Ấn tượng
từ vũ điệu Tung tung da dá
Trên
con đường đến làng người Cơ Tu vượt qua nhiều dãy núi cao, chúng tôi được
bật mí rằng: Người Cơ Tu sẽ rất vui nếu bạn có thể chào bằng tiếng mẹ đẻ của
họ. Chúng tôi bắt đầu học những từ thông dụng nhất. Ai cũng phải nắm rõ các quy
định ở làng, như: Không tự ý đi lại trong làng, không vào nhà dân, không chụp
ảnh nếu chưa được phép của người dân. Không cho trẻ em tiền hoặc bất cứ vật gì
cho các cá nhân trong cộng đồng… Chị Cha Hiết Vân (29 tuổi) - thuyết minh viên
Điểm du lịch dựa vào cộng đồng Cơ Tu - Nam Giang nói, chính từ những điều mà du
khách cùng người làng hứa với nhau này, đồng bào nơi đây tin rằng bản làng vẫn
giữ nguyên nét đẹp hoang sơ cùng những con người đôn hậu nơi đây mà không bị
thay đổi bởi sự phát triển du lịch.
Bất
ngờ, khi vừa xuống xe chúng tôi được không ít người già chạy đến ôm lấy, thân
mật thăm hỏi “K’rơ ka” (bạn có khỏe không) như đón người thân ở xa mới về. Ở
cổng làng, những chàng trai, cô gái trong bộ trang phục truyền thống nở nụ cười
trong trẻo, hồn hậu cùng tiếng vỗ tay chào khách không ngớt. Sự thân thiện tỏa
khắp buôn làng. Cuộc sống thường ngày của người Cơ Tu dần hiện lên một cách tự
nhiên thật thú vị. Trước mắt chúng tôi hai người phụ nữ đang hì hục giã gạo. Xa
xa bóng dáng người đàn ông đang đan gùi. Già làng Zuông Noonh ngồi đan giỏ đựng
nước đi rừng trên mái nhà sàn nhỏ của mình cho biết: Người Cơ Tu đi làm nương
rẫy, họ ở lại trên núi cả tuần mới về, nhưng về nhà là họ lại ngồi đan gùi, giã
gạo, hay làm vườn, gần như không có thời gian nhàn rỗi.
Trưa,
các đoàn khách ghé thăm làng được dùng bữa với những món ngon của núi rừng với
cơm lam, bánh sừng trâu, za zá (món mặn được làm từ thịt rừng, ếch, chim, gà,
cá... trộn với măng, gia vị rồi cho vào ống nứa tươi trước khi đặt trên bếp
nướng) do chính những người dân trong làng chuẩn bị. “Khi có đoàn khách đến,
các công ty lữ hành gọi lên làng báo trước suất cơm, bà con sẽ chuẩn bị nấu nướng”
- chị Cha Hiết Vân cho biết.
Ấn
tượng với chúng tôi chính là khi những thiếu nữ, chàng trai người Cơ Tu diễn vũ
điệu Tung tung da dá (trong ảnh) trước khuôn viên nhà Gươl. Những đôi chân
trần, đôi tay hòa nhịp tiếng cồng chiêng với những điệu múa uyển chuyển. Theo
già làng Zuông Noonh, điệu múa Tung tung da dá gắn bó với cộng đồng bao đời nay
và xuất hiện trong tất cả sinh hoạt đời sống, lễ nghi của đồng bào Cơ Tu. Không
có một người Cơ Tu nào xa lạ với vũ điệu Tung tung da dá bởi nó đã thấm sâu vào
tiềm thức.
Những
“kho báu” đang được hồi sinh
Từ
cách đây sáu năm (2012), khi các cán bộ của Tổ chức Cứu trợ phát triển Nhật Bản
- FIDR (thực hiện dự án sử dụng ngân sách của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
- JICA), bắt tay vào việc tìm cách khôi phục nghề dệt thổ cẩm cườm của người Cơ
Tu, họ nhận ra ở xã Tà Bhing chỉ còn tám phụ nữ biết làm thổ cẩm. Vậy nhưng,
tới nay ở thôn Zơ Ra đã hình thành một hợp tác xã dệt thổ cẩm truyền thống, với
40 thợ dệt, và ăn nên làm ra. Trưởng nhóm dệt, chị Nguyễn Thị Kim Lan bộc bạch:
Việc đào tạo 40 thợ dệt không phải điều quá khó khăn. Nhưng để một công việc
truyền thống từng mai một nay sống lại ở một ngôi làng nghèo khó thì vấn đề
không phải chỉ là có những người phụ nữ biết dệt hay không. Công việc đó phải
giúp họ kiếm được tiền, phải trở thành động lực khiến họ tự nguyện theo đuổi để
cần mẫn tạo ra những sản phẩm có giá trị.
Làm
thế nào để sản phẩm thổ cẩm được dệt bởi bàn tay người phụ nữ Cơ Tu trở thành
những món quà có giá trị, được nhiều người biết đến? Năm 2015, một hợp tác xã
du lịch dựa vào cộng đồng Cơ Tu được thành lập ở xã Tà Bhing, với sự tham gia
của những nhóm cư dân tình nguyện ở các thôn làng. Với sự hỗ trợ đào tạo kỹ
thuật của các chuyên gia dự án, những thủ lĩnh buôn làng đã vận động gia đình
mình cùng làm du lịch với hợp tác xã. Mỗi thôn chịu trách nhiệm tạo nên một đặc
sản để biến cả địa bàn xã thành một tour du lịch khép kín. Thôn Pà Rồng trình
diễn những công việc mô tả sinh hoạt truyền thống của người Cơ Tu như đặt bẫy,
vót chông, đan dụng cụ đi rừng, giã gạo… Thôn Zơ Ra dệt thổ cẩm. Thôn Pà Xua
lập đội múa. Thôn Pà Ia cung cấp cho du khách những bữa ăn truyền thống, đậm đà
hương vị núi rừng. Và điều hành các hoạt động du lịch ở Tà Bhing là chàng trai
Cơ Tu 31 tuổi, Briu Thương - Chủ nhiệm hợp tác xã.
Nói
về người Cơ Tu làm du lịch, ông Nguyễn Văn Phi - Phó Trưởng phòng Văn hóa thông
tin huyện Nam Giang cho rằng: Người Cơ Tu ở Tà Bhing làm du lịch cộng đồng
không giống bất cứ địa phương nào. Tất cả người dân, các buôn làng trong xã đều
tham gia vào hoạt động du lịch. Tuy vậy, không hề có bất cứ sự cạnh tranh nào.
Briu Thương cho biết thêm: Ở Tà Bhing, người dân vẫn đi rẫy, đi rừng, vẫn làm
các công việc bình thường của mình. Nếu du khách lạc bước tới đây, họ sẽ thấy
nơi đây bình dị như bao buôn làng khác, không hàng quán, không dịch vụ. Người
dân chỉ trở thành hướng dẫn viên, thành người nấu ăn, diễn viên múa khi được
Hợp tác xã báo trước một tuần để thu xếp công việc.
Làm
du lịch cộng đồng đang giúp cuộc sống người Cơ Tu nơi dãy núi Trường Sơn nâng
cao chất lượng cuộc sống. Năm 2017, Hợp tác xã du lịch Tà Bhing đạt doanh thu
956 triệu đồng từ du lịch. 70% được chia cho người dân ở các làng tham gia cung
cấp dịch vụ. Số tiền đó có thể không nhiều so với các điểm du lịch nổi tiếng.
Song lại là một khoản thu nhập đáng kể với những người dân ở Tà Bhing. Và điều
quan trọng hơn, như chính người Cơ Tu nơi đây chia sẻ, du lịch cộng đồng giúp
họ tìm lại “kho báu” của dân tộc mình. Từ nghề đan lát, món ăn đặc trưng, điệu
múa của đồng bào đến nghề dệt thổ cẩm cườm đặc sắc từng bị mai một nay đang dần
được hồi sinh.
Nguồn
từ Báo Nhân Dân