Bảo

- Nguyên Phó chủ tịch UBMT huyện Định Quán.

  57

Ông Nguyễn Xuân Chiến

- Phó chủ tịch Thường trực Ủy ban MTTQVN tỉnh, khóa 4.

  58

Ông Nguyễn Văn Dũng

- Phó ban Tổ chức - Tuyên huấn, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  59

Ông Nguyễn Ngọc Đức

- Phó chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh, khóa 4.

  60

Bà Nguyễn Thị Kim Hoàng

- UVTT/ Chánh Văn phòng  UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  61

Bà Trương Thị Lan

- Ủy viên chuyên trách, Phó ban Phong trào UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  62

Bà Phạm Thị Minh

- Ủy viên chuyên trách, Phó ban Phong trào UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  63

Ông Dương Minh Ngà

- Nguyên Bí thư Huyện uỷ Long Thành.

  64

Ông Nguyễn Trọng Thiêm

- Phó Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  65

Ông Thổ Út

- Chuyên viên UBMTTQVN tỉnh.

  66

Bà Trần Thị Thu Vân

- Ủy viên chuyên trách, Phó ban Dân chủ - Pháp luật UBMT tỉnh, khóa 4.

  67

Ông Huỳnh Văn Ba

- PGĐ Sở GD - ĐT tỉnh.

  68

Bà Tăng Kim Đoan

- PGĐ Sở Y tế Đồng Nai, Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, khóa 4.

  69

Ông Trương Hữu Lộc

- PGĐ Sở LĐTBXH tỉnh.

  70

Ông Nguyễn Thành Trí

- Phó GĐ Sở VHTT-TT tỉnh.

  71

Bà Nguyễn Thị Bích Vân

- Giám đốc Đài PTTH Đồng Nai.

 

 

BAN THƯỜNG TRỰC UBMTTQVN TỈNH, KHÓA V:

1/ Chủ tịch:

Ông Dương Minh Ngà.

2/ Các Phó chủ tịch:

- Ông Nguyễn Xuân Chiến.

- Ông Nguyễn Trọng Thiêm.

- Ông Nguyễn Ngọc Đức.

- Ông Điểu Bảo.

3/ Ủy viên thường trực :

- Bà Nguyễn Thị Kim Hoàng.

- Bà Phạm Thị Minh.

 

 

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

·                  I. TƯ LIỆU LƯU TRỮ

·                  A. Chống Pháp

1. Báo cáo tình hình chính trị Khu 7. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

2. Báo cáo tình hình Khu 7 năm 1949 và đầu năm 1949. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

3. Báo cáo tình hình Xứ ủy Nam bộ (5-4-1950). Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

4. Báo cáo Khu ủy Khu 7 (từ 11-8 đến 27-8-1950). Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

5. Báo cáo tình hình Nam bộ từ tháng 12-1951 đến tháng 3-1952. Trung ương cục miền Nam. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

6. Báo cáo tình hình Nam bộ ba tháng 12-1951; 1,2-1951. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

7. Bản kiểm thảo Phong trào Phụ nữ toàn Nam bộ trong năm 1951-1952. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

8. Báo cáo tình hình Nam bộ 19-12-1952. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

9. Báo cáo tình hình thanh niên Nam bộ 1952. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

10. Biên bản Hội nghị phân liên khu 3 tháng (1-2-3) thường lệ và mở rộng (từ 24 đến 25-4-1953). Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

11. Biên bản Hội nghị PLKU-UB-BTL và các ngành PLKMĐ (1-1954). Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

12. Báo cáo tình hình cải cách ruộng đất từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 và tình hình nông thôn hiện nay. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

13. Báo cáo tình hình phân liên khu miền Đông (ngày 26-1-1954). Thư Phân liên khu miền Đông gửi Trung ương ngày 5-8-1954. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

14. Báo cáo PLKMĐ gửi Bộ Tổng tư lệnh ngày 25-3-1954. Thư Phân liên khu miền Đông gửi Trung ương ngày 5-8-1954. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

15. Báo cáo PLKMĐ gửi Bộ Tổng tư lệnh tháng 4-1954.

16. Báo cáo tình hình tư tưởng của đảng viên, cán bộ, chiến sĩ, nhân dân với Hiệp định Giơ-ne-vơ (12-8-1954). PLKMĐ. Thư Phân liên khu miền Đông gửi Trung ương ngày 2-8-1954. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

17. Chỉ thị Phân liên khu miền Đông, tháng 4-1954. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

18. Chỉ thị nhân đà thắng lợi của ta, ra sức đẩy mạnh công tác vùng bị tạm chiếm. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

19. Điện Phụ nữ Nam bộ gửi Phụ nữ Trung ương. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

20. Nghị quyết về chương trình công tác 6 tháng cuối năm 1952 của Liên hiệp Phụ nữ Nam bộ. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

21. Nghị quyết án về tổ chức, lề lối làm việc của cấp ủy Đảng và Chính quyền các cấp. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

22. Nghị quyết địch ngụy vận. Phân liên khu miền Đông 1954. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

23. Kết luận chung tình hình địch ta ở Phân liên khu miền Đông, âm mưu của địch, nhiệm vụ của ta năm 1954. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

24. Thư Phân liên khu miền Đông gửi Trung ương ngày 2-8-1954. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

25. Thư Phân liên khu miền Đông gửi Trung ương ngày 5-8-1954. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

26. Thư Phân liên khu miền Đông gửi Trung ương ngày 12-9-1954. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

27. Báo cáo chung niên năm 1952. Liên Hiệp Công đoàn Nam bộ. Tài liệu lưu Liên đoàn Lao động tỉnh Đồng Nai.

B. Chống Mỹ

28. Báo cáo tháng 3/1970. Ban Cán sự T7. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

29. Báo cáo Tình hình công tác Công đoàn vùng địch tạm chiếm đóng năm 1954. Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam. Tài liệu lưu Liên đoàn Lao động tỉnh Đồng Nai.

30. Báo cáo tháng 9 năm 1954. Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam. Tài liệu lưu Liên đoàn Lao động tỉnh Đồng Nai.

31. Báo cáo Tổng Công đoàn Việt Nam. Tình hình miền Nam và phong trào lao động năm 1963. Tài liệu lưu Liên đoàn Lao động tỉnh Đồng Nai.

32. Báo cáo tổng kết chỉnh huấn nghị quyết 12 ngày 25-3-1974, Thường vụ Khu ủy miền Đông. Tài liệu lưu phòng nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

33. Báo cáo “Đánh bại chính sách bình định lấn chiếm mới của Mỹ ngụy, tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. TWC. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

34. Báo cáo Khu ủy miền Đông tháng 4-1975. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

35. Báo cáo tình hình 9 tháng đầu năm 1973. Khu ủy miền Đông. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

36. Báo cáo tổng kết xây dựng Đảng năm 1974 của T1. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

37. Báo cáo sơ kết chiến dịch Hồ Chí Minh (9-4 đến 5-5-1975). Thường vụ Khu ủy Đông Nam bộ. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

38. Bản tự kiểm điểm của Khu ủy miền Đông ngày 14-1-1974. Tài liệu lưu phòng nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

39. Biên bản cuộc họp bàn về việc xây dựng căn cứ miền Đông Nam bộ ngày 4-7-1973. TWC. Tài liệu lưu phòng nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

40. Báo cáo cuộc họp Đảng ủy tiền phương sơ kết bước 1 cao điểm từ 26-3 đến 21-4-1974 của vùng Bà Rịa-Biên Hòa gửi Thường vụ Sông Thao. Tài liệu lưu phòng nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

41. Chỉ thị “Việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đối với công tác giáo dục”. Năm Trường ngày 3-7-1968. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

42. Chỉ thị số 18/CT-NT 1968. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

43. Chỉ thị số 33/CT-70 Thường vụ Trung ương cục miền Nam.

44. Chỉ thị số 02/CT-70 TWC “Trên cơ sở phát động căm thù Mỹ ngụy, động viên nhân dân, cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên nổ lực vượt bực thực hiện xuất sắc nhiệm vụ trước mắt, giành thắng lợi to lớn nhất trong chiến dịch”.

45. Chỉ thị 07/CT-71 “Chuyển hướng công tác tổ chức và xây dựng Đảng bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và sâu sắc đánh bại kế hoạch bình định và Việt Nam hoá chiến tranh”. Ban Thường vụ KBN. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

46. Chỉ thị 13/CT-71 nắm vững thời cơ thuận lợi, khẩn trương hoàn thành bước 1, kịp thời chuyển hướng sang bước 2, giành thắng lợi lớn nhất trong thời gian tới”. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

47. Chỉ thị 01/CT-72 “Thời cơ đã chín mùi, nắm vững quyết tâm của trên, phát động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân xốc tới giành thắng lợi lớn nhất”. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

48. Chỉ thị 03/CT-72. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

49. Chỉ thị 04/CT-72. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

50. Chỉ thị 07/CT 72. Ban Thường vụ KBN. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

51. Chỉ thị 08/CT 72. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

52. Chỉ thị 02/CT-73. TWC. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

53. Chỉ thị 05/CT-73. TWC. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

54. Chỉ thị 14/CT 74. TWC. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

55. Chỉ thị 184/TVT ngày 30-7-1974 của Thường vụ Sông Thao về hoat động mùa mưa. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

56. Chỉ thị 08/CT 74 “Về việc tích cực hoàn thành kế hoạch năm 1974 và phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu năm 1975. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

57. Chỉ thị 02/CT 75. Twc. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

58. Chỉ thị ngày 10-3-1975, Thường vụ Sông Thao “Phát động hàng vạn quần chúng nổi dậy tấn công phá kìm kẹp, gỡ đồn, giải phóng xã ấp bằng ba mũi giáp công”. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

59. Đề án công tác binh vận năm 1972 TWC. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

60. Điện thường vụ TWC gửi các khu ủy, phân khu ủy, Tỉnh ủy ngày 24-10-1972. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

61. Điện văn số 577 ngày 8-11-1972 của NT (TWC). Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

62. Điện 594/TWC. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

63. Điện thường vụ KBN gửi thường vụ T1, đồng gởi các tỉnh miền Đông (20-11-1972). Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

64. Điện 934 TWC tháng 5-1973. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

65. Điện số 390, thường vụ TWC gởi các Khu, Tỉnh ủy, các thị ủy, đồng điện P10, ngày 6-4-1975. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

66. Kế hoạch quân sự năm 1974 của Quân khu miền Đông. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

67. Nghị quyết Hội nghị Khu ủy miền Đông mở rộng ngày 27-3-1973. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

68. Nghị quyết án về căn cứ của miền Đông. Hồ sơ 56, phông Nam Bộ, kho lưu trữ Bộ Quốc phòng.

69. Nghị quyết Hội nghị Trung ương cục mở rộng lần thứ VI (tháng 3-1968). Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

70. Nghị quyết số 14/NQ-NT 31/10/1969 Trung ương cục miền Nam về Đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh trong tổng công kích tổng khởi nghĩa. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

71. Nghị quyết hoạt động xuân năm 1973 của Khu ủy (miền Đông). 1. Chỉ thị 07/CT 72. Ban Thường vụ KBN. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

72. Nghị quyết của thường vụ Khu ủy mở rộng (6/3/1973 đến 12/4/1973). Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

73. Nghị quyết 21 của Trung ương. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

74. Nghị quyết số 56/NQ Ban thường vụ Khu ủy miền Đông về tổ chức lại chiến trường và chấn chỉnh chỉ đạo ngày 29-12-1973. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

75. Nghị quyết 57/NQ, Thường vụ Khu ủy về tổ chức lại chiến trường và chấn chỉnh chỉ đạo ngày 7-1-1974. Tài liệu lưu phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng Đồng Nai.

76. Nghị quyết Khu ủy miền Đông từ 30-1 đến 8-2-1975. Lưu phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

I. SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN

1. Bình Đa kháng chiến - Đảng ủy phường An Bình - Nxb Đồng Nai, 1992.

2. Bửu Hòa đấu tranh và xây dựng - Đảng ủy phường Bửu Hòa, Nxb Đồng Nai, 1992.

3. Lịch sử Công an nhân dân Đồng Nai, tập I, Nxb Đồng Nai, 1992.

4. Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Đồng Nai, tập I, Nxb Đồng Nai, 1997.

5. Long Thành những chặng đường lịch sử - Thường vụ Huyện ủy Long Thành- Nxb Đồng Nai, 1992.

6. Lược sử Cù lao Phố- Chi ủy xã Hiệp Hòa - Nxb Đồng Nai, 1994.

7. Những chặng đường đấu tranh của công nhân cao su Đồng Nai- Công ty cao su Đồng Nai, 1985.

8. Phong trào đấu tranh của công nhân Đồng Nai - Phan Đình Dũng, LVCH, ĐHKHXH và NVTp HCM, 2001.

9. Phong trào đấu tranh cách mạng phường Thống Nhất - Đảng ủy phường Thống Nhất - Nxb Đồng Nai.

10. Phụ nữ Đồng Nai những trang sử truyền thống - Trần Quang Toại - Nxb Đồng Nai, 1988.

11. Vĩnh Cửu 55 đấu tranh cách mạng - Đảng ủy thị xã Vĩnh An - Nxb Đồng Nai, 1986.

12. Tân Hạnh những chặng đường lịch sử - Chi bộ xã Tân Hạnh - Nxb Đồng Nai, 1994.

13. Tân Phong 40 năm đấu tranh và xây dựng (19456 - 1985) Đảng ủy phường Tân Phong - Nxb Đồng Nai 1989.

14. Thị trấn Xuân Lộc những chặng đường đấu tranh cách mạng vẻ vang - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai - Nxb Đồng Nai 1984.

15. Truyền thống cách mạng của phụ nữ Nam bộ thành đồng - tổ sử Nam bộ; 1989

16. Truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Phường Tân Vạn, Đảng ủy phường Tân Vạn - Nxb Đồng Nai 1995.

17. Văn kiện Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất (tập 2). UBTWMTTQVN, Hà Nội, 1999.

 

III. HỒI KÝ

1. Những ngày gian khổ. Đinh Quang Dữa, Hồi ký, 2001.

2. Cánh sen quê hương. Nguyễn Văn Thông, Hồi ký, 2003.

 

IV. NHÂN CHỨNG

          1. Bà Huỳnh Thị Bông                     

          2. Bà Phan Thị Chi                          

          3. Bà Nguyễn Thị Chuyên               

          4. Bà Nguyễn Thị Hường                 

          5. Bà Phan Mỹ Kiều                        

          6. Bà Nguyễn Thị Luận

          7. Bà Đoàn Thị Hoàng Mỹ     

          8. Bà Lê Thị Trừ

          9. Bà Nguyễn Thị Thanh Tâm

10. Bà Nguyễn Phi Yến

11. Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết

12. Bà Nguyễn Thị Điều ( Năm Bình Minh )

13. Bà Huỳnh Thị Phượng.

14. Bà Huỳnh Thị Ngọc Huyền

15. Bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt ( Lê Thị Dân )

16. Ông Huỳnh Công Tâm ( Tư Ước )

17. Ông Tiêu Như Thủy

18. Ông Nguyễn Văn Thông

19. Đinh Quang Dữa

20. Võ Hồng Thái (Tư Thái/ Tư Xường)

21. Võ Văn Ba (Tư Định)

22. Phan Văn Tánh

 


MỤC LỤC

 

* Lời giới thiệu

* PHẦN MỞ ĐẦU

- Đồng Nai- vùng đất- con người và truyền thống đoàn kết

I. Đặc điểm tự nhiên.

II. Nguồn gốc cư dân và truyền thống đoàn kết

* PHẦN THỨ NHẤT

- Sự ra đời và họat động của những tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo (1930- 1945).

·                    CHƯƠNG I: Các tổ chức quần chúng trong cao trào 1930- 1931 và 1936- 1939.

II.                Những cuộc đấu tranh trước khi Đảng Cộng sản ra đời.

III.             Những cuộc đấu tranh do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

IV.            Tập hợp quần chúng trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương

·              CHƯƠNG II: Tập hợp đại đoàn kết toàn dân tiến tới Cách mạng tháng Tám (1940- 1945)

I.       Nhân dân Biên Hòa là chỗ dựa vững chắc để giữ vững phong trào, khắc phục khó khăn, xây dựng cơ sở Đảng.

II.    Thanh niên Tiền phong, nòng cốt tập hợp lực lượng thực hiện khởi nghĩa giành chính quyền.

* PHẦN THỨ HAI

   - Mặt trận Việt Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945- 1954)

·        CHƯƠNG III: Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa trong giai đoạn (1945- 1951)

I.                   Tham gia xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định đời sống nhân dân những ngày đầu độc lập (8/1945- 12/1946)

II.                Mặt trận Việt Minh vận động nhân dân kháng chiến toàn dân, toàn diện (1947- 1951)

·        CHƯƠNG IV: Mặt trận Việt Minh tỉnh Thủ Biên trong giai đoạn (1951- 1954)

I.                   Mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tham gia đấu tranh chống địch bao vây, lấn chiếm.

II.                Huy động sức mạnh toàn dân, đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi (1953- 7/1954).

* PHẦN THỨ BA

- Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Đồng Nai trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975)

·        CHƯƠNG V: Vận dụng những hình thức phù hợp để đoàn kết nhân dân đấu tranh chính trị (1954- 1960)

I.                   Tập hợp lực lượng, tổ chức đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân bằng các hình thức phù hợp để đấu tranh chính trị.

II.                Nhân dân Biên Hòa đấu tranh chống khủng bố, đàn áp.

III.             Đấu tranh để bảo vệ lực lượng cách mạng.

IV.            Nhân dân Biên Hòa đoàn kết đấu tranh chống làm xa lộ và mở rộng sân bay quân sự, chống vụ thảm sát Phú Lợi

·        CHƯƠNG VI: Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời giương cao ngọn cờ đại đoàn kết chống Mỹ cứu nước (1960- 1968).

I.                   Nghị quyết 15 (Khóa II) của Trung ương mở ra vận hội mới cho phong trào cách mạng Miền Nam

II.                Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam ra đời, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân chống Mỹ cứu nước.

III.             Mặt trận Dân tộc Giải phóng đoàn kết nhân dân góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961- 1965)

IV.            Mặt trận Dân tộc Giải phóng các huyện và tỉnh Biên Hòa thành lập.

V.               Mặt trận Dân tộc Giải phóng giương cao ngọn cờ đại đoàn kết đánh bại chiến lược “Chiến tranh cực bộ” của Mỹ.

VI.            Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam hiệu triệu tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

·        CHƯƠNG VII: Mặt trận Dân tộc Giải phóng các tỉnh Biên Hòa, Long Khánh góp phần đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” tiến tới giải phóng quê hương, thống nhất đất nước (1969- 1975).

I.                   Mỹ đổi chiến lược chiến tranh cục bộ sang Việt Nam hóa chiến tranh.

II.                Cán bộ Biên Hòa, Long Khánh bám trụ cùng nhân dân chống phá bình định của địch.

III.             Củng cố, phát triển thực lực cách mạng, khôi phục phong trào.

IV.            Quân dân hai tỉnh Biên Hòa, Long Khánh góp phần vào thắng lợi của Hiệp định Paris năm 1973.

V.               Đảng bộ, Mặt trận và quân dân hai tỉnh Biên Hòa, Long Khánh tạo thế, tạo lực, tiến lên giải phóng quê hương (từ tháng 1/1973 đến cuối năm 1974).

VI.            Mặt trận Dân tộc Giải phóng phát động nhân dân nổi dậy kết hợp vũ trang giải phóng quê hương, góp phần thống nhất đất nước.

* PHẦN THỨ TƯ

-      Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975- 2000)

-      CHƯƠNG VII: Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai thời kỳ trước đổi mới (1975- 1985).

I.                   Tiếp tục phát huy vai trò mặt trận trong thời kỳ cách mạng mới, cùng cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

II.                Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai quá trình thành lập và phát triển qua các kỳ Đại hội (1975- 1985).

III.             Những đặc điểm của Mặt trận Tổ quốc và phong trào quần chúng giai đoạn đầu cả nước thống nhất đi lên Chủ nghĩa xã hội trong cơ chế quản lý tập trung.

-      CHƯƠNG IX: Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1986- 2000).

I.                   Củng cố tổ chức của Ủy ban Mặt trận các cấp để đưa công tác mặt trận lên ngang tầm nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

II.                Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng Đồng Nai giàu đẹp văn minh

-      KẾT LUẬN

-      PHỤ LỤC: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua các kỳ Đại hội.

+ Ủy ban MTTQ tỉnh Đồng Nai khoá I (Nhiệm kỳ 1976- 1984)

+ Ban Thường trực UBMTTQVN tỉnh khóa I

+ Ủy ban MTTQ tỉnh Đồng Nai khoá II (Nhiệm kỳ 1984- 1989)

+ Ban Thường trực UBMTTQVN tỉnh khóa II

+ Ủy ban MTTQ tỉnh Đồng Nai khóa III (Nhiệm kỳ 1989- 1994)

  + Ban Thường trực UBMTTQVN tỉnh khóa III

+ Ủy ban MTTQ tỉnh Đồng Nai khoá IV (Nhiệm kỳ 1995- 2000)

+ Ban Thường trực UBMTTQVN tỉnh khóa IV

+ Ủy ban MTTQ tỉnh Đồng Nai khóa V (Nhiệm kỳ 2000- 2005)

+ Ban Thường trực UBMTTQVN tỉnh khóa V

·        THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


 

 

 

 

 

LỊCH SỬ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

TỈNH ĐỒNG NAI- TỪ 1930- 2000

  

 

 

 

 

Chịu trách nhiệm xuất bản:

BAN THƯỜNG TRỰC- ỦY BAN MTTQVN tỉnh

 

 

 

 

 

 

---------------------



[1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t7, tr 392

[2] Ngũ Quảng: Quảng Ngãi, Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Đức (tức Thừa Thiên Huế)

[3] Sách đã dẫn. Nxb KHXH, Hà Nội 1974, tr.238.

[4] Poyen: Notice sur l’artillerie de la marine en indochine, p.88, P, 1893.

[5] Hầu hết những ngôi đình này đều có sắc phong của vua Tự Đức từ năm thứ 2 đến năm thứ 8 (1848-1883). Sắc phong năm Tự Đức thứ 2 có các đình: Bình Kính, nay là Đền thờ Đức Ông Nguyễn Hữu Cảnh. Năm thứ 5 Tự Đức có các đình Thành Hưng, Tân Mỹ, Long Quới, Bình Hoà, Bình Xương, Tân Giám, Hưng Phú. Năm thứ 8 Tự Đức có đình Bình Tự. Riêng đình Hoà Quới, sắc phong bị mất trước năm 1945 và đình Bình Quan sắc phong bị mối mọt ăn nên không xác định được năm sắc phong.

[6] Ch.Maybon trích dẫn trong Lịch sử hiện đại An Nam, t.158

[7] Số liệu của Tổng thanh tra lao động cho biết năm 1926, việc mộ phu tiến hành ở 15 tỉnh Bắc kỳ là 27.505 người.

[8] Báo Tiếng Dân ngày 17-10-1928. Dẫn lại trong “Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi thành lập Đảng. Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1987. Tr 341, 342.

[9] Báo France – Asia số 27 tháng 12-1929. Dẫn lại trong Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam. Nxb Trẻ 1992. Tr 51.

[10] Thống đốc Nam kỳ: Krauheimer; Công sứ Biên Hòa: Marty; phó Công sứ: Vinmont; Chánh mật thám Arnoux.

[11] Như chi bộ Tân Triều, Bình Ý, Mỹ Lộc, Mỹ Quới, Xuân Lộc, đồn điền Cẩm Mỹ...

[12] Chi bộ thợ máy do Trần Hồng Đạo, Bí thư. Chi bộ lao động giản đơn do đồng chí Tư Ngân, Bí thư.

[13] Cuộc mít tinh ở Gò Dê (Bình Ý) tháng 9-1936 với 200 nông dân biến thành cuộc đấu tranh chống địa chủ phong kiến, tuần hành biểu dương lực lượng

[14] Cuộc đấu tranh của 400 công nhân Công ty kỹ nghệ và lâm nghiệp Biên Hòa (15-11-1936) đòi tăng lương. Đấu tranh của công nhân nhà máy BIF (28-5-1937). Cuộc đình công của 300 công nhân BIF ngày 18-11-1937. Cuộc đấu tranh bãi công của công nhân cao su Biên Hòa ngày 1-1-1939, đòi tăng lương, cải thiện đời sống.

[15] Cách mạng tháng Tám. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương – xuất bản 1978, trang 8.

[16] Văn kiện Đảng, tập 3. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản. Hà Nội 1077, trang 56.

[17] Đồng chí Trịnh Văn Dục thuộc hệ thống lãnh đạo của Xứ ủy Giải phóng do đồng chí Dân Tôn Tử làm Bí thư.

[18] Nam kỳ do nhà Nguyễn đặt, đến thời chính phủ Trần Trọng Kim đổi là Nam bộ, khi Pháp trở lại xâm lược  lần thứ hai, bọn tay sai đổi lại là Nam phần.

[19] Trần Văn Long, Huỳnh Thiện Nghệ, Trương Văn Hiệp, Nguyễn Đình Ưu…đặc biệt đồng chí Nguyễn Đình Ưu, bấy giờ là Giám đốc ngân hàng nông nghiệp ở Biên Hòa, thông qua mối quan hệ với bọn Nhật, mua và cất dấu súng đạn, sau này đều chuyển giao cho Trại Du kích Vĩnh Cửu 

[20] Nay ở sát công viên Biên Hùng, thuộc khu phố 3 phường Trung Dũng. Dãy phố này chủ nhân là ông Sáu Sử.

1 Thành phần Ủy ban gồm các đồng chí:

- Hoàng Minh Châu – Chủ tịch.

- Huỳnh Văn Hớn – Phó chủ tịch kiêm Trưởng ban tuyên truyền.

- Nguyễn Văn Long – phụ trách cảnh sát tỉnh.

- Ngô Hà Thành – phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc (Công an)

- Nguyễn Văn Tàng – phụ trách Ban quản trị tài sản quốc gia.

Ông Trần Văn Long (Ba Long) chủ tịch; đồng chí Phạm Văn Thuận làm trưởng Công an; Doãn Tiến Nghiệp phụ trách Quân sự.

2 Tại quận Tân Uyên, chính quyền cách mạng lâm thời do đồng chí Tô Văn Trước - chủ tịch, đồng chí Nguyễn Văn Trị - phó chủ tịch; tổ chức Quốc gia tự vệ do đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa phụ trách

3  Đồng chí Trịnh Văn Dục - chủ tịch, ông Võ Văn Truyện - phó chủ tịch, Đỗ Hữu Phú phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc.

1 Đồng chí Huỳnh Văn Huấn – chủ tịch, Trương Công Lịch – phó chủ tịch, Nguyễn Văn Tạo – phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc, Huỳnh Công Tâm – phụ trách quân sự, Huỳnh Văn Gia – kinh tài.

1  Dự Hội nghị có đồng chí Hoàng Quốc Việt – đại diện Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh.

2 Đồng chí Trần Công Khanh giữ chức bí thư; đồng chí Hoàng Minh Châu giữ chức phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; đồng chí Phan Đình Công ủy viên thường vụ, phụ trách quân sự. Các đồng chí Tỉnh ủy viên gồm: Lê Nguyên Đạt, Huỳnh Văn Hớn, Hồ Văn Giàu, Đặng Nguyên, Ngô Hà Thành, Lê Thái ....

3 Các công tác cụ thể cần thực hiện ngay là:

- Củng cố Ủy ban nhân dân tỉnh Biên Hoà do đồng chí Hoàng Minh Châu làm chủ tịch; các đồng chí phó chủ tịch gồm: Đặng Nguyên, Huỳnh Văn Hớn (phụ trách tuyên truyền); Phan Đình Công phụ trách quân sự; Ngô Hà Thành (phụ trách Quốc gia Tự vệ cuộc); Nguyễn Văn Tàng – thư ký.

- Cử các đoàn cán bộ tỉnh xuống các địa bàn thành lập quận ủy.

- Tổ chức Trường huấn luyện quân sự để xây dựng lực lượng vũ trang kháng chiến.

1 Ban lãnh đạo trại do gồm các đồng chí: Phan Đình Công (phụ trách chung), Nguyễn Xuân Diệu, Nguyễn Trí Định, Nguyễn Đình Ưu, Huỳnh Văn Hớn.

1 Tham gia trận đánh có Lực lượng tự vệ chiến đấu ở Xuân Lộc kết hợp với đơn vị Vệ quốc đoàn do đồng chí Dương Văn Hiền chỉ huy.

1 Đội Xung phong cảm tử có hơn một chục chiến sĩ, phần lớn là các em thiếu nhi ở các phố quanh chợ Biên Hoà (trong đó số thiếu nhi người Hoa chiếm 1/3);  tuổi từ 12 – 16 ; được trang bị súng ngắn, lựu đạn do đồng chí Hồ Văn Đại và Nguyễn Văn Ký chỉ huy. Đội đứng chân tại đình Bình Thảo xã Bình Phước. Đội du kích Hồ Hoà có khoảng 40 người, chủ yếu là công nhân nhà máy BIF, thanh niên cứu quốc các xã Tam Hiệp, Tân Mai, An Bình.

 

1  Khu 7 gồm các tỉnh: Biên Hoà, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Sài Gòn được thành lập ngày 10/12/1945.

1 Mười ba đội viên : Nguyễn Chiến Luỹ, đội trưởng, Nguyễn Văn Hoạt, đội phó, Nguyễn Văn Trực, Nguyễn Thị Chẩn, Lê Thị Gắt, Lê Thị Giàu, Nguyễn Thị Nhung, Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Trong, Trần Văn Sạch, Trần Văn Y, Lê Văn Khéo, Nguyễn Thị Thể .

1 Nội dung tuyên truyền được các đội viên học thuộc lòng, vác loa thiếc đi tuyên truyền bằng lời lẽ mộc mạc như:

                - Nghe đây, nghe đây...Ngày mùng 2/9/1945. tại thủ đô Hà Nội, Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.

                - Nghe đây, nghe đây...Ngày mùng 3/9/1945, Hội đồng Chánh phủ quyết định phát động trong toàn quốc chiến dịch tăng gia sản xuất và cứu đói. Yêu cầu đồng bào trong ấp, xã tiếp tục trồng thêm nhiều khoai, lúa; chăn nuôi thêm nhiều gia súc, gia cầm...

                - Nghe đây, nghe đây...Ngày mùng 20/9/1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh bầu cử Quốc hội khoá 1 trong cả nước. Vậy, yêu cầu đồng bào trong xã từ 18 tuổi trở lên đi bầu cử vào lúc 7 giờ sáng ngày 6/ 1/1946 tại trụ sở UBND lâm thời xã ở ấp Nhà Thờ.

                - Nghe đây, nghe đây...Ngày mùng 25/11/1945, Trung ương chỉ thị: Nhiệm vụ cần kíp của chúng ta là củng cố chánh quyền cách mạng, chống Thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.

[21] Địch hình thành chi khu Tân Uyên bên bờ phải và chi khu Cây Đào bên bờ trái sông Đồng Nai để kiểm soát đường giao thông liên lạc của ta trên hai địa bàn Tân Uyên, Vĩnh Cửu. Hàng loạt các đồn bót được địch xây dựng ở Tân Xuân, Cẩm Vinh (Tân Triều), Bình Long, Lợi Hoà, Miếu Bà Cô (Thiện Tân), Tân Lương, Tân Ba, Tân Tịch, Xóm Đèn, Tân Lợi, Đất Cuốc...tạo thành vanh đai kiểm soát căn cứ Lạc An từ ba phía tây, tây bắc và phía nam.

Ở Xuân Lộc, địch lập chi khu quân sự có sở chỉ huy đặt tại Suối Tre. Địch triển khai hệ thống đồn bót trên các trục lộ giao thông, các khu vực xung yếu. Mỗi đồn điền, Pháp bố trí một trung đội đóng bót, hỗ trợ cho các chủ sở ruồng bố gom công nhân để có nhân lực khai thác cao su. Địch thẳng tay đàn áp nhân dân, bắt bớ, sát hại cơ sở cách mạng, những người yêu nước, cán bộ Việt Minh. Quận Xuân Lộc, nhiều tổ chức kháng chiến không còn hoạt động, các cơ sở đứt liên lạc, phong trào cách mạng lâm vào tình thế khó khăn.

Tại quận Long Thành, trong tháng 2/1946, giặc Pháp càn quét, đốt 200 nóc nhà dân xã Long An, riêng xóm Trầu có tới 90% nhà dân bị cháy rụi, 8 người bị bắn chết, hàng chục người bị bắt đi xâu. Những người chống đối đều bị giặc thủ tiêu. Tại xã Tam An, trong vòng 10 ngày, giặc đốt 100 nóc nhà, sát hại 15 dân lành. Hàng loạt các xã ở Long Thành bị Pháp cho máy bay ném bom, đại bác từ Biên Hoà và các tàu tuần tiễu trên sông Đồng Nai pháo kích vào.

2  Dân tộc Châu ro tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1933,  vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1936. đồng chí Điểu Xiển đã hoạt động liên tục trong cuộc khởi nghĩa tháng Tám, là hạt nhân đoàn kết, tổ chức các lực lượng yêu nước sâu rộng trong đồng bào dân tộc thiểu số.

[22] Ở khu vực thị trấn Xuân Lộc, địch bắt các chiến sĩ cách mạng như: Nguyễn Thành Danh, thông phán Đỉnh, Chín Mót, hương quản Mới...tra tấn dã man cho đến chết. Đồng chí Trần Văn Thiệt (Hương quản Bé), nhà sư Ký Thừa và phật tử Ba Sậy (chùa làng Xuân Lộc) bị địch bắn chết rồi cắt đầu bêu giữa chợ, thây vứt xuống giếng lạng để trấn áp tinh thần của quần chúng. Tại đồn điền An Lộc, địch bắt các công nhân là anh Nho, bắt anh Chí trói vào xe Jeep kéo lê trên các ngã đường trong sở cho đến chết. Ở khu Ba Gioi, Bà Hào xã Phước An (quận Long Thành), địch cho máy bay trút bom đốt cháy và san bằng nhà cửa của dân chúng làm chết và bị thương hàng trăm người. Tại xã Phước Long, nhiều hầm trú ẩn của dân bị trúng bom, trong đó có gia đình bà Mười Ứng và bà Nhung làm 8 người chết, đa số là phụ nữ và trẻ em. Ngoài ra, bọn lính Pháp tàn nhẫn sát hại hàng chục phụ nữ là người lớn tuổi già yếu. Vùng ven quận Châu Thành là địa bàn quân Pháp càn quét dữ dội để bảo vệ vành đai an toàn cho tỉnh lỵ Biên Hòa. Hành quân đến đâu, quân Pháp gây tội ác đến đó: chúng sẵn sàng đốt nhà, bắn giết trâu, bò, heo, gà của dân, vơ vét gạo thóc, tài sản làm cho nhiều xóm làng trở nên điêu tàn xơ xác. Tại xã Bình Hòa, địch bắt giết chị Nguyễn Thị Mười và bêu đầu ở nhà hội xã; ở xã Bình Phước bọn lính địch sát hại một lúc 18 gia đình. Tại cống nước ở Bình Ý, Bình Hòa, giặc giết và vất xác hàng chục người dân, trong đó không ít nạn nhân là phụ nữ, trẻ em. Chị Sen, một mật báo viên của Quốc gia tự vệ cuộc bị địch bắt và tra khảo một cách man rợ bằng cách treo lên rồi cắt xẻo từng miếng thịt cho đến chết. 

1   Một số nội dung cơ bản của Hiệp ước: Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoa là một quốc gia tự do trong khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp thay chân quân đội Pháp tại miền Bắc và sau đó sẽ rút dần số quân; Hai bên sẽ ngừng các cuộc xung đột...

2 Lực lượng vũ trang tham gia trận đánh do đồng chí Mai Văn Vĩnh chỉ huy tổ chức tấn công, tiêu diệt nhiều lính địch, phá hủy 2 xe quân sự địch.

1 Quân Pháp sát hại 16 thường dân tại Mỹ Lộc, bắn giết 18 gia đình tại Bình Phước. Số thương binh tại quân y viện của ta không sơ tán kịp, địch dùng lưỡi lê đâm chết 11 người.

2 Hội nghị cử ông Nguyễn Văn Tàng làm Chủ tịch Ủy ban hành chánh tỉnh; đồng chí Huỳnh Văn Nghệ giữ chức Phó chủ tịch kiêm ủy viên quân sự.

1  Chi đội 10 có số quân là 1.100 chiến sĩ, tổ chức làm 3 đại đội A, B, C, đứng chân hoạt động ở Tân Uyên, Châu Thành, Long Thành, Xuân Lộc. Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ làm chi đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Lung làm chi đội phó, đồng chí  Phan Đình Công làm chính trị viên.

2  Đồng chí Phạm Văn Diêu (Lê Lên) làm bí thư và 2 đồng chí Thêm, Sinh.

3  Ông quản Bổn – phó chủ nhiệm; Hai Phan – thư ký; Phạm Văn Phụng – phụ trách Thanh niên; Trịnh Văn Thời – tuyên huấn.

 

1 Hội nghị đã cử đồng chí Nguyễn Văn Ký làm Bí thư Tỉnh ủy.

1 Nguyễn Kiêm Hương (Thơ ký), Huỳnh Thị Vị (Phó thơ ký).

1 Ban chấp hành huyện uỷ Xuân Lộc được chỉ định, gồm các đồng chí: Ngô Tiến – Bí thư, Hoàng Đình Thương, Hoàng Minh Đức – Phó bí thư, các ủy viên: Lê Văn Kiểu, Lê Ngọc Liệu, Tôn Quang Hảo, Đặng Vũ Thúy, Nguyễn Văn Tạo, Lê Chân.

2  Đồng chí Trịnh Anh làm đoàn trưởng, đồng chí Minh Nguyệt làm đoàn phó.

1 Ở đồn điền An Lộc, công nhân chặt vạt vỏ cây đến 54 mẫu, phá hủy một phần nhà máy, một máy bơm, một kho chứa đồ trị giá 25.000 đồng, thu 5 súng, 299 viên đạn, 20 bao gạo, 100 kg cá khô. Tại đồn điền Cẩm Mỹ, công nhân bôi axít phá 38 mẫu, vạt vỏ 28 mẫu, phá hủy 12.000 chén hứng mủ, lấy 1 súng và 50 viên đạn. Công nhân đồn điền Bình Lộc phá hủy 19.700 chén hứng mủ, 1 máy bơm, một máng hứng nước,1 xe Traction, 1 cần khoan, 1 kho hàng trị giá 60.000 đồng và 2 máy đánh chữ. Tại các đồn điền Xuân Lộc, công nhân chặt phá 70 mẫu cao su, phá hủy 28.000 chén hứng mủ. Chỉ riêng trong ngày 19/ 5/1947, công nhân các đồn điền khu vực Xuân Lộc đã chặt phá 300.000 cây cao su.

 

1 Tổ chức phụ nữ do đồng chí Nguyễn Thị Lài phụ trách.

1 Chị Diệp Ngọc Nữ (đoàn trưởng), Trần Thị Quế (đoàn phó).

2 Chị Nguyễn Thị Vĩnh phụ trách.

3 Chị Ba Lía làm đoàn trưởng và Nguyễn Thị Bảy làm đoàn phó, cô Nguyễn Thị Mai làm thư ký.

4 Gồm các anh: Lâm Văn Xiêm, Phạm Hưng Tiền, Đặng Văn Cử, Nguyễn Văn Dần, Huỳnh Văn Chiêm, Lưu Khánh Bon, Nguyễn Văn Ninh, Phạm Văn Sáng, Tân) do anh Phạm Văn Nghiêm làm tổ trưởng. 

1   Ba Chánh là nhân viên Ty công an địch ở Biên Hòa.

2 Ban Chỉ huy Tỉnh đội gồm: Cao Văn Bổ (Tỉnh đội trưởng), Nguyễn Văn Lai (Chính trị viên), Nguyễn Văn Trị, Nguyễn Minh Nguyệt (Tỉnh đội phó).

 

1 Đồng chí Phạm Văn Thuận – Bí thư kiêm Trưởng ty Công an; đồng chí Huỳnh Văn Lũy – Phó bí thư kiêm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh; đồng chí Huỳnh Văn Nghệ – Phó bí thư kiêm Chủ tịch UBKCHC tỉnh (đ/c Huỳnh Văn Nghệ giữ chức này cho đến khi nhận nhiệm vụ Khu bộ trưởng Khu 7 tháng 6/ 1948). Các Tỉnh uỷ viên: Nguyễn Văn Lai, Phạm Văn Khoai, Trịnh Trong Tráng, Võ Cương, Lê Thái...

1  Đầu năm 1948, huyện Long Thành do đ/c Lương Văn Nho - Chủ tịch; đ/c Kim – Trưởng Công an bị bệnh, Trần Trọng An lên thay (An tên thật là Nguyễn Thọ Phước - vốn con của một địa chủ ở Phú Mỹ; mật thám Pháp).

- Tháng 1, Đại hội lần thứ nhất Đảng bộ Long Thành tổ chức. Đ/c Vũ Hồng Phô được bầu làm Bí thư. (Nguyễn Văn Minh – phó Bí thư; Đăng Văn Quang – phụ trách Thanh niên; Nguyễn Văn Quang – Thư ký Công đoàn; Thứ – thư ký Nông hội. Lúc này, Võ Văn Truyện – nguyên chủ tịch huyện bất mãn, tham gia Đảng Dân chủ, cấu kết cùng bọn Minh, Quang phá hoại cách mạng. Đây là bọn phản Cách mạng, địch cài vào, chui sâu vào hàng ngũ Đảng uỷ huyện Long Thành).

- Tháng 5/1948,  Tỉnh đưa đ/c Trần Bình Khê về làm chủ tịch huyện. Mặt trận Việt Minh do đ/c Nguyễn Sanh Thành làm chủ nhiệm.

 

1 Ban chỉ huy Trung đoàn gồm: Nguyễn Văn Lung – Trung đoàn trưởng; Nguyễn Văn Quang, Đinh Quang Ân, Đào Văn Quang – Trung đoàn phó; Võ Cương – Chính trị viên.  Quân số có trên 2.200 chiến sĩ.

2 Công nhân các đồn điền khoảng 200 người; xã Phước Thọ có 100 thanh niên, xã Tam Phước có 80 người, xã Phước Thiền có 40 người...Riêng xã Phú Hữu trong hai đợt vận động có 130 thanh niên tham gia.

 

1 Huyện Tân Uyên cắt một số xã chuyển về huyện Vĩnh Cửu mới thành lập trên cơ sở  từ huyện Châu Thành. Huyện Vĩnh Cửu gồm các xã: Bình Hoà, Tân Triều, Bình Ý, Trảng Bom, Bửu Long, Tân Thành, Tân Vạn, Tân Phong, Bửu Hoà, Hiệp Hoà, Tam Hiệp, Long Bình, Long Hưng, Tân Hửng, An Hoà. Ban Chấp hành huyện Vĩnh Cửu do đồng chí Phạm Văn Diêu (Lê Lên) làm bí thư, Phạm Văn Bính giữ chức Phó bí thư và các uỷ viên: Ngô Bá Cao, Nguyễn Văn Bàng, Bùi Trừng Thăng, Nguyễn Việt Trai, Trần Văn Xã... Thị xã Biên Hoà thành lập trên cơ sở xã Bình Trước.

2 Huyện Sông Bé giáp với Chiến khu Đ  về phía Đông và Đông Bắc. Đông chí Ngô Văn Long giữ chức Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chánh huyện.

1  Cụ thể, trong năm 1948, ta phá 1.952 mẫu vườn cây, đốt đổ 252.797 kg mủ, đập 35.000 chén hứng mủ, đốt phá 150 nhà và nhiều máy móc.

2 Phòng quốc dân thiểu số do đồng chí Hoàng Đình Thương phụ trách.

1 Nhóm phản động gồm các tên sau đã chui sâu, leo lên các chức vụ cao trong huyện uỷ Long Thành như: Nguyễn Minh Quang – Phó bí thư huyện; Nguyễn Thọ Phước – Trưởng Công an; Đặng Văn Quang – thư ký công đoàn; Thứ – thư ký nông hội.

2 Đồng chí Trần Bình Khê – Bí thư; Trương Minh Kỷ – phó bí thư.

1 Đồng chí Võ Văn Mén – Bí thư;  Nguyễn Bảo Yến - Chủ tịch UBKC, HC; Phan Thu Hà – Trưởng Công an; Nguyễn Boả Đức – Thị đội trưởng; Phạm Văn Phụng – Đoàn trưởng Thanh niên cứu quốc; Dương Bảo Hương – Đoàn trưởng Phụ nữ; Trương Phi Điểu – Hội trưởng Nông dân cứu quốc; Trần Đại Thiện, Quách Xu – tổ chức công đoàn.

2 Nội ô Biên Hoà, Thị uỷ phân chia bốn khu vực để hoạt động, gọi là hộ; gồm: Hộ 1- khu vực trung tâm đường phố và chợ; Hộ 2 – địa bàn Phước Lư, Lân Thị, Vĩnh Thị; Hộ 3 - khu vực Bàu Hang, Tân Hiệp; Hộ 4 – Lân Thành, Dốc Sỏi.

1 BCH Huyện uỷ gồm: đ/c Phạm Văn Bính – Bí thư; Ngô Bá Cao – Phó bí thư. Ủy ban kháng chiến hành chánh gồm: đ/c Phan Duy Khai – chủ tịch; Nguyễn Văn Tỏ, Bùi Trừng Thăng – Phó chủ tịch. Phụ trách Công an: Đặng Tuấn, Lê Chí Hương; Huyện đội: Hoàng Đình Cận.

1  Bộ đội Trần Phú được thành lập trên cơ sở hai trung đội du kích thành bộ đội địa phương huyện vào cuối năm 1949. Huyện thực hiện việc rút lực lượng du kích xã thành lập lực lượng địa phương gồm 140 đồng chí, lấy tên là đại đội Hồ Văn Long.

1 Ban Cán sự do đồng chí Lê Sắc Nghi làm Bí thư và Đội vũ trang tuyên truyền huyện do đồng chí Ba Viên phụ trách.

1  Từ năm 1950 đến 1954 Mỹ viện trợ cho thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương đến 78% tổng chiến phí,

2 Ban Cán sự gồm: Trịnh Trọng Tráng, Mai Sơn Việt – phó ban, Trần Minh Chánh – Uỷ viên thường vụ; Ban các sự đóng tại Khánh Vân.

1 Đồng chí Nguyễn Trọng Cát ( Ba Đắc ) – Bí thư; Trần Bình Khê – Chủ tịch; Trương Minh Kỷ – Tuyên huấn.

2 Tỉnh Thủ Biên gồm 8 huyện: Vĩnh Cửu, Tân Uyên, Xuân Lộc, Châu Thành, Bến Cát, Hớn Qủan, Lái Thiêu, Thủ Đức và 2 thị xã Biên Hoà, Thủ Dầu Một. Lúc này, huyện Long Thành được cắt chuyển về tỉnh Bà Chợ (Bà Rịa – Chợ Lớn). Sau này, tỉnh thành lập thêm huyện căn cứ Đồng Nai (trên cơ sở sát nhập các xã Thường Lang, Lạc An, Tân Hòa, Tân Tịch, Mỹ Lộc của huyện Tân Uyên và một phần của huyện Hớn Quản).

 

 

 

1 Ban Chấp hành Hội Phụ nữ tỉnh gồm: Lưu Hồng Thoại (Hội trưởng), Nguyễn Thị Thanh Tâm (Hội phó), Nguyễn Thị Lộc (Hội phó kiêm tỉnh đoàn phó Thanh niên Cứu quốc), Nguyễn Thị Khánh Phương (ủy viên thường vụ), Huỳnh Thị Bông (ủy viên thường vụ) và 1 số  ủy viên...

1 Diện tích rộng 3.700 km2 , dân số khoảng 10.000 người. Đồng chí Lê Thái – bí thư kiêm Chủ tịch UBKCHC, Nguyễn Văn Tỏ – phó chủ tịch, Hà Quang Minh – ủy viên, Nguyễn Văn Tư – huyện đội trưởng...

2  Cơ sở nhà bảo sanh tỉnh (có bảy giường) tại dốc Bà Nghiêm (Tân Uyên) do đồng chí Huỳnh Thị Bông phụ trách.

2 Từ đầu năm 1950, Bộ Tư lệnh Nam bộ xác định: ”Vĩnh Cửu là bàn đạp cách mạng tấn công vào thị xã, nơi trú quân và dừng chân của các lực lượng, đường giao thông quan trong từ Chiến khu Đ xuống Long Thành, Bà Rịa, là nguồn nhân vật lực cung cấp cho kháng chiến. Tỉnh uỷ Thủ Biên đã xác định Vĩnh Cưũ là địa bàn chiến lược và tăng cường cán bộ để củng cố, phát huy hiệu lực từ cơ sở.

1 Đội vũ trang do đồng chí Khoát làm đội trưởng, đồng chí Khai, Bạch - đội phó, đồng chí Nguyễn Hy Vọng - chính trị viên. Quân số của độ gồm 126 cán bộ, chiến sĩ.

 

1 Các lực lượng võ trang phối hợp tham gia: tiểu đoàn 303, đội biệt động tỉnh, đại đội Nguyễn Văn Nghĩa, Lam Sơn, huyện đội Vĩnh Cửu, đội Võ trang Tuyên truyền Xuân Lộc.

2 Ta diệt 50 lính Au Phi, bắt sống hàng chục tên, toàn bộ tề nguỵ ra đầu hàng, thu 200 súng các loại (trong đó có 10 khẩu đại liên, 50 trung liên, 1 cối 81), phá hủ 1 xe thiết giáp, thu nhiều máy móc, đạn dược, 5 triệu tiền Đông Dương.

 

1 Theo báo cáo của Nam Bộ gởi Trung ương Đảng và Chính phủ, tỉnh Thủ Biên là địa phương thiệt hại nặng nề nhất (khoảng 80%).

1  Theo báo cáo, trong năm 1952, tỉnh Thủ Biên có 52 cán bộ và 383 du kích bỏ ngũ.

1 Những địa bàn trước thuộc Biên Hoà được xác định  trong vùng cụ thể như: Vùng đô thị tạm chiếm – thị xã Biên Hoà; vùng cao su tạm chiếm – Xuân Lộc; Vùng Thiểu số – có Bù Cháp, Lý Lịch; Vùng căn cứ du kích – Đại An, Định Tân (Vĩnh Cửu) và Lý Lịch, Vĩnh An, Tứ Hiệp, Bù Cháp ( Sông Bé ); Vùng nông thôn tạm chiếm –Vĩnh Cửu và một số xã như An Hoà, Tân Bửu của thị xã Biên Hoà; địa bàn Long Thành lúc này thuộc quản lý của tỉnh Bà – Chợ.

1  Đến tháng 8/1953, địch mở 4 cuộc càn cấp tiểu đoàn, 24 lần đột kích cấp trung đội. Riêng trong tháng 6/1953, địch dùng 2 đại đội đột kích vào tận khu vực Nhà Nai hòng tấn công cơ quan đầu nào của ta. Ngoài ra, chúng thường xuyên dùng máy bay, pháo bắn phá căn cứ, rải tuyền đơn dụ hàng.

2  Cuối năm 1953, tổng số quân địch trên tỉnh Thủ Biên có 26.000 tên (bằng 3/5 quân số năm 1952)

 

[23] Địa phương chí Biên Hoà 1956

 

[24] Ký ngày 8/1/1955 có nội dung chính: lập khế ước tá điền loại A đối với ruộng đang thực làm, thời gian khế ước 5 năm, mức tô từ 15% - 25%.

[25] Ký ngày 5/2/1955 có nội dung: trong vòng 1 tháng kể từ khi dụ ban hành, chủ điền báo việc khai thác ruộng đất không trồng trọt của mình và trực tiếp cho tá điền mướn ruộng theo khế ước loại B (uộng bỏ hoang). Chủ điền vắng mặt hoặc cam kết không khai thác lại thì chính quyền sẽ cấp đất cho người di cư, cựu binh sĩ hoặc tá điền khai thác trong vòng ba năm; họ ký khế ước loại C với hội đồng hương chính xã; chủ điền có thể trở lại bất kỳ lúc nào để tiếp tục thi hành khế ước.

[26] Ký ngày 22/10/1956) có nội dung: mỗi địa chủ được giữ lại 100 ha ruộng đất (có thể giữ thêm 15 ha đất hương hỏa); ruộng truất hữu được chính phủ bồi thường theo hiện giá, trả 10% tiền mặt, số còn lại bằng tín phiếu trong 12 năm với lãi suất 5%/năm; ruộng truất hữu bán cho người thiếu ruộng không quá 3 ha/hộ, trả trong 6 năm (trong thời gian này ruộng đất vẫn thuộc sở hữu của chính quyền); trong vòng 10 năm ruộng không được cho mướn hay bán.

[27] Bước 1 - điều tra phân loại: xã nắm tổng số thanh niên từ 17 đến 30, thành phần giai cấp, tôn giáo, đảng phái (Thanh lao, nòng cốt, lừng chừng, ngoan cố, số thanh niên có liên quan với địch: bà con, bè bạn đang làm cho địch).

Bước 2 - Giáo dục chung về tình hình, nhiệm vụ từ nòng cốt ra đối tượng chính (âm mưu xây dựng quân đội của Diệm, tính chất phi chánh nghĩa của quân đội quốc gia giả hiệu, né tránh bắt lính, nếu bị bắt lính thì tìm cách liên lạc với bên ngoài). Sau khi giáo dục, tìm hiểu hai hạng: số thanh niên cần tranh thủ, số có điều kiện đưa vào nội tuyến (nhất là công an cảnh sát, phòng nhì, dân vệ đoàn …) ở thị xã, thị trấn và các ngành.

Bước 3 - Giáo dục lại các nội dung đã nêu, giáo dục số đưa vào nội tuyến trong các giáo phái (5 bước công tác cách mạng, vinh quang của người cách mạng biệt phái trong hàng ngũ địch, xây dựng ý thức trường kỳ mai phục chống mua chuộc, sa ngã, giữ vững khí tiết người cách mạng …). Phải có tài liệu giáo dục chu đáo. Có thể lập tổ 3 người để giáo dục, có thể giáo dục từng người.

Bước 4 - Trước khi đưa vào nội tuyến cần giải đáp thắc mắc cụ thể. Làm lễ tuyên thệ đơn giản, trang nghiêm, anh em hứa hẹn. Đảng viên, đoàn viên nội dung lời thề có phần khác. Xét thấy nòng cốt /đoàn viên có điều kiện kết nạp Đoàn, Đảng thì kết nạp rồi đưa đi. Nếu đưa một nhóm vô một đơn vị thì có thể lập tổ chức rồi đưa vô từng người, từng tổ khi mộ đăng. Phương châm: thường xuyên, liên tục, chủ động.

Bước 5 - Báo cáo danh sách lên trên. Nếu ở địa phương thì bắt liên lạc, nếu ở nơi khác thì giới thiệu lên trên, không để đứt liên lạc ngay lúc đầu. Phối hợp các ngành trong việc xây dựng nhứt là giữa binh vận và thanh niên - lo mộ và giáo dục đưa đi - kết hợp chặt chẽ …”.

[28] Đối với gia đình binh sĩ: Mỗi đảng viên vận động những gia đình binh sĩ ở gần.

Bước 1 - Phân loại điều tra: tích cực, lừng chừng, kém.

-  đối với loại tích cực: củng cố lòng yêu nước, thấm nhuần nhiệm vụ, chính sách và tùy năng lực phân công vận động trong gia đình binh sĩ khác.

- đối với loại lừng chừng khêu gợi lòng yêu nước, căm thù đế quốc, làm họ tin

tưởng thắng lợi  chánh trị, giác ngộ con em theo đường lối vinh quang.

- đối với loại kém: tranh thủ cảm tình, tìm hiểu thắc mắc, đả thông theo đường lối chính sách của ta.

Với cả ba loại: nêu bật âm mưu thâm độc của Mỹ-Diệm.

Bước 2 - Phương pháp dựa vào tình cảm quen thuộc, thân thích, uy tín, vui vẻ trò chuyện, làm quen, gần gũi tìm hiểu thắc mắc sau đó lần lần đi vào nội dung tuyên truyền.

Tùy theo mà phân công cán bộ đảng viên, nòng cốt vận động một vài gia đình nhưng khéo léo sử dụng nhân dân chung quanh phù hợp. Công tác vận động là giáo dục cải tạo, nên kiên nhẫn từng bước, không mạng lỵnh cưỡng ép. Giác ngộ chính trị về các vấn đề: Tình hình nhiệm vụ, chánh sách (Âm mưu sâu độc của Mỹ-Diệm; Khẩu hiệu của ta: hoà bình, độc lập, dân chủ, chánh sách thống nhứt quân đội; Khêu gợi lòng yêu nước)”.“Kế hoạch công tác binh vận ba tháng” viết:

“I - Tuyên truyền giáo dục binh sĩ đối phương gồm các nội dung:

     - Tuyên truyền cho Hiệp thương hai miền tiến tới tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Diệm là tay sai đế quốc chia sẻ đất nước, gây chiến tranh, đưa binh sĩ vào chỗ chết. Phản đối khẩu hiệu “Bắc tiến” háo chiến, gây chán nản không đi đánh Hoà Hảo.

     - Tuyên truyền chống thành lập quân đội quốc gia giả hiệu, chống luận điệu chống cộng trong quân đội quốc gia giả hiệu.

     -Tuyên truyền chính sách thống nhất quyết định của ta.

HÌnh thức: tuyên truyền miệng, thơ từ, truyền đơn; chú ý hai hình thức đầu.

II - Phát triển tổ chức chấn chỉnh bộ máy

Hướng phát triển nhắm vào bảo an đoàn, công an cảnh sát, phòng nhì, phòng 6, mỗi nơi phải có 2 nội tuyến binh vận. Qua thử thách, củng cố số sẵn có dùng họ mà phát triển thêm và đưa vào đoàn Thanh lao hay Đảng. Tổ chức nhiều tổ binh vận trong các đường phố và vị trí địch. Binh vận phải làm từ nội bộ ra nhân dân để tất cả mọi người đều làm công tác binh vận.

Mỗi chi bộ phải có một uỷ viên phụ trách binh vận theo dõi việc làm công tác binh vận, điều tra, phân loại số lượng và tinh thần các sắc lính.

III -Xây dựng lực lượng thanh niên dự trữ 

Ta tuyên truyền mạnh trong thanh niên việc chống bắt lính (mà địch gọi là đi quân dịch), giáo dục bố trí họ tìm mọi các trốn tránh chống lại. Đến tháng 2/1955 phải xây dựng xong 30 thanh niên, đưa vào 3 học sinh đi học sĩ quan, đưa từ 1 đến 3 nội tuyến vào mỗi thứ: bảo an, công an cảnh sát, phòng nhì, phòng 6. Trước khi đưa vào phải giáo dục kỹ lưỡng về lập trường, 5 bước công tác. Khi đưa vào là ta lập xong tổ có người chỉ huy để liên lạc không lạc mối”

 

[29]  Xe hoa

[30] Sau Tết 1955, chi bộ xã Hiệp Hoà tiến hành vụ diệt ác đầu tiên ở địa phương thời chống Mỹ; từ đó ít thấy bọn do thám léo hánh. Trong ấp Bình Tự có một tên chỉ điểm ngầm, một số cán bộ thị xã dụ y qua hóc Ông Che (xã Hóa An) diệt rồi ném xác xuống giếng hoang mất tích.

Phước, cảnh sát của xã Tam Hiệp chuyên  cấp giấy thông hành cho dân. Số cán bộ du kích cũ y ghi thêm hai chữ TN (viết tắt: tình nghi) để công an cảnh sát địch chú ý theo dõi và bắt. Ngày 23/6/1955, trong dịp cúng đình, hai đoàn viên Thanh lao là Ba Đảo và Ba Bổ đã phục kích diệt tên tay sai nguy hiểm này ở dốc đình lúc trời chạng vạng. Các cuộc diệt ác lẻ tẻ này không gây dư luận ồn ào.

Ở Hiệp Hoà, đội Trận thường la cà ở những chỗ đông người, khéo léo dọ hỏi về người này người nọ trong xã. Các đoàn viên thanh lao Hiệp Hoà phối hợp với đoàn viên Tam Hiệp được cơ sở giúp đã diệt hụt tên phòng nhì này trong một đám cưới ở ấp Gò Cát làm từ đó y co lại không dám léo hánh chỗ đám đông.

[31] Nội dung  lời kêu gọi: “Toàn thể đồng bào Nam bộ,

Các bạn ngoại kiều,

Để biểu dương tinh thần đoàn kết đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Nam bộ, của ngoại kiều,

Để phản đối đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm kẻ thủ phạm đã gây ra tang tóc, đau khổ, rối loạn ở miền Nam Việt Nam, âm mưu phá hoại tổng tuyển cử tự do hòng trường kỳ chia cắt Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa của Mỹ,

Để biểu dương nguyện vọng tha thiết, ý chí sắt đá của nhân dân Nam bộ và các ngoại kiều, đòi các nhà đương cục có thẩm quyền ở miền Nam Việt Nam:

1- Phải thành lập ở miền Nam một chánh phủ dân chủ, tôn trọng Hiệp định Genève, tán thành hoà bình thống nhất Việt Nam.

2- Phải bảo đảm tính mạng, tài sản, an ninh trật tự của nhân dân miền Nam, chấm dứt cuộc cốt nhục tương tàn.

3- Phải cải thiện dân sinh, thi hành các quyền tự do dân chủ, chấm dứt cuộc khủng bố phong trào cứu trợ nạn nhân Sài Gòn – Chợ Lớn.

4- Phải nhận lời đề nghị của Chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đặt lại quan hệ bình thường giữa miền Nam và miền Bắc.

5- Phải cùng Chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mở hội nghị chánh trị hiệp thương vào ngày 20 tháng 7 năm 1955 bàn việc tổng tuyển cử tự do để thống nhất nước Việt Nam đúng kỳ hạn.

Đến ngày 10 tháng 7 năm 1955 dương lịch bắt đầu từ đúng 1 giờ chiều (13 giờ) cho đến 12 giờ đêm (24 giờ) ngày đó, toàn thể các tầng lớp nhân dân Nam bộ từ thành thị tới thôn quê, các bạn ngoại kiều: Pháp kiều, Hoa kiều, Ấn kiều …

Hãy triệt để:

- Ngưng tất cả mọi cuộc sinh hoạt ngoài đường phố.

- Không một ai ra đường, tất cả mọi người đều ở trong nhà.

- Không một ai mua bán, làm ăn, đi lại.

- Chợ không nhóm, tiệm không mở cửa, xe cộ không chạy.

Toàn thể đồng bào Nam bộ, các bạn ngoại kiều hãy triệt để tham gia ngày đoàn kết đấu tranh này.

Ngày 1 tháng 7 năm 1955

LIÊN VIỆT NAM BỘ

 

[32] Cha Châu Văn Phú bị địch giết. Đồng chí Hai Thông nắm được Phú từ năm 1953 thông qua bà Phan Thị Nho và mẹ của Phú.

[33] Ý nói cuộc sống đắt đỏ, khó khăn, Diệm hay Bảo Đại cũng vậy không giải quyết được gì cho lính tráng và nhân dân.

[34]  Cụ thể là các đồng chí Ba Đông, Bảy Bìa. Mười Đôi là lính Bình Xuyên về với cách mạng khi bị Diệm đánh.

[35] Nội dung nghị định (trích hồ sơ 4623, font Đệ I Cộng hoà, Cục Lưu trữ TW 2):

“Điều thứ nhứt – Nay mở một chiến dịch lấy tên là chiến dịch Trương Tấn Bửu bao trùm phạm vi các tỉnh Chợ Lớn, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bà Rịa, Vũng Tàu và quận Hàm Tân tỉnh Bình Thuận.

Điều thứ hai  - Chiến dịch Trương Tấn Bửu nhằm những mục tiêu sau đây:

1-Tảo thanh tàn quân phiến loạn, tróc nã bọn côn đồ, bọn phá rối trị an, tái lập trật tự trong các nơi cần thiết.

2-Thu thập hết các khí giới trong tay bất cứ người nào tàng trữ bất hợp pháp.

3-Truy tầm bọn buôn lậu.

Điều thứ ba –Thiếu tướng Mai Hữu Xuân được cử làm Tư lệnh chiến dịch này.

Điều thứ tư –Trong suốt thời gian chiến dịch và trong khuôn khổ những mục tiêu kể trên, Thiếu tướng Mai Hữu Xuân được đặc quyền quyết định mọi biện pháp quân sự và dân sự cần thiết cho công cuộc bình định mà Thiếu tướng đang phụ trách…”

Một tài liệu của ta – địch bắt được - đã phân tích: “Để tăng cường đàn áp có kế hoạch và rộng lớn hơn nên trong tháng 7/1956 vừa qua Ngô Đình Diệm đã tổ chức chiến dịch Trương Tấn Bửu ở các tỉnh miền Đông đặt dưới quyền điều khiển của tướng Mai Hữu Xuân, một tên tay sai chuyên về do thám và gián điệp. Tổ chức chiến dịch này, chúng nhắm đạt mục đích như sau:

1- Phô trương lực lượng để khoe khoang rằng chúng mạnh, lực lượng của chúng hùng hậu để ổn định tinh thần anh em binh sĩ và nhân viên ngụy quyền.

2- Huy động cán bộ các ngành các cấp dựa vào sự khủng bố huênh hoang tuyên truyền là Hiệp định Genève đã mất giá trị, sẽ không có tổng tuyển cử nữa.

3- Bắt bớ những người đấu tranh cho hòa bình, thống nhất để lung lạc tinh thần đấu tranh đi đôi với việc dùng áp lực bắt buộc gia nhập vào các tổ chức phản động làm chỗ dựa để chúng có thể tranh thủ thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới khi mà chúng không thể ỳ ra được.

[36] Ở tỉnh Thủ Dầu Một, địch dùng tiểu đoàn 587 (quân số 394 người), tiểu đoàn 2/38, tiểu đoàn 3/38, đại đội pháo 38 (quân số 1510 người ), lính bảo an: 1016 người, dân vệ: 400 người, 850 tân binh.

Ở tỉnh Biên Hòa địch dùng hai tiểu đoàn 529 và 588/137, đại đội pháo 137 (quân số 450 người), tiểu đoàn 1/38, trung đoàn 10/sư đoàn 4, lính bảo an 1144 người, dân vệ 615 người, 265 tân binh.

Ở tỉnh Bà Rịa địch dùng tiểu đoàn 589/137 (378 người), tiểu đoàn 2/38, 1 đại đội thủy quân lục chiến, trung đoàn 12/sư đoàn 4, lính bảo an 332 người, dân vệ 524 người.

Ở thị xã Vũng Tàu địch dùng tiểu đoàn 529/139 (284 người), 1 phân đội thủy quân lục chiến, lính bảo an (129 người).

Ở tiểu khu biệt lập Thủ Đức địch dùng đại đội pháo 136, tiểu đoàn 5 nhảy dù (783 người), lính bảo an 314 người, dân vệ 265 người.

Như vậy chưa tính ba tỉnh Tây Ninh, Bình Thuận, Chợ Lớn thì địch đã dùng gần 2 đại đội thủy quân lục chiến, 9 tiểu đoàn, 2 trung đoàn, 3 đại đội pháo, 2935 lính bảo an,1804 dân vệ vào chiến dịch này.                  

[37] Gồm 100 người thuộc lực lượng quân sự, nhóm 20 công an cảnh sát, nhóm 20 cán bộ hành chính, nhóm 20 nhân viên tuyên truyền, nhóm công dân vụ và một số nhân viên y tế, như vậy mỗi liên đoàn quân chính khoảng 200 tên) do một đại úy hay đại diện hành chính tỉnh chỉ huy. Viên chỉ huy liên đoàn quân chính có đặc quyền dân sự và quân sự trong phạm vi một quận hay một chi khu, các quận trưởng, chi khu trưởng cũng ở dưới quyền viên chỉ huy liên đoàn quân chính.

[38] Hồ sơ 4466, phông Đệ I Cộng hoà, Cục Lưu trữ TW 2.

[39] Chúng phong cho anh là “Xứ uỷ Cộng sản Đông Dương

[40] Chúng gán là “cán bộ Công vận Xứ uỷ Nam bộ

[41] Đó là: 1-Nguyễn Văn Kinh, Chủ tịch kiêm ủy viên cảnh sát xã Tân Nhuận (Tân Uyên). 2-Nguyễn Văn Đổ, Phó chủ tịch kiêm cảnh sát xã Tân Nhuận. 3-Trương Minh Bảo, Ủy viên thường vụ Việt cộng xã. 4-Lê Quan Hạnh, Chủ tịch kiêm ủy viên cảnh sát xã Chánh Hưng (Tân Uyên). 5-Đoàn Văn Quế, Ủy viên xã hội kiêm hộ tịch xã Chánh Hưng. 6-Nguyễn Văn Hon (Nguyễn Thành Lan), Phó chủ tịch kiêm tổng thơ ký hội đồng xã Chánh Hưng. 7-Nguyễn Văn Phùng, Chủ tịch kiêm ủy viên cảnh sát xã Thiện Tân (Tân Uyên).

[42] Lịch sử biên niên của Xứ ủy Nam bộ, tr. 120, tr. 131

 

 

3. Nghị định 131-BNV/HC/NĐ ngày 24/04/1957 ấn định tỉnh Long Khánh gồm 2 quận: Xuân Lộc, Định Quán, diện tích 4400 km2. Nghị định 140-BNV/HC/NĐ  ngày 3/5/1957 ấn định tỉnh Biên Hòa gồm 4 quận: Châu Thành, Long Thành, Tân Uyên, Dĩ An diện tích 1891 km2. Tỉnh Phước Long có diện tích 5299 km2   gồm các quận: Bố Đức, Phước  Bình, Đức Phong, Đôn Luân (Xem Địa chí Đồng Nai, tập Địa lý, nxb ĐN, 2000 và Nguyễn Đình Đầu: Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tập Biên Hoà, nxb TPHCM, 1994).   

4 Quận Long Thành mở 9 lớp với 755 học viên: xã Tam Phước: 43 học viên; Tam An: 77; An Lợi: 70; Long An: 49; Long Phước: 52; Phước Thọ: 80;  Phước Lai: 91; Phước Lý: 130; Phú Hữu: 191. Quận Tân Uyên mở 12 lớp với 639 học viên: Bình  Hóa: 7; Uyên Hưng: 39; Mỹ Hòa: 17; Mỹ Quới: 76; Tân Hòa: 23; Tân Tịch: 21; Mỹ Lộc: 25; Thái Hưng: 369; Phước Hòa: 20; An Linh: 11; Phước Sang: 15; Thạnh Hòa: 14. Quận Châu Thành mở 2 lớp ở Tân Thành và Phước Lư (xã Bình Trước): 110 người.  

[47]  Hồ sơ 4566, font Đệ I Cộng Hòa, Cục Lưu trữ TW 2  

[48] - 10 giờ sáng 10/4/1957, Huỳnh Văn Út (tự Sáu) ngụ ở xã Tân Hoà (quậnTân Uyên) là cựu chỉ điểm viên phòng nhì cưỡi xe máy đi ngoài đường thì bị hai người lạ mặt hạ sát bằng tiểu liên.

- 8 giờ tối 22/4/1957, Lê Văn Dạ (tự Ngày), đoàn phó dân vệ xã Phước Lộc (Long Thành) về nhà ở xã An Lợi bị một bọn lạ mặt vào nhà hạ sát bằng tiểu liên MAS.49. Trước đây Dạ chỉ điểm cho tình báo tiểu khu Biên Hòa bắt anh Bi là cán bộ Việt cộng ở Phước Nguyên. 

- Đêm 24/4/1957, Võ Văn Xự, tổng thơ ký phong trào cách mạng quốc gia xã Tam Hiệp (quận Châu Thành) bị một toán 6 người bắt ra khỏi nhà chừng 100 mét rồi hạ sát bằng dao để lại bản án ký tên Nhơn dân.

[49] - 16 giờ (4 giờ) chiều 5/8/1957, cơ sở mật xã Thường Lang (Tân Uyên) diệt tên Đu, mật báo viên tiểu khu Biên Hòa.

- 20 giờ 30 tối ngày 5/8/1957, mật báo viên biệt kích đội 10 là Trần Văn Lịnh ở xã Vĩnh Hòa (Tân Uyên) bị diệt. Cũng khoảng thời gian này, tên Thừa - cảnh sát - và tên Xứng - chỉ điểm - cũng bị cơ sở mật xử trí.

- Cuối năm 1957, xã trưởng Long Tân (Long Thành) là Lâm bị diệt ngay giữa ban ngày trên đường từ trụ sở xã về nhà. Y là cán bộ kháng chiến cũ đầu hàng địch, quan hệ chặt chẽ với số Cao Đài phản động ở Phú Thạnh để làm tiền dân, nhất là những gia đình kháng chiến cũ. Nhiều người oán giận y tới xương tủy.

- Ngày 27/1/1958, Từ Văn Kháng ở Tân Tịch (quận Tân Uyên) làm gián điệp bị lực lượng mật diệt vứt xác xuống giếng ở xóm Lớn.

 - Ngày 8/3/1958, Đoàn Văn Đáng, hội viên cảnh sát xã Tân Tịch bị diệt ở rừng chồi ấp Tân Huệ.

- 23 giờ 30 đêm 26/3 đồn dân vệ Tân Phú (quận Tân Uyên) bị lực lượng vũ trang ta tiến công. Ngày 28/3/1958, lực lượng vũ trang ta chạm súng với tiểu đoàn 1 dù tại vùng suối Ông Đông (quận Tân Uyên).

- Đêm 10/7, một tiểu đội vũ trang cách mạng được nội tuyến báo tin, đã phục kích ở ngã ba ấp Đồng Chinh (quận Tân Uyên) chặn chiếc ô tô NDF-710 thu 3 súng của tốp 3 dân vệ đi trên xe này.

[50]Lịch sử biên niên Xứ ủy…, tr.147,148.

[51] Tỉnh trưởng Long Khánh đánh giá phân loại ấp cùng thời điểm với Biên Hòa có 37/37 xã, 126/126 ấp đều thuộc loại tương đối an ninh, nghĩa là tình hình tỉnh Long Khánh lạc quan.

 

[52] Tư Cường đầu hàng do sa sút phẩm chất sinh hoạt; Ba Chánh do bị mua chuộc lôi kéo;  Hà Tư do mất khí tiết, bị khống chế khi bị bắt. Chung qui, do Tỉnh ủy nắm cán bộ không chắc, chưa giáo dục tốt tư tưởng, thực hiện phương châm ngăn cách bí mật chưa nghiêm…

[53] Họp hai đợt: tháng 1/1959 và tháng 7/1959 (theo Lịch sử biên niên Xứ uỷ Nam bộ …tr 168).

[54] Lịch  sử biên niên đd, tr. 168 – 169.

[55] Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, tập 2, tr.65nxbTH ĐN, 2000 

[56] Lịch sử huyện Tân Uyên tập I, tr. 163-165

[57] Vũ khí thực chỉ có 1 khẩu mituyn (tiểu liên) và nhiều lựu đạn, thủ pháo do lính Bình Xuyên bỏ lại.

[58] Đêm 5/11/1960 đội võ trang tuyên truyền Bình Sơn kết hợp với bộ đội huyện 19/5 tấn công bót Nhà máy, bộ phận khác đột kích chốt dân vệ xóm Chùa. Kết quả: 5 dân vệ bỏ mạng, ta diệt ba tên ác ôn Hai Thành, Ba Hùng, Ba Rê, thu 6 súng. Sớm hôm sau, du kích mật mai phục trên đường 25 - từ quận lỵ về sở cao su Bình Sơn - bắt 1 xe tải gạo của chủ sở. Anh em báo cho đồng bào ra nhận, chuyển hết số gạo đi rồi nổi lửa đốt xe

[59] Bí thư: Lê Quang Chữ; Phó bí thư: Tư Đức (Nguyễn Văn Đợi); các UVTV: Ba Đắc phụ trách dân vận, Ba Ân phụ trách võ trang; các TUV: Mười Nghĩa (Phạm Thị Nghĩa), Sáu Phát (Nguyễn Văn Luông), Ba Tình (Ba Thuấn). Cơ quan Tỉnh uỷ đặt tại chiến khu Đ. Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, tập II, tr. 70-71.

[60] Hồ sơ 7080 font Đệ I CH, Cục Lưu trữ TW 2.  10 điểm in riêng thành truyền đơn mang tên Chương trình hành động tóm tắt của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

[61] - 2 giờ sáng 1/1/1961 họ rải truyền đơn các ấp Thạnh Phước, Bình Phước xã Bình Hoà (quận Châu Thành). Cùng đêm, Việt cộng phát loa tuyên truyền, rải truyền đơn, đất trạm canh ấp 8 xã Tân Đông Hiệp (quận Dĩ An).

- 20 giờ đêm 2/1 Trần Văn Mên và Bùi Gia Việm (tự Bôi) là chỉ điểm ngầm ở ấp Phước Lương, xã Phú Hữu bị tử hình, có bản án và nhiều truyền đơn để lại.

- Đêm 7/1, “Việt cộng” rải truyền đơn và đốt trạm canh ấp Truông Chẹt xã Phước Lộc (quận Long Thành).

- Đêm 9/1, truyền đơn Mặt trận dân tộc giải phóng rải ở ấp A xã Tam An.

- Đêm 13/1, Ngô Văn Phép, trưởng ban thanh niên cộng Hòa ấp Bà Trường xã Phước An bị diệt, có bản án găm trên áo …

- Đêm 20/1,Việt cộng kéo về ấp Đờ-la xã Tam Phước, bắt trưởng ấp Trần Văn Sánh và đoàn phó thanh nữ cộng Hòa Nguyễn Thị Ngọ mang ra cảnh cáo bắt nghỉ việc. Truyền đơn rải suốt ấp C xã An Lợi cùng đêm.

- Đêm 23/1 Việt cộng về ấp C xã Tam An bỏ truyền đơn vào nhà liên gia trưởng liên gia 3 Đoàn Văn Nơi, nhà đoàn viên thanh niên cộng hòa Đoàn Chung Hưởng và tân binh quân dịch Thái Văn Năm.

- Đêm 26/1 đoàn phó thanh niên cộng Hòa xã Phước Lộc là Nguyễn Văn Đen bị giết ở ấp Văn Hải, có bản án tử hình để lại.

 - Hồi 13 giờ 30 chiều 3/4/1961, mật báo viên Lê Văn Hưng ở ấp Đất Mới xã Phú Hội (quận Nhơn Trạch) bị diệt, bản án ký tên “Giải phóng quân miền Nam”. Cùng đêm, cựu trưởng ấp Bến Cộ xã Đại Phước là Trương Tỉ bị diệt. 12 giờ trưa mật báo viên Phạm Văn Tư (tự Cúm) ấp Giồng Ông Đông xã Phú Hữu bị diệt.

- 8 giờ sáng 22/4, mật báo viên Hồ Văn Lắm xã Phú Hữu đi mua lúa ở ấp Phước Lương mất tích. Hai ngày sau, tử thi trôi ở rạch Cá vàm Ông Mai ấp Rạch Bãi xã Phú Hữu.

- 6 giờ sáng 29/4, Nguyễn Văn Sáu (tự Quốc), Việt cộng chiêu hồi, là cảm tình viên chi công an Nhơn Trạch bị diệt tại nhà ở ấp Quới Thạnh xã Vĩnh Thanh (quận Nhơn Trạch).

- Đêm 8/5, Việt cộng rải truyền đơn ở khu chợ Cần Thạnh quận Cần Giờ.

- 13 giờ 30 chiều 9/5, Nguyễn Văn Hỏi (tức Hồ), trưởng ấp Đông Tác xã Tân Đông Hiệp (quận Dĩ An) bị diệt hụt. Cùng đêm, cờ Mặt trận dân tộc giải phóng được treo ở ấp 2 xã Tân Hạnh (quận Dĩ An) và truyền đơn “Việt cộng” rải khắp nơi.

- 2 giờ khuya 11/5, “Việt cộng” đốt trạm canh xóm Gò xã Long An (quận Long Thành), truyền đơn rải ở xóm Trầu. 5 giờ sáng, truyền đơn rải nhiều nơi xã An Lợi, băng khẩu hiệu chăng tại con đường từ sở cao su SIPH qua xã Lộc An. Cùng đêm, truyền đơn Mặt trận dân tộc giải phóng rải ở sở cao su Dân Nam (tức sở Kho bạc) xã Lộc An.

- Đêm 12/5 “Việt cộng” về ấp Long Tân, xã Long Trường (quận Dĩ An) thu đốt thẻ cử tri và tờ khai gia đình của 30 hộ dân và tán phát truyền đơn. 19 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn Nhỏ làm do thám bị diệt ở ấp Phú Mỹ xã Phú Hội. Trưởng ấp này là Nguyễn Văn Phú bị nọc đánh 8 roi cảnh cáo, hạ uy thế trước sự chứng kiến của quần chúng.

- 20 giờ đêm 15/5, liên toán trưởng thanh niên cộng Hòa xã Phước Khánh là Trần Văn Tường bị diệt ở ấp Vĩnh Hòa xã Phước Khánh.

- Đêm 30/5, Phan Văn Thành là thanh niên cộng hòa (con ông Phan Văn Nhựt) ở xóm Trầu bị bắt dẫn đi. 22 giờ đêm, truyền đơn Mặt trận dân tộc giải phóng rải ở sở cao su Trương Thị Phân xã An Hòa Hưng, giáp ranh xã Phước Tân. Đêm hôm sau, truyền đơn rải từ km 9 đến km 10 giáp ranh hai xã An Hòa Hưng và Phước Tân.

- 6 giờ sáng 1/6, “Việt cộng” vào nhà dân vệ Hồ Văn Tô xã Tam An, nhắn với mẹ Tô buộc anh này nghỉ việc và làm liên lạc cho cách mạng.

- Chiều 5/6 “Việt cộng” đốt 1 xe be ở bến cây Dầu xã Thái Thiện vi phạm “Thông lỵnh cấm rừng” đã ban bố từ lâu. 23 giờ đêm, họ rải truyền đơn và phát loa tuyên truyền ở ấp SIPH xã Phước Lộc (nay là xã Long Đức).

- Đêm 6/6 “Việt cộng” phát loa giải tán trạm canh ấp Suối Cả xã Long Phước…” .

 

[62] Tỉnh trưởng Biên Hòa báo cáo về Biệt bộ Tham mưu trưởng phủ Tổng thống: “Đơn vị hộ tống xe ủi đất bị phục kích là trung đội chánh qui thuộc tiểu đoàn 557/135 biệt phái đến bảo vệ an ninh lập khu trù mật Hang Nai … Ngày 17/1/1961, trên đường về còn cách khu gia cư khu trù mật độ 1500 mét (tọa độ YS. 120.840) khi tiểu đội dẫn đầu vừa qua khỏi ổ phục kích, Việt cộng chặn đánh tiểu đội đi sau bằng lựu đạn và nhiều loạt súng sau khi giựt mìn, đồng thời xung phong tước đoạt vũ khí (1 trung liên BAR, 1 tiểu liên Thompson, 5 Garant M.1) làm 2 binh sĩ tử thương, 1 bị thương.

Sau khi bị địch (tức bộ đội huyện Nhơn Trạchdu kích Phước An phối hợp, NV chú) tấn công ồ ạt, trung đội trưởng Võ Minh Hoàng liền chỉ huy số binh sĩ còn lại chống trả mãnh liệt cho đến khi gần hết đạn mới chịu rút lui…”. Tài liệu số 266-VP/M ngày 25/1/1961, font 6646 Đệ I CH.

[63] Phúc trình số 2153 –VP/M ngày 29/6/1961 của tỉnh trưởng Biên Hòa viết:  “Trân trọng kính trình quí Bộ rõ những thanh niên và thanh nữ kê tên dưới đây đã tự ý thoát li theo Việt cộng:

1-Phạm Văn Vui (sanh 1942), 2- Lê Văn Mão (sanh 1942), cư ngụ ấp A xã Lý Nhơn, quận Quảng Xuyên. 3- Nguyễn Văn Ngại (sanh 1944), 4- Nguyễn Thị Dung (sanh 1939), cư ngụ xã Đại Phước, quận Nhơn Trạch. 5- Võ Văn Cọp (sanh 1941), cư ngụ xã Phước Khánh, quận Nhơn Trạch. 6- Phạm Văn Rẽ (sanh 1941), 7- Võ Văn Nghé (sanh 1942), 8- Nguyễn Văn Leo (17 tuổi), 9-Nguyễn Văn Ngộ (sanh 1945), 10-Hồ Văn Chua (sanh 1945), 11-Huỳnh Văn Ngõ (sanh 1947) cư ngụ xã Thạnh An, quận Cần Giờ. 12-Vinh (đội 17 tuổi) làm mướn cho ghe củi, từ Sài Gòn xuống” …

Phúc trình số 2352-VP/M ngày 17/7/1961 viết: “Đêm 19/6, Việt cộng lén lút về bắt anh Lê Văn Mừng (sanh 1940) cư ngụ xã Lý Nhơn, quận Quảng Xuyên. Đêm 29/6 Việt cộng đến nhà tên Nguyễn Văn Phước cư ngụ ấp D Quán Tre xã Long An bắt tên này cùng hai thanh niên khác là Hồ Văn Lợi (sanh 1940) và Nguyễn Văn Bua (sanh 1943) trong lúc những tên này đang tổ chức tiệc rượu để tiễn tên Lợi được, lệnh gọi đi thi hành quân dịch. Theo cuộc điều tra, đây là một lối thoát giả dạng bằng hình thức bắt cóc để che mắt chánh quyền địa phương. Ngày 2/7 Việt cộng võ trang tuyên truyền tại ấp A và ấp B xã Lý Nhơn bắt 5 thanh niên sanh năm 1942: 1-Trần Văn Thạnh; 2-Võ Văn Năng; 3-Đoàn Văn Huỳnh; 4-Lê Văn Lôi; 5-Lê Văn Máo” …

[64] Năm 1962 là đại biểu Công giáo dự Đại hội MTDTGP tỉnh Biên Hòa lần thứ nhất, năm 1970 được kết nạp Đảng.

[65]  Anh từng làm ruộng và quen biết một số đồng bào di cư người Nùng ở Đồng Lách

[66] Lính thiết giáp sư đoàn 5 Nùng, khi giải ngũ giấu chôn 1 khẩu carbin, sau khi moi súng lên giao cho đội vũ trang tuyên truyền.

[67] Anh vào đội vũ trang tuyên truyền, sau chuyển qua bộ đội địa phương huyện Trảng Bom, hi sinh năm 1969.

[68] Riêng tên Thứa chửi Việt cộng rất dữ, còn hăm dọa một số bà con mà y nghi ngờ có quan hệ với Việt cộng. Ta gửi thư giáo dục mấy lần, y vẫn hung hăng khống chế đồng bào. Một cơ sở người Nùng dẫn đội võ trang tuyên truyền đến tận nhà bắt cảnh cáo, y chứng nào tật nấy nên cuối cùng ta phải ra tay.

[69] Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ dẫn theo Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, t.II, tr.82. 

[70] Lớp huấn luyện thoạt đầu đặt ở Thị Nghè, năm 1962 dời về khu vực suối Lồ Ồ (quận Dĩ An, Biên Hoà).

[71] Tỉnh trưởng Long Khánh gửi các xã, công văn số 104/VP-CL.33/M ngày 12/3/1962, phổ biến kinh nghiệm lập ACL.

[72]  Số 8308, font Đệ I Cộng hoà, Cục Lưu trữ TW 2. Tỉnh trưởng Long Khánh báo cáo bộ trưởng Bộ Nội vụ Sài Gòn

[73]Chu vi” là kiểu lính Cao Đài phản động bắt dân sống tập trung quanh bót, làm hàng rào chặn bộ đội ta đánh bót.

[74] Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Đồng Nai, tập 2, tr. 102-103. Ông Tô Văn Thanh là Năm Thập (Ngô Văn Năm). Ông Đỗ Tấn Minh là linh mục Nguyễn Trinh Đoàn. Đây là bí danh của các vị.

[75] Hai Dò ở ấp Câu Kê, Rỗ ở Cát Lái, Thức ở giồng Ông Đông, Trang và Bảy Râu ở Đại Phước, Điển ở Phú Hội, Hùng, Cheo, Chức ở Phước Thọ, Minh ở Tam Phước, Mong và Cho ở Phước Thái, đội Chung ở SIPH …

[76] Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Đồng Nai, tập II, tr. 112

[77] Ngày 30/5/1963, bộ Nội vụ Sài Gòn gửi điện số 03167 đến các tỉnh trưởng Biên Hòa, Long Khánh… qui định việc kiểm soát xe bò: đánh so, lý lịch chủ xe phải dán hình. Cấm xe đi ban đêm, xe phải tập trung công cộng trong ấp. Ra khỏi ấp, phải cắm cờ tiêu do quận cấp. Các xe đi hay về phải trình trạm kiểm soát ở ấp…

[78] Trưởng ban: Bí thư Huyện ủy Tư Định (Võ Văn Lượng); phó ban: Phó bí thư Chín Hàm (Huỳnh Văn Nghi) và uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ Huỳnh Văn Đậm; các uỷ viên: uỷ viên Thường vụ kiêm Chủ tịch Mặt trận Nguyễn Trung Tâm, Huyện đội phó Ba Pôn, các Bí thư chi bộ Đại An, Trị An, Tân Định, Thiện Tân.  

[79] Ở tỉnh Biên Hoà: Đồng chí Năm Kiệm (Nguyễn Sơn Hà): Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Phan Văn Trang: phó bí thư, chính trị viên Tỉnh đội; đồng chí Nguyễn Thanh Bình: ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh đội trưởng. Ở tỉnh Bà Rịa: đồng chí Tám Hà (Lê Nhị Thành): bí thư Tỉnh ủy. Ở Long Khánh: đồng chí Tư Hy (Phạm Văn Hy): bí thư Ban cán sự; đồng chí Tư Lạc (Phạm Lạc): Tỉnh đội trưởng.     

[80]  Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Đồng Nai, tập II, tr.119

[81] Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam bộ tr.428.

[82] Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh ĐN , tập 2, tr.136.

[83] 1 đại đội cối 81 (7 khẩu), 1 đại đội ĐKZ 75 (2 khẩu của Miền, 1 đại đội cối 81 (3 khẩu) của Khu, 1 trung đội đặc công của tiểu đoàn 800, đại đội của tỉnh Phước Thành, đội vũ trang và du kích các xã của Vĩnh Cửu, đội vũ trang của thị xã Biên Hòa.

[84] Lịch sử biên niên của Xứ uỷ, tr. 473-474. 

[85] Giai đoạn thứ nhất từ 1/7 - 12/1965, đưa nhanh quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam tiến hành phản công chiến lược.

Giai đoạn thứ hai từ tháng 1 - 6/1966 mở các cuộc phản công chiến lược tìm diệt chủ lực quân giải phóng, phá chiến tranh du kích, giành quyền chủ động chiến trường, hỗ trợ cho chương trình bình định. Hai gọng kềm tìm diệtbình định là biện pháp chủ yếu của chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ.

Giai đoạn thứ ba từ tháng 7/1966 - cuối năm 1967, mở các cuộc hành quân tiến công tìm diệt những đơn vị quân giải phóng sót lại, tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo cuộc kháng chiến ở miền Nam, hoàn thành bình định, rút quân Mỹ về nước cuối năm 1967. Trong khi đó, chúng dùng máy bay thực hiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngăn cản ta chi viện chiến trường. Mỹ tính toán các cuộc chiến tranh này buộc ta phải thương lượng hoà bình theo điều kiện Mỹ đưa ra.   

[86] Tháng 7/1961, ta thành lập trung đoàn chủ lực Miền QUậN761 tháng 7/1961; ngày 2/9/1965 sư đoàn 9 thành lập ở suối Nhung (chiến khu Đ); ngày 23/9/1965 thành lập sư đoàn 5 ở Bà Rịa; tháng 6/1966 thành lập sư đoàn 7; đoàn pháo binh U.80 phát triển lên cấp sư đoàn mật danh Đoàn 69, tên truyền thống là Đoàn pháo binh Biên Hòa. Các sư đoàn bí số là CT thí dụ: CT.9 

[87] Ngày 5/7/1965, quân dù thuộc lữ 173 đổ xuống rạch Ruột Ngựa (Tam An) định chụp bắt cơ quan Huyện uỷ Long Thành. Hơn 10 du kích xã và 4 chiến sĩ trinh sát  huyện đội chống càn gần 1 ngày, diệt nhiều địch, đến chiều chúng phải rút. Ở Nhơn Trạch, ta đánh bại cuộc càn của 1600 lính sư 18 và lính Cao Đài, diệt 72 tên, bắn rơi 1 máy bay.(Long Thành, những chặng đường lịch sử, tr. 296 – 297). Tháng 8/1965, C.240 bộ đội tỉnh Biên Hòa chống càn ở khu vực đồi Tâm Tình xã Phước Thái diệt 1 đại đội hơn 120 tên của lữ dù 173. Đây là trận đánh Mỹ qui mô đầu tiên trên đất Biên Hòa. Ngày 11/11/1965, Mỹ đánh đồi Gang Tói nơi đặt căn cứ Tỉnh ủy U.1, đại đội 238 của tỉnh đã diệt 78 tên Mỹ. (Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh ĐN, tr. 171,172,175)

[88] Gồm thị xã Biên Hòa và huyện Vĩnh Cửu (theo cách phân chia của ta). Nếu theo ranh giới hành chính do chính quyền Sài Gòn đặt thì U.1 gồm các quận Đức Tu, Công Thanh.

[89] Anh được kết nạp Đảng, bị địch địch bắt đánh đến chết để hòng moi tìm thêm cơ sở mật. Anh đã được công nhận là liệt sĩ.

[90] Tân Vạn với địch thuộc quận Đức Tu, với ta thuộc thị xã Biên Hòa

[91] Sau đó, đêm 26/10, bộ đội đặc công U1 lại đột vào đặt 8 trái mìn hẹn giờ, phá hủy trên 120 ngàn đạn pháo các loại 81 li, 105 li, 155 li, 203 li. Tiếp đó trong các đêm 17/11 và 9/12/1966 bộ đội đặc công lại tập kích bằng mìn vào các đồi 53, 228 phá hủy tiếp khoảng 200 ngàn đạn pháo và rocket.

[92] Phó bí thư: Châu Văn Lòng kiêm Huyện đội trưởng; các ủy viên Thường vụ: Phạm Minh Chính, Nguyễn Công Hạnh; các Huyện ủy viên: Huỳnh Văn Sang, Dương Văn Thà, Lê Văn Sanh, Trần Trung Tấn, Nguyễn Thanh Minh, Nguyễn Văn Hà, Nguyễn Văn Đức, Trương Văn Bông, Mười Thọ (Trần Văn Nhiệm), Nguyễn Nghi Phát, Nguyễn Văn Bền.

[93] Đảng viên mật  gồm: Tư Hạnh, Tư Tiên, Năm Ngũ, Sáu Bảo, Sáu Châu, Tám Kim, Chín Cự.

[94] Phân khu 4 gồm các huyện Long Thành, Nhơn Trạch, huyện cao su Bình Sơn, (của tỉnh Biên Hòa), quận 1 và quận 9 (Sài Gòn), Cần Giờ và Nam quận Thủ Đức (của Gia Định). Ban Thường vụ Phân khu 4 gồm: đồng chí Mười Chiến, Bí thư; Lê Quang Chữ, Phó bí thư; Nguyễn  Trọng Cát, phụ trách khối dân vận; Lương Văn Nho, Tư lệnh phân khu; Đặng Văn Long, chính trị viên phân khu; Nguyễn Văn Thông, Bí thư Huyện ủy Long Thành; Lê Nhị Hà, Bí thư quận 9; Nguyễn Văn Cam, phụ trách cánh Thủ Đức; Phạm Thị Nghĩa (phụ nữ); Võ Lực Lượng (kinh tài-hậu cần); Hồ Sĩ Hành, Tuyên huấn; Nguyễn Văn Tâm (quân sự ); Huỳnh Thị Phượng, Bí thư Đảng ủy cao su; Nguyễn Hải (trưởng ban an ninh), Bảy Thông (phó ban an ninh).

[95] Ban cán sự 1: đồng chí Ba Lễ, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách, có các đồng chí Huỳnh Nghị và chị Năm Thường (Phạm Thị Hoa) chịu trách nhiệm khu 4 nội ô,các ấp Lân Thành, Núi Đất, Vĩnh Thị và xã Tam Hiệp (có quận lỵ Đức Tu). Ban cán sự 2: đồng chí Năm Thắng phụ trách, có các đồng chí Năm Hiền (Nguyễn Thị Thanh Vân), Sáu Thanh (Nguyễn Thị Thanh) chịu trách nhiệm các khu nội ô 1,2,3,5, các xã Bửu Hoà, Bửu Long, Tân Thành, Hiệp Hòa, Tân Vạn. Cán bộ hai ban cán sự đều ở được trong các cơ sở nội ô, quan hệ chặt với 5 chi bộ nội ô và các chi bộ xã, cơ sở mật khá đông.

[96] Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh ĐN, t. II, tr. 220-221

[97] Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh ĐN, t. II, tr. 214

[98] Đồng chí Mai Chí Thọ và một số nhà nghiên cứu lịch sử gọi là cuộc tập kích chiến lược xuân Mậu Thân. Theo bước chân lịch sử, hồi ức Mai Chí Thọ, tập 2, tr. 169.

[99]  Nay gần khách sạn 57, nằm lọt giữa các cơ quan quan trọng của địch: cách Nha cảnh sát miền Đông chưa đến 1 km, cách Sở chỉ huy quân đoàn 3 chưa đến 1 km, cách sân bay Biên Hòa 1 km, cách ti cảnh sát Biên Hòa hơn 1 km...

[100]  Là trường trung học công lập mở năm 1956, đến năm 1968 có đủ đệ nhất cấp (cấp 2) và đệ nhị cấp (cấp 3) với khoảng 40 lớp, 2000 học sinh, 100 thầy cô giáo. Thị đoàn Biên Hòa phát triển được một số đoàn viên học sinh; phong trào của trường tương đối mạnh qua các buổi văn nghệ, làm báo … Truyền đơn của Mặt trận dân tộc giải phóng nhiều lần rải trong và quanh trường. Hàng chục nòng cốt học sinh sẵn sàng dẫn đường cho bộ đội đánh các mục tiêu quan trọng ở tỉnh lỵ Biên Hòa.   

[101]  Anh Năm Tuyền là cán bộ Đoàn thoát li, ba anh Trị, Châu, Dự là học sinh.

[102] Mai Chí Thọ: Theo bước chân lịch sử,  tập 2, tr.168, 171

[103] Theo lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam bộ, tr. 400-402 thì:

- Bước 1: từ đầu năm 1969 đến tháng 6/1970: địch bình định được nhiều vùng đông dân quan trọng, bộ đội giải phóng không còn hoạt động đến cấp đại đội ở vùng tranh chấp, hạ tầng cơ sở cách mạng ở vùng kềm tê liệt, quân đội Sài Gòn đủ sức đối phó ở cấp tương đương, quân Mỹ rút một phần về nước.

- Bước 2: từ 30/6/1970 đến 30/6/1971, địch bình định được tất cả các vùng đông dân quan trọng, lực lượng vũ trang cách mạng không còn hoạt động đến cấp đại đội ở vùng căn cứ, quân đội Sài Gòn phát triển hiện đại hóa, Mỹ rút phần lớn quân về nước.

- Bước 3: từ 30/6/1971 đến 30/6/1972, địch cơ bản bình định xong miền Nam, lực lượng ta không còn đáng kể, quân đội Sài Gòn đủ sức chặn chi viện từ miền Bắc, Mỹ rút hết quân về nước.

[104]Theo văn thư 2647 ngày 22/8/1970 của Thủ tướng chính phủ VNCH kiêm Tổng thơ ký Hội đồng bình định và phát triển nông thôn Trần Thiện Khiêm thì căn cứ 5 tiêu chuẩn dưới đây để xếp loại xã bình định phát triển: 1 - Không một chứng cớ nào nói lên sự hoạt động của hạ tầng cơ sở cộng sản loại A và B, trong phạm vi lãnh thổ xã và ấp. 2 - Các Ban chấp hành chi ủy cộng sản tại xã đã thật sự vô hiệu hóa (có bằng chứng). 3 - Các Ủy ban giải phóng xã không còn hoạt động tại xã, ấp dù dưới hình thức công khai hay bí mật. 4 - Không có sự hiện diện nào của một đơn vị du kích địa phương dù nhỏ, tại xã. 5 - Xã không bị một ảnh hưởng quân sự hay chính trị nào do cộng sản từ ngoại vi đã gây nên.

[105] Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Đồng Nai, t. 2, tr.254   

[106] Đồng chí Lê Trọng Tấn chỉ huy chung. Lực lượng gồm: sư đoàn 5, trung đoàn 4 của T.7, trung đoàn 33, 2 tiểu đoàn công binh , 1 tiểu đoàn của trung đoàn pháo 724 ĐKB, 2 tiểu đoàn đặc công của U.1, đội biệt động thị xã Biên Hòa, bộ đội địa phương Trảng Bom và Vĩnh Cửu.

[107] Sau ngày giải phóng, một đoàn đại biểu Hungari về thăm Biên Hoà, đến trước tấm bia các liệt sĩ  ở Bình Quan đã phát biểu: “Chúng tôi được nghe nói nhiều về nhân dân Việt Nam anh hùng, hôm nay đứng tại mảnh đất năm xưa thấm đẫm máu các chiến sĩ, chúng tôi thấy đúng là nhân dân Việt Nam anh hùng thật sụ!”

[108] Du kích Bàu Hàm được cơ sở báo tin, kết hợp bộ đội huyện đánh ấp Ngô Quyền đêm 4/6/1969 định). Chi bộ xã huy động nhân dân phá banh 2500 mét rào ấp chiến lược, phá sập trụ sở xã …diệt 16 tên. Đêm 5/6, du kích Hưng Lộc và bộ đội huyện bất ngờ tập kích ấp chiến lược Hưng Lộc, Hưng Thạnh, Hưng Nhơn diệt 18 tên bảo an, dân vệ và cán bộ bình định (trong đó có tên trưởng đoàn bình định). Chi bộ xã huy động nhân dân phá banh 2500 mét rào ấp chiến lược, phá sập trụ sở xã …

[109] Ông Từ (xã Bảo Vinh) đục thông cán cuốc, cho gạo vào rồi ngày mấy lần ra rẫy vào căn cứ tiếp tế cho anh em. Bà Nguyễn Thị Sáu (Bình Lộc) gom từng củ khoai, củ mì, chai thuốc cho du kích. Bà Đành, bà Đôi (Gia Ray), ông Hai Triết, Năm Chấn … dám nuôi giấu anh em trong nhà, vừa tiếp tế cho số ở ngoài. Các chị Năm Thọ, Sáu Hậu, bà Tư Bá (tỉnh lỵ Long Khánh) tìm đủ cách mang gạo vào rừng. Ở suối Tre. Bà Diệp cùng một số chị em công nhân cơ sở bề ngoài đi lấy măng rừng nhưng thực ra tìm cách tiếp tế cho anh em. Khi gặp anh em ở căn cứ núi Nứa đói lả nhưng vẫn vững chí, các bà các chị không cầm được nước mắt cảm phục …

[110] Những gương mưu trí dũng cảm của công nhân Bình Sơn không thể viết vắn tắt trong vài trang ngắn ngủi, ở đây chỉ lược thuật vài chuyện ngắn. Xin xem sách Phong trào Bình Sơn từ tr. 94 – 106 do Ban Tuyên huấn Đảng ủy Công ty cao su Đồng Nai xuất bản, 1993

[111] Khi địch dồn dân ấp Bà Ký vào Vũng Lương, xóm Gò, các cơ sở đã vận động bà con đấu tranh bám đất. Không xúc tát được đồng bào, địch bắn pháo từ chi khu Long Thành và Phước Hòa phá hủy nhiều nhà cửa, vườn tược hoa màu, gây thương tích cho hai người. Bà con mua bao cát về làm hầm chống pháo, mặt khác tổ chức thành từng đoàn xuống đồn Phước Hoà đòi địch không bắn pháo vào dân. Viên trưởng đồn là thiếu tá Quí phải chấp nhận đòi hỏi của đồng bào.

[112] Lịch sử biên niên của Xứ ủy Nam bộ, tr.646-647.

[113] Các bức hoành này do ông Nguyễn Văn Liệp bàn bạc với ông Nguyễn Văn Nương viết ra.

[114] Biên niên Lịch sử Xứ ủy Nam bộ, tr. 764

[115] Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam bộ, tr. 430

[116] Cơ sở mật nắm chắc qui luật: 8 giờ sáng chúng bắt đầu tập trung đông học lái, 11 giờ trưa nghỉ ăn cơm, chiều học tiếp. Chung quanh bãi có vài lùm cây cao bóng mát. Anh Bảy Hoàng và cơ sở nghiên cứu cách đánh bọn này. Anh nhờ bà Sáu Tước – cơ sở mật - nấu một nồi cơm nếp nhão gắn nhiều bi xe đạp đắp ra ngoài hai trái mìn: 1 trái 5 kg, 1 trái 7 kg. Đến đêm, anh em chôn trái lớn ở dưới lùm cây, trái nhỏ chôn giữa bãi tập. Sáng 15/5/1970, lính đến bãi, có đàn bò thủng thỉnh đi ngang. Một tên lùa đàn bò xong thì chiếc xe Jeep chở viên sĩ quan chỉ huy tới. Viên trung úy chạy tới chào, đạp trúng kíp, trái mìn nhỏ phát nổ. Tên này chết tại chỗ, hai tên khác bị thương. Địch bỏ luôn bãi tập này.

[117] Ở phía Đông, chúng phá địa hình từ đồng Xã Hoàng đến lô Miễu Bà (Bình Sơn). Ngày 24/2, rừng Bàu Chai (Phước Lai) bị xóa đầu tiên. Ngày 25/2, khu Đông Bắc sở Bàu Điều bị ủi quang. Tiếp đến cây rừng ven khu trù mật Hang Nai, sở Nguyễn Dưỡng bị ủi trốc gốc. Đại đội 240, các đội du kích xã và tiểu đoàn 2 Phân khu 4 hình thành các tổ săn xe, săn máy bay. Mìn các loại gài theo các đường mòn, đường ủi và khu vực căn cứ. Ngày 23/3/1970 kế hoạch ủi phá lột da lòng chảo hoàn thành với cái giá: 43 xe ủi và xe tăng bị phá, gần 20 máy bay bị bắn rơi, hàng trăm tên địch chết và bị thương.

[118] Chỉ riêng năm 1970, địch đã bắt lính 946 thanh niên hai quận (có 300 học sinh trung học Long Thành, 114 thanh niên làng Cô nhi). Chúng bắt thêm 2302 phòng vệ dân sự (có 327 phụ nữ).

[119] Ở Tam An địch bắt 70 người về quận lỵ giam giữ, bắt làm cam kết mới thả. Ở Phước Kiểng, Phước Thiền, 70 người bị tập trung cho tên Cẩm đầu hàng nhìn mặt. Ở Phước An, lính Thái và tề xã bắt 200 dân về trụ sở xã giam giữ; hơn 60 gia đình bị chúng cướp tài sản. Những gia đình bị nghi tiếp tế cho Việt cộng, ngoài việc khám xét, chúng còn khủng bố dã man: ném lựu đạn giết 8 con ông Nguyễn Văn Nhỏ (Phước Thái), bắn súng M.79 vào nhà ông Tư Sang (Phước Nguyên) làm chết 2 người con, chặn đường bắt rồi đánh chết ông Chệt (Phú Hữu) … Máy bay trực thăng ban đêm soi ruộng, bắn chết vợ chồng anh chị Bảnh - Thường, anh Dẩu, vợ chồng anh Tám Chè, cha con ông Út Hết (Phú Hữu) … Cụm pháo Phước Hòa bắn bừa bãi vào ruộng rẫy, giết nhiều dân thường và trâu bò. Chúng ráo riết ngăn chặn không cho ta vô lấy lúa gạo, không cho dân cất chòi ở ruộng rẫy, có lần bắt người đang gặt, xúc luôn lúa lên trực thăng chở về quận lỵ Long Thành.

[120] Tổ trưởng cơ yếu Phân khu 4 Nguyễn Thanh Xuân nhớ lại: Đài Trung ương Cục gọi đài Phân khu 4 như gà mẹ lạc con … Đứt liên lạc với Trung ương Cục hơn ba tháng mới móc lại được. Dịch bức điện đầu tiên tôi rơi nước mắt về lời văn cảm động … Bức điện khá dài, nay chỉ nhớ đại ý: biết được Phân khu vẫn bám trụ an toàn trên địa bàn, giữ vững được phong trào, Trung ương Cục biểu dương khen ngợi và dặn dò cố gắng bằng mọi cách giữ vững liên lạc. Trung ương Cục hết sức thông cảm và hàng ngày theo dõi từng bước đi của Phân khu.

[121] Đầu tháng 3/1970, Đại hội Huyện ủy Nhơn Trạch bầu Ban chấp hành 17 đồng chí. Ngày 17/3/1970, Đại hội Huyện ủy Long Thành bầu Ban chấp hành 17 đồng chí.  

[122] Phân khu Thủ Biên gồm thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu (kể luôn Trảng Bom) và các huyện, thị xã của Thủ Dầu Một. Bí thư PKU: đồng chí Nguyễn Văn Trung; phó bí thư PKU kiêm Bí thư Thị ủy Biên Hoà: đồng chí Phan Văn Trang; phó bí thư: đồng chí Nguyễn Văn Luông; phó bí thư kiêm Tư lệnh PK: đồng chí Nguyễn Hồng Lâm; Phó Tư lệnh PK kiêm Thị đội trưởng Biên Hòa: đồng chí Trần Công An …

Phân khu Bà Rịa gồm huyện Xuân Lộc (kể luôn Định Quán), Long Đất (kể luôn Xuyên Mộc), Châu Đức, thị xã Bà Rịa, thị xã Vũng Tàu, Duyên Hải, Long Thành, Nhơn Trạch, Thủ Đức. bí thư PKU: đồng chí Lê Đình Nhơn; phó bí thư: đồng chí Phạm Văn Hy; Tư lệnh PK: đồng chí Trần Sơn Tiêu.

[123] Đồng chí Lê Thị Não nguyên Huyện ủy viên Dĩ An được bổ sung vào Thường vụ Thị ủy Biên Hòa đứng chân ở Tân Vạn, Bửu Hòa; đồng chí Hồ Văn Thiệp ở ấp Vĩnh Cửu xã Tam Hiệp; đồng chí Diệp Thị Nguyệt ở ấp Lân Thành; đồng chí Phạm Văn Tốt ở xã Tân Vạn; đồng chí Phạm Thị Xuyến ở nội thành; đồng chí Huỳnh Thị Liên ở ấp Núi Đất trước cổng quân đoàn 3; đồng chí Cao Văn Bửng vào xã Tân Thành; chị Tuyến vào ấp Lân Thành; anh Hòa vào ấp Núi Đất; đồng chí Ba Xuân ở xã Hiệp Hòa; đồng chí Bèo vào xã Tân Vạn làm công tác vận động đồng bào theo đạo Cao Đài …. Số cơ sở nội thành rất đông: bà Mười Hậu ở ấp Tân Mai; ông Mười Đậu và anh Thành ở khi kỹ nghệ; chị Ba Yến nắm bà Út Lý - dân biểu quốc hội Sài Gòn; trung sĩ Bỉnh - trưởng đài VTĐ của quân đoàn 3; anh Xi - lính ở tỉnh đoàn bảo an Biên Hòa; thầy giáo Nguyễn Trí Dạng ở trường kỹ thuật Biên Hòa; ông Huỳnh Văn Bì ở xã tân Phong; các học sinh trường Ngô Quyền: Huỳnh Ngọc Thắm, Huỳnh Ngọc Thanh, Nguyễn Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Lợi; Huỳnh Ngọc Tân, bà Nguyễn Thị Đền, ông Phạm Văn Lương …

[124] Ban quản trị gồm các ông: Nguyễn Văn Á (chủ tịch), Cao Văn Liến (phó chủ tịch), các ủy viên: Nguyễn Văn Tước, Mai Văn Thà, Võ Văn Giỏi, Phạm Văn Tuồng do bà con cử.

[125] Bà Hai Não (Lê Thị Não), uỷ viên Thường vụ Thị uỷ Biên Hoà được cử phụ trách khu 3 (gồm các xã Bửu Hoà, Tân Vạn, Bửu Long, Tân Thành). Bám trụ Tân Vạn dưới vỏ bọc bán bánh mì cho thợ các lò gạch, bà vận động xây dựng cơ sở sau đó vươn lên Bửu Hoà móc nối với các cơ sở Hai Sớt, Ba Cốc, bà Tư Gia (Mai Thị Gia). Bà Tư Gia trở thành trạm giao liên, mua xe Honda chở anh em cán bộ có giấy tờ hợp pháp đi đường công khai từ nội ô Biên Hoà ra căn cứ Bàu Hàm, Hưng Lộc và ngược lại. Bà Năm Lang (Huỳnh Thị Lang) được Tỉnh ủy cấp hai chục ngàn mở quán bán bánh mì nhưng đó cũng là trạm giao liên. Bà Năm tổ chức được một số cơ sở là bà Sáu Dữ, bà Tuồng, bà Sánh, bà Chín Tiên …

 

[126] Bà Bảy Búa, ông Sáu Xê ở Long An đi chăn bò, mang theo bánh mì hoặc giỡ cơm ăn trưa song trong ruột bánh, gói cơm là pin đèn, thuốc men đem cho anh em. Bà Năm Ngôn ở Tam An mỗi lần đi chợ đều mua vài đòn bánh tét, gói vôi ăn trầu. Ruột bánh tét có cây viết BIC, giữa gói vôi có vỉ đá quẹt mua cho chiến sĩ đại đội 1. Ông Năm Dân ở Long Phước chở phân ra ruộng thì dưới lớp phân là bao gạo bọc kỹ bằng nilông, tiếp tế cho chiến sĩ trung đoàn 4. Ông Hai Mừng ở Phước Thiền khi đi làm ruộng ở ấp Long Điền khéo giấu địch, mang theo gạo, bếp dầu và cá khô chiên … cho cán bộ huyện. Anh em khi sống ở lòng chảo thường ăn gạo rang, uống nước lã, nay được ăn uống nóng cảm thấy như được chú Hai cho ăn bữa giỗ. Huyện ủy đưa tiền nhờ mua dầu, nhớt chạy ghe, ông không lấy. Đồng chí Chín Xuân nhờ bà Đào Thị Yến ở Phước Kiểng mua giùm chiếc kềm cộng lực (cắt dây km gai). Bà đi tận Thủ Đức mua, cho vào bao bố xếp dưới băng ghế xe lam, về tới nhà cho vào thúng tro bếp, chờ anh tới nhận. Bà Tư Nhâm ở Phước Lai được giao mua bộ đồ mổ (trung phẫu), bà đi Biên Hòa mua xong, gói kỹ từng thứ trong bọc nilông rồi xếp vào 5 hũ mắm cá linh, mang về an toàn.

[127]  Xin đọc thêm Lê Bá Ước: Một thời Rừng Sác , Nxb tổng hợp Đồng Nai, năm 2000, in lần thứ ba

[128] Ngày 23/5/1971 chi bộ mật thị trấn Xuân Lộc lãnh đạo chị em tiểu thương đấu tranh chống tăng thuế. Ngày 1/5, hơn 400 quả phụ và cô nhi do nòng cốt ta vận động và chỉ đạo đã đấu tranh chống địch cướp đất, đuổi chợ, đòi bồi thường thiệt hại. Cuộc đấu tranh kéo dài 15 ngày, địch nhượng bộ bồi thường cho số gia đình này.

Tối 21/9/1971, dân vệ ấp Bảo Vinh A bắn chết hai cô gái. Sáng 22/9, chi bộ mật Bảo Vinh tổ chức nhân dân khiêng xác hai nạn nhân kéo về tỉnh lỵ Long Khánh. Địch cho cảnh sát dã chiến và lính ra hăm dọa đàn áp. Đồng bào Bình Lộc, Bảo Vinh B, Suối Chồn nườm nượp đổ về tăng viện, lính chặn lại bằng hàng rào kẽm gai ở ngã ba đường sắt. Bà con tỉnh lỵ tiếp tế bánh mì, nước uống cho đoàn biểu tình. Xác hai cô gái đặt trên hai tấm ván giục thêm căm thù, bà con đòi gặp tỉnh trưởng Long Khánh. Đến 2 giờ chiều, đại diện tỉnh trưởng chấp nhận bồi thường thỏa đáng việc chôn cất các nạn nhân.

[129] Có 18 xã:Tân Triều, Lợi Hoà, Bình Phước, Bình Ý, Bình Thạnh, Tân Phú, Bình Long, Thiện Tân, Tân Định, Đại An, Hố Nai, Trảng Bom 1, Trảng Bom 2, Bàu Hàm 1, Bàu Hàm 2, Hưng Lộc.

[130] Hội đồng xã có 12 đến 17 tên; ấp có 1 đến 4 tên. Quận Định Quán có 8 phân chi khu cảnh sát, mỗi phân chi khu có 6 đến 7 tên.

[131] Ta sáp nhập huyện Định Quán và Xuân Lộc thành huyện Xuân Lộc vào tháng 5/1971

[132] Tổng cộng rã 725 tên PVDS;  5 ấp loại B; 13 ấp loại C; 20 ấp loại D (có 6 ấp khá). Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Phú, tr. 127, nxb Đồng Nai , 1991.

[133]Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Đồng Nai, tập 2, tr. 310.   

[134] Sách đã dẫn, tr. 311, 312.

[135] Gồm: 5 đại đội bảo an, 2 đại đội và 10 trung đội dân vệ (còn gọi là nghĩa quân), 1 trung đội cảnh sát dã chiến, 1 trung đội thám kích, 6 xe bọc thép, 8 pháo 105 và 155 mm, 1004 phòng vệ dân sự. Toàn huyện địch lập 32 đồn, bót, tua, chốt gác, đẩy mạnh việc đánh phá ta ráo riết. Ngoài ra các sắc lính cơ động như lính thuỷ đánh bộ, biệt động quân, sư 18 quân đoàn 3, máy bay ở sân bay Biên Hòa … sẵn sàng yểm trợ khi cần thiết.

[136] Trung đoàn 113 đặc công của Miền thành lập ngày 3/6/1972 có nhiệm vụ chủ yếu đánh sân bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình, ngoài ra còn giúp địa phương đánh phá bình định nông thôn, tham gia xây dựng cơ sở …

 

[138] Viên đại úy Nhiều ở Phước Thọ nghe đài Hà Nội và đài Giải phóng, nói với dân: Thế nào chiến tranh cũng kết thúc sớm, mấy ổng sẽ  thắng. Ở Phước Thái, anh Nguyên là chỉ huy trung đội thám sát - sắc lính được tin tưởng nhất - được chị Tư Phượng  - đảng viên mật - giáo dục, đã viết thư cho Huyện đội Long Thành xin được diệt đơn vị này. Đồng chí Tư Tài - Huyện đội phó - gửi thư trả lời: Binh sĩ là những anh em lầm đường lạc lối không cần xử lý. Chỉ yêu cầu diệt xã trưởng ác ôn. Một buổi sáng, Nguyên xách súng ra ấp 1 trên  quốc lộ 15. Xã trưởng Thắng chở trưởng ấp Bê bằng xe Honda. Nguyên vẫy cho xe dừng lại và nhả đạn, diệt hai tên này, sau đó ra căn cứ và được bổ sung vào bộ đội tỉnh.

[139] Hai ấp Bình Lâm, Bưng Cơ (Lộc An) bị xóa trắng sau tết Mậu Thân, nay đồng bào lục tục kéo về. Lúc đầu 10 gia đình: Ba Thẻ, Ba Thơ, Năm Chuyên, Năm Điện, Sáu Đồng, Tám Yến, Chín Lũy … chỉ có mặt ban ngày, bà con ở chung 3 căn nhà lá, chiều về thị trấn; sau đó dời nhà về ở luôn, nhà ai nấy ở. Ấp Gò Cát (Phước An) có hơn chực gia đình về cất chòi khai hoang. Ấp 1 (Bình Sơn) lúc đầu có 4 gia đình các ông Bào, Đoàn, Ba Chữ, Sáu Cường về sửa nhà rồi dần dần cả ấp kéo về hết. Trên cánh đồng Long Điền, chòi ông Tư Thể cất đầu tiên. Rồi hàng chục, hàng trăm chòi lần lượt cất trên ruộng gia đình mình. Ở ấp Trầu (Long An) lúc đầu chỉ có gia đình sáu ông bà Hai Thu, Hai Hề, Ba BỜ, Sáu Chắc, Sáu Hoặc, Chín Dương về phát cỏ cuốc đất. Rồi một thời gian, cả ấp kéo về hầu như không thiếu nhà nào.

[140] Tỉnh Bà Rịa-Long Khánh gồm các huyện của Bà Rịa (Châu Đức, Long Đất, Xuyên Mộc, thị xã Bà Rịa, thị xã Vũng Tàu,thị xã Long Khánh và hai huyện Xuân Lộc, Định Quán. Bí thư Tỉnh uỷ: Phạm Văn Hi; Phó bí thư kiêm Tỉnh đội trưởng: Phạm Lạc …

Tỉnh Biên Hoà gồm các huyện Vĩnh Cửu, Trảng Bom (tháng 10/1973 đổi thành huyện Thống Nhất, Long Thành, Nhơn Trạch, Duyên Hải, Dĩ An, Tân Uyên (hai huyện Dĩ An, Tân Uyên năm 1973 nhập về Thủ dầu Một), huyện cao su Bình Sơn, thị xã Biên Hòa. Bí thư Tỉnh ủy: Nguyễn Trọng Cát; Phó bí thư thường trực Nguyễn Văn Thông; Phó bí thư kiêm Bí thư Thị ủy: Phan Văn Trang; Phó bí thư kiêm Tỉnh đội trưởng: Nguyễn Việt Hoa ….

Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Đồng Nai, tập 2, tr. 317, 318, 320.      

[141] Từ 26 đến 28/10, một bộ phận lực lượng trung đoàn 4 đánh Long An, Lộc An diệt 95 tên. Hôm sau địch cho 2 tiểu đoàn giải vây xã Lộc An, Bình Sơn. 3 tiểu đoàn khác khai thông lộ 15, bố trí thành tuyến dài, thành cụm chốt chặn các nơi xung yếu quanh quận lỵ Long Thành. Trong vài cuộc chạm súng chống địch phản kích, ta diệt 17 tên.

[142] Tiểu đoàn 8 thuộc trung đoàn 33 chặn địch, đẩy lùi ba đợt phản công, diệt gọn 1 trung đội dân vệ, đánh thiệt hại 1 đại đội bảo an tổng cộng diệt 80 tên. Quốc lộ 1 bị cắt đứt. Bộ đội đánh cụm pháo Sông Thao, phá huỷ 1 khẩu đại bác 105 li, 1 súng cối 81, diệt nhiều sinh lực địch, bức hàng đồn Lò Than và san bằng đồn này.

[143] Nhà thiệt hại 50% được cấp tôn lợp và 16. 500 đồng; nhà thiệt hại 80% được cấp tôn và 25. 600 đồng.

[144] Những sự kiện lịch sử Đảng, t.III, tr. 679, nxb Thông tin lý luận, 1985

[145] Ngày 5/6, chủ tịch hội đồng xã Phú Hội biết cán bộ ta về họp ở xóm Hố, lập tức cho tay chân đi báo đồn Bến Sắn. 1 trung đội bảo an được phái đi. Nội tuyến đồn Bến Sắn kịp thời báo ra, cán bộ ta chuyển cuộc họp đi nơi khác. Đại đội 240 và du kích xã được lệnh triển khai đánh địch. 9 giờ sáng, địch vào xóm lùng sục thì súng bộ đội, du kích nổ từ ngoài vào. Viên thiếu úy chỉ huy và 8 lính chết, 7 tên bị bắt sống, số còn lại tháo chạy tán loạn về đồn.

[146] Ngày 8/6, chủ tịch hội đồng xã Phước Thiền là Lữ Văn Tài mở tiệc mừng được thưởng Anh dũng bội tinh tặng cho Nguyễn Văn Hùng, trung đội trưởng trung đội xung kích đồn Bến Sắn. Y là tên ác ôn, chỉ trong 4 tháng vừa qua đã cho đơn vị đột kích gần 100 lần vào các xã bên cạnh, đốt 83 ngôi nhà, bắn chết 6 người, bắt 27 dân thường. 2 giờ chiều, tiệc chưa tàn, Hùng ra sau nhà thì một phát đạn kết liễu đời tên ác ôn này. Tổ du kích Phước Thiền vượt sông về căn cứ an toàn. Cùng đêm, du kích và đại đội 240 vào ấp Bến Cam diệt 5 tên bình định nông thôn và Thẹo – chỉ huy mạng điệp ngầm 5 xã ven các lộ 17 và 19.

[147] Ở Nhơn Trạch, du kích Phú Thạnh phục kích đón đánh đoàn bình định nông thôn từ Phước An về, diệt 6 tên, bắt sống viên thiếu úy, thu 8 súng. Ở Phước Thái, cơ sở mật giúp các chiến sĩ  tiểu đoàn 2 bao vây, diệt gọn 7 tên bình định nông thôn ở ấp Thái Thiện. Ở Phước Tân, chiến sĩ đại đội 2 và du kích phục kích diệt gọn trung đội lính,  bắt 3 xe ủi nộp về tỉnh. Hồi 8 giờ sáng ngày 17/10, du kích Phước Thiền cùng 1 tiểu đội bộ đội tiểu đoàn 2 đột kích ấp, bao vây nhà có bọn bình định nông thôn đóng. Ta bất ngờ nổ súng, diệt gọn 19 tên, thu 12 súng, 1 máy vô tuyến PRC.10.

Ngày 26/10, lực lượng võ trang huyện phối hợp với du kích xã bao vây tấn công trung tâm cộng đồng phát triển của bọn bình định nông thôn ở Phước Nguyên. Đêm 29/11, ta mở cuộc tấn công quyết liệt, san bằng trung tâm cộng đồng phát triển Phước Nguyên, diệt 12 tên bình định, 56 lính địa phương quân, bắt sống một số, thu 42 súng các loại.

[148] Trong đoàn còn các đồng chí Võ Quyết Thắng - uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ, Huyện đội phó Long Thành làm phó đoàn; cùng các đồng chí: Trần Văn Côi, Nguyễn Thị Bờ, Tám Năng, Mười Hòa, Huệ, Nguyễn Văn Hoàng, Nguyễn Văn Thân, Nguyễn Văn Đồng, Võ Văn Tiến, Nguyễn Văn Thảo, Ba Nam, Nguyễn Văn Tiến và Võ Văn Tiềm cùng một đại đội bộ đội huyện.

[149] Hồi ký của đồng chí Nguyễn Văn Thông, chưa xuất bản.

[150] Chiến đoàn 43 túc trực ở Biên Hòa, Tân Bắc, Trà Cổ. Cụm pháo Suối Đỉa có 18 khẩu và 1 chiến đoàn xe bọc thép. 1 liên đoàn biệt động quân đóng ở ấp Thanh Hóa. 1 tiểu đoàn bảo an đóng ở quận Đức Tu (phường Tam Hiệp bây giờ), 1 cụm pháo ở ga Long Lạc. 5 trung đội dân vệ cơ động trên địa bàn xã Hố Nai[150]. Xã này có cuộc cảnh sát 12 tên, 1 trung đội cảnh sát dã chiến 20 tên, 1 đoàn bình định nông thôn.

 

[151] Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Thống Nhất, tr. 147, 148, nxb Đồng Nai, 1995  

[152] Tháng 2/1973, cô Thúy Lan bắn chết trung tá Điềm chỉ huy chiến đoàn 43 tại Bắc Hoà. Tháng 3/1973, ba lần cảnh sát đi bắt lính ở ấp Bùi Chu; dân đánh trống và gõ thùng thiếc kêu gọi ông bà già, đàn bà trẻ em vác gậy gộc chặn bọn cảnh sát. Tháng 4/1973, cảnh sát vừa vào ấp, bà con khua thùng, la lớn cướp! cướp!, huy động dân ra cản đầu xe. Anh em phòng vệ dân sự nố súng chỉ thiên làm bọn cảnh sát rút lui. Ở ấp Bắc Hoà, chị em co kéo vật lộn không cho cảnh sát bắt chồng, con, em họ đi lính. Phòng vệ dân sự dựng vật chướng ngại ngoài ấp không cho địch ứng cứu khiến chúng phải bỏ về. Ngày 13/6, sau nhiều trận pháo nã vào Đồng Lách, Sông Mây, Bắc Hoà, cơ sở ta ngầm vận động bà con giáo dân kéo lên gặp linh mục, trước sức ép của dân, vị chủ chăn đi gặp tỉnh trưởng Biên Hoà yêu cầu can thiệp. Kết quả: địch ngưng bắn pháo để dân tự do đi ruộng rẫy trồng tỉa. Ngày 2/8, anh Mãn bị cảnh sát bắn chết, chúng vu anh chống chính quyền. Đồng bào khiêng xác anh đến nhà trưởng ấp tố cáo tội ác của giặc và đòi bồi thường. Bà con giáo dân ấp Tân Bắc kéo đến hỗ trợ, đề nghị linh mục Lạc can thiệp. Bọn cảnh sát chấp nhận bồi thường, đồng bào ra về thành đoàn vừa đi vừa hô vang: Đả đảo bọn giết người!

[153] Lúc đó gồm các xã: Hố Nai, Trảng Bom 1, Trảng Bom 2, Bàu Hàm 1, Bàu Hàm 2, Cây Gáo, Hưng Lộc, Gia Kiệm, Gia Tân, Võ Dõng, Túc Trưng.

[154] Ngày 11/5/1974 tên Minh là phó cuộc cảnh sát xã Bàu Hàm 1 cho cảnh sát tới nhà anh Sang định làm tiền. Anh đã đưa 1500 đồng, nay không có tiền, hẹn y bữa khác. Bọn cảnh sát bắn dọa, anh hoảng sợ bỏ chạy bị chúng bắn chết.  Chi bộ lộ chỉ đạo cơ sở vận động hơn 500 đồng bào kéo đến bao vây hội đồng xã và cuộc cảnh sát. Quần chúng hô vang các khẩu hiệu đầy căm phẫn làm số tề vệ chạy trốn vào đồn dân vệ …

[155] Địch ở Định Quán có 7 đại đội bảo an, 18 trung đội dân vệ, 3 cụm pháo yểm trợ đóng ở 20 đồn bót và một số chốt dã ngoại. Chúng lập 4 cuộc cảnh sát và một số phân chi khu quân sự.

[156] Anh em đột nhập ấp diệt ác ôn, kết hợp binh vận, cô lập được viên đại úy Em chỉ huy đại đội trinh sát vừa thay cho đại đội bảo an. Tháng 3/1973, nhờ cơ sở ta thông báo tin tức, du kích xã 125 có bộ đội huyện và đơn vị J.90 quân khu hỗ trợ đã đánh đồn 125. Pháo từ Đạ Hoai bắn về từ ấp Trà Cổ đến chùa Cao Đài có tính huỷ diệt. Chi bộ kịp thời vận động đông đảo quần chúng kéo tới đồn phản đối việc bắn pháo gây thiệt hại cho mạng sống và tài sản của dân. Ba ngày sau, ta lại đánh đồn này.

[157] Du kích xã cùng bộ đội huyện tập kích đại đội bảo an đóng dã ngoại, diệt 7 tên, làm bị thương 5 tên thu một số vũ khí. Ngày 3/4, bộ đội huyện và du kích đắp mô trên quốc lộ 20, sau đó đánh 1 trung đội dân vệ đi giải tỏa, diệt 6 tên, làm bị thương 3 tên, cắt giao thông 5 giờ liền. Đêm 8/4, đội an ninh vũ trang huyện diệt 3 tên ác ôn ở ấp 125, trong đó có tên đại úy  đại đội trưởng đại đội 972 bảo an. Ngày 11/4, ta phục kích đánh giao thông diệt 1 trung úy, 1 chuẩn úy, 1 cảnh sát.

 

[158] Ngày 16/5/1974, du kích ấp Nam Hà phối hợp với trinh sát huyện đội tiến công đại đội thám sát 133 đóng ở ấp Nam Hà. diệt 76 tên, bắt sống 3 tên, thu vũ khí và quân trang, quân dụng. Bên ta, 5 đồng chí hi sinh.Trên quốc lộ 1, du kích và một bộ phận bộ đội huyện bắn sập, diệt 2 tua ở Bình Phú, giải tán hai khu địch tập trung dân. Hoạt động du kích ở Bảo Liệt, Suối Cát, Bình Phú … mạnh lên, ta qua lại quốc lộ 1 dễ dàng.Rạng sáng 23/5, du kích Bảo Bình và bộ đội huyện K.8 cùng một phần trung đoàn 4 đánh vây ép ấp Bảo Bình 3, đồi Mặt trăng. Liên tục 1 tuần, hai tiểu đoàn bảo an 342, 368 cùng 2 đại đội 355, 358 của tiểu khu Long Khánh giải tỏa Bảo Bình. Trong nửa tháng chiến đấu, ta đánh lui nhiều đợt tăng viện, giải phóng ấp Bảo Bình 3 và điểm cao đồi Mặt trăng, tiêu hao nặng 2 tiểu đoàn địch.

 

[159] Ngày 1/11/1974, hai chiến sĩ trinh sát vũ trang Long Khánh là Hồ Thị Hương và Nguyễn Thị Thọ đánh quán ăn Hoàng Diệu làm chết và bị thương 33 tên địch trong đó có nhiều sĩ quan. Mấy ngày sau, đồng chí Hương và ba đồng chí khác đánh tiếp quán Ngọc Hương diệt thêm một số. Có lần chị vừa đặt mìn xong ở quán ăn Yến Lan thì bọn cảnh sát giải tán hết, chỉ còn vài người dân và lính trơn. Chị lập tức mang trái mìn đã điểm hỏa đánh một lô cốt, diệt 1 tên địch. Ngày 2/1/1975, chiến sĩ biệt động thị xã Long Khánh là Nguyễn Phú Huynh (bí số ĐF 66) mới 16 tuổi, đi chợ mua thức ăn thấy cảnh sát tụ tập đông ở một quán giải khát, anh liền về nhà lấy lựu đạn, ném vô quán diệt 1 cảnh sát và làm bị thương nhiều tên. 11 giờ đêm, Huynh diệt 1 dân vệ, thu 1 súng trên đường Hồng Thập tự. 8 giờ sáng hôm sau, anh gặp đám lính bảo an đang bàn bạc cùng tên trưởng ấp Cang, anh ném 1 trái lựu đạn diệt 7 tên và một số bị thương. Đêm 29/1/1975, hai đồng chí Hồ Thị Hương và Nguyễn Thị Thận  nhận nhiệm vụ đánh quán ăn Song Nga - chủ quán làmột tên an ninh quân đội ranh ma. Mìn đặt xong thì lính tráng đi hết. Hai chị quay lại xách túi mìn về, định tới chỗ vắng vẻ sẽ rút bỏ kíp. Nhưng chiếc xe đạp chở hai người đi ngang đường rầy xe lửa đã kích nổ trái mìn, đồng chí Hương hi sinh, đồng chí Thận bị thương nặng sa vào tay địch. Địch mang xác Hương về đồn hòng uy hiếp tinh thần nhân dân, mặt khác bắt và đánh cha chị tàn nhẫn. Đồng bào tụ tập rất đông phản đối, trước khí thế quần chúng địch phải thả ông. Đồng bào mang thi hài chị về an táng chu đáo.

[160] Tại đây chúng có:

- Sân bay Biên Hoà có 407 máy bay các loại (gồm 136 máy bay F.5 và A.37). Bộ Tư lệnh sư đoàn 3 không quân, không đoàn 23 kỹ thuật và tiếp vận, trường thực hành lái và xưởng sửa chữa máy bay quan trọng. Có 80 cố vấn chuyên viên kỹ thuật Mỹ.

- Tổng kho Long Bình được Mỹ chuyển giao toàn bộ cho quân đội Sài Gòn. Địch đặt sở chỉ huy sư 18, sở chỉ huy hai liên đoàn biệt động quân 33 và 38, sở chỉ huy liên đoàn biệt kých dù 81, bộ Tư lệnh lữ 3 kị binh và thiết đoàn 22. Căn cứ thiết đoàn 15 ở hóc Bà Thức, thiết đoàn 18 ở Hố Nai.

- Ở tỉnh lỵ, có bộ Tư lệnh quân đoàn 3 và vùng 3 chiến thuật, bộ Tư lệnh hải quân vùng 3 ở đầu cầu Đồng Nai, hậu cứ lữ dù 5,  tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến 7 ở Tam Hiệp, tiểu đoàn quân cảnh, tiểu đoàn cảnh sát dã chiến ở nội ô. Lãnh sự quán Mỹ và sở chỉ huy tình báo CIA hỗn hợp Việt – Mỹ ở khu 1 xã Bình Trước (nay là trụ sở Thành Đoàn và Liên đoàn lao động tp. Biên Hoà). Địch cử các sĩ quan đảm nhận chức trách ở các khu nội ô và xã Bình Trước. Ở các xã ven (Tam Hiệp, Hiệp Hoà, Tân Thành, Bửu Long …) các trưởng cuộc cảnh sát, phân chi khu trưởng đều là sĩ quan cấp úy; có thể nói bộ máy hành chính cơ sở đã quân sự hóa cao độ. Cũng như các nơi, viên chức chính quyền đều phải vào đảng Dân chủ của Thiệu. Mạng lưới tình báo chỉ điểm giăng khắp nơi. Tại khu kỹ nghệ Biên Hoà, mỗi nhà máy, xí nghiệp đều có vài tên công an - dưới vỏ bọc gác dan - theo dõi phong trào công nhân. Tại khu vực tỉnh lỵ Biên Hoà, thường xuyên co mặt 50.000 tên thuộc các lực lượng khác nhau.

[161] Đồng chí Hai Não ở Tân Vạn; đồng chí Ba Thiệp ở ấp Vĩnh Cửu; đồng chí Bảy Nga ở Bửu Hoà; đồng chí Tám Huệ phụ trách chi bộ chợ Biên Hoà; đồng chí Trần Trọng Thanh ở ấp Tân Bản (Bửu Hoà)

[162] Do các đồng chí Ba Thiệp, Năm Tuyền, Tuyết, Nguyệt, Xuyến, Hoa, Cát Thảo lãnh đạo.

[163] Lõm ở xóm đình An Hảo có 28 gia đình, lõm ấp Bình Đa có 15 gia đình, lõm ấp Vĩnh Cửu có 40 gia đình, lõm ấp Lân Thành có 20 gia đình, lõm xã Bửu Long có 20 gia đình, lõm xã Tân Vạn có 10 gia đình, lõm ấp Tân Bản có 30 gia đình, lõm khu 2 có 10 gia đình, lõm ấp Núi Đất có 23 gia đình, lõm ấp Bình Xương có 10 gia đình, lõm ấp Bình Quan có 20 gia đình, lõm ấp Bình Kính có 10 gia đình.     

[164] Lịch sử Đảng bộ thành phố Biên Hoà, tr. 298, nxb Đồng Nai, 1999

[165] Tháng 1/1974, hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở khu kỹ nghệ Biên Hoà: Cogido, Cogivina, Vinaplyco, Vidico,Vicaco, Sadakim, hãng vỏ xe … đều đồng loạt yêu cầu chủ trả lương tháng thứ 13 cho thợ ăn Tết. Ở Tân Vạn, cơ sở ta vận động anh chị em làm trong các lò gạch đòi chủ cho mượn tiền ăn Tết; kết quả mỗi người được vay 4000 đồng và được cho 2000 đồng. Những người có ghe máy chở cát mướn đòi tăng tiền công vì xăng nhớt lên giá cũng được chủ vựa cát tăng 100 đồng mỗi chuyến. Cơ sở ta ở nhà máy cán thép Vicasa khơi gợi hướng dẫn 235 công nhân đấu tranh liên tục từ tháng 2 đến tháng 4/1974, hoặc cử đại biểu, hoặc theo tổ nhóm trực tiếp gặp chủ nhà máy đòi tăng lương từ 350 đồng/ngày lên 400 đồng/ngày; thợ bậc cao thì từ 400 đồng lên 500 đồng/ngày. Cuộc đấu tranh kéo dài, rút cục chủ phải nâng lương cho thợ kể từ tháng 7/1974.

Tháng 5/1974, hơn 1000 chị em tiểu thương chợ Biên Hoà đấu tranh không cho địch buộc dời điểm mua bán. Ngày 24/9/1974, chi bộ xã Bửu Long lãnh đạo cuộc đấu tranh của 950 chủ xe lam thuộc các phân bộ Châu Thành, Tam Hiệp, Bùi Tiếng, Hố Nai, Công Thanh, Tân Uyên, Long Thành, Chợ Đồn, Tân Vạn phản đối tòa hành chính tỉnh cho ra thêm 150 xe mới làm giảm thu nhập, trong lúc vật giá leo thang, xăng nhớt tăng giá, tiền xét xe 2 lần/năm hết 10 ngàn đồng, thuế lưu hành 4000 đồng, thuế môn bài cũng tăng … người lao động khó kiếm sống.

[166] Lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Đồng Nai, tr. 377-378-379.

[167] Ta loại khỏi vòng chiến đấu 2300 tên địch, diệt 1 tiểu đoàn bảo an và 3 đại đội, hạ 48 đồn bót có 1 chi khu, giải phóng huyện Tánh Linh và 4 xã huyện Hoài Đức với trên 40.000 dân, kỳm chân sư 18 quân đội Sài Gòn ớ phía Đông, hỗ trợ mặt trận đường 14. Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam bộ, tr. 516.

[168] Họp từ ngày 31/12/1974 đến ngày 7/1/1975

[169] Gồm sư 18, lữ dù 1, liên đoàn biệt động quân 7, lữ 3 thiết giáp,các thiết đoàn 315, 318, 320 …

[170] Lực lượng tham gia chiến dịch gồm quân đoàn 4 (có sư đoàn 1, sư đoàn 6, sư đoàn 7, trung đoàn độc lập 95B), trung đoàn 5 quân khu miền Đông, các lực lượng võ trang tỉnh Bà Rịa - Long Khánh. Tư lệnh là đồng chí Bùi Cát Vũ, đồng chí Nguyễn Văn Trung làm chính ủy, các phó Tư lệnh là Lê Văn Ngọc và Phạm Lạc.

[171] Bom này đốt cháy hết ôxi trong một vòng tròn bán kính hàng trăm mét, có sức nóng lớn, mặt khác gây chết ngạt. Mỹ sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường Long Khánh.

[172] Thường vụ Khu ủy phân công: đồng chí Lê Đình Nhơn, phó Bí thư Khu uỷ; Lê Văn Ngọc, Tư lệnh quân khu; Nguyễn Việt Hoa, Phó Tư lệnh quân khu; Huỳnh Việt Thắng, trưởng ban an ninh khu trực tiếp chỉ đạo giải phóng thành phố Biên Hòa. 

[173] Đồng chí Lê Thị Não làm chủ tịch Ủy ban khởi nghiã xã Bửu Hòa; đồng chí Phạm Văn Tốt làm chủ tịch UBKN xã Tân Vạn; đồng chí Hồ Văn Thiệp làm chủ tịch UBKN xã Tam Hiệp; đồng chí Võ Thị Huệ, chủ tịch UBKN xã Bình Trước; đồng chí Ba Xuân, chủ tịch UBKN xã Hiệp Hòa; đồng chí  Huỳnh Thị Liên, chủ tịch UBKN ấp Núi Đất; đồng chí Phạm Văn Lương, chủ tịch UBKN xã Bửu Long; đồng chí Cao Văn Bửng, chủ tịch UBKN xã Tân Thành;  đồng chí Tôn Văn Điểu, chủ tịch UBKN ấp An Hảo …

[174] Lúc này để chuẩn bị giải phóng thành phố, thực lực ta có 31 đảng viên, 600 cơ sở nòng cốt, nắm 9 đội phòng vệ dân sự trang bị 300 súng, phân bố đều khắp. Theo kế hoạch, đến ngày 20/4 ta đã lập xong 15 Uỷ ban khởi nghĩa.

[175] 1- Đồng chí Lê Đình Nhơn, phó bí thư Khu uỷ, chủ tịch UBQQ;  2- đồng chí Phan Văn Trang, bí thư  Thành ủy Biên Hòa, phó chủ tịch; 3- đồng chí Nguyễn Việt Hoa, Phó Tư lệnh quân khu miền đông, phó chủ tịch; 4- đồng chí Trần Quí Tư, ủy viên ban An ninh khu, ủy viên; 5- đồng chí Nguyễn Hồng Kỳ, phó bí thư Thành ủy, ủy viên.

[176] Chủ tịch Ủy ban quân quản thành phố Biên Hoà: Lê Đình Nhơn

Chủ tịch Ủy ban quân quản tỉnh Biên Hòa: Võ Văn Lượng

Chủ tịch Ủy ban quân quản tỉnh Bà Rịa - Long Khánh: Lê Thành Ba.

Chủ tịch Ủy ban quân quản tỉnh Tân Phú: Võ Tấn Vịnh.

Chủ tịch Ủy ban quân quản thành phố Vũng Tàu: Phạm Văn Hy.

[177] Năm 1976 Trung ương phải chi viện cho Đồng Nai 35.000 tấn lương thực để đảm bảo cung cấp cho nhân dân.

[178] Tổ chức phản động “Mặt trận quốc gia Việt Nam” do Phan Huy Quát, nguyên thủ tướng ngụy Sài Gòn cầm đầu đã bị đập tan. Nhóm tàn quân với danh xưng “Bộ chỉ huy lực lượng dân quân võ trang phục quốc” do Trần Học Hiệu cầm đầu bị phá vỡ. Hiệu và nhiều đồng bọn bị đưa ra xét xử trước Tòa án nhân dân.

[179] Nghị quyết 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá III). Tài liệu lưu Phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng Đồng Nai.

[180] Mỗi đoàn đại biểu gồm 25 thành viên. Đoàn miền Bắc do đồng chí Trường Chinh làm trưởng đoàn. Đoàn đại biểu miền Nam do đồng chí Phạm Hùng làm trưởng đoàn.

[181] Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm các đồng chí: Lê Quang Chữ, Phạm Văn Hy, Nguyễn Văn Trung, Lê Quang Thành, Lê Minh Hà, Nguyễn Văn Hoà, Nguyễn Đăng Mai, Nguyễn Hoàng Vân, Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Phan Văn Trang, Lê Minh Nguyện, Lê Thành Ba.

                Các tỉnh ủy viên: Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Thị Minh, Phan Đình Công, Võ Văn Vân, Nguyễn Hoàng Nam, Lê Văn Ngọc, Võ Văn Ấn, Nguyễn Hải, Nguyễn Văn Thông, Lê Đình Nghiệp, Hoàng Vĩnh Phú, Hồ Sĩ Hành, Vũ Hồng Phô, Lê Văn Việt, Trần Văn Thi, Thái Văn Thái, Nguyễn Lan, Nguyễn Văn Nghiệp, Nguyễn Văn Nguyên, Nguyễn Hoan, Lê Đức Sanh, Lê Tấn, Võ Văn Vịnh.

[182] Như xí nghiệp chế biến mì màu của nhà tư sản công giáo Nguyễn Đăng Roanh

[183] Văn kiện Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ V (năm 2000)

[184] Năm 1997, tám vị ở huyện Định Quán gồm: ông Chế Nhì hiến 2.100 m2 đất để xây trường tiểu học Phú Tân; các ông Trương Cử Hùng hiến 2.100 m2, Lộc A Sầu hiến 2.400 m2, Chu Ngọc Hải hiến 1400 m2, Hoàng Văn Thanh hiến 1.600m2 (cộng 7.500 m2) xây trường tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm ở xã Phú Tân; các ông Võ Văn Bằng, Nguyễn Văn Bàng tặng 4.400 m2 đất xây trường tiểu học Nguyễn Huệ ở ấp Suối Son xã Thanh Sơn; ông Hà Văn Bẩy hiến 1.500 m2 làm trường tiểu học Thanh Sơn.

 

[185] Trong kháng chiến chống Pháp, Mặt trận tổ chức tạm cấp ruộng đất cho dân, giảm thuế…Trong kháng chiến chống Mỹ, Mặt trận không chỉ tạm cấp ruộng đất, mà còn giúp đỡ cho dân giống, sức kéo, chiến đấu bảo vệ mùa màng, bảo vệ hoa lợi cho dân…

 
Về đầu