Sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản thuận lợi và ổn định: Dự ước giá trị sản
xuất nông, lâm, thủy sản (giá so sánh
2010) 6 tháng năm 2023 đạt 23.849,6 tỷ đồng, tăng 3,65% so cùng kỳ. Trong
đó: Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 21.794,4 tỷ đồng, tăng 3,67% (trồng trọt tăng 1,59%; chăn nuôi tăng
4,75%). Giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 804,5 tỷ đồng, tăng 1,7%; Giá trị
sản xuất thủy sản đạt 1.250,8 tỷ đồng, tăng 4,47% so cùng kỳ. Công tác quản lý, bảo
vệ rừng được duy trì và tăng cường, công tác sử dụng và phát triển rừng;
phòng chống cháy rừng mùa khô 2022 - 2023 được tập trung triển khai thực hiện, từ đầu mùa khô đến nay trên
địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng.
Hoạt
động kinh doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển, so với cùng kỳ 6 tháng đầu năm 2022: Tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 14,29%; tổng lượt khách
đến tham quan và lưu trú (nội địa và quốc tế) tăng 24%, doanh thu dịch vụ du
lịch tăng 33,6%; doanh thu ngành vận tải tăng trên 31,54%. Chỉ số giá bình
quân 5 tháng tăng 2,77% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó 09 nhóm hàng hoá tăng giá, tăng cao nhất nhóm Giáo dục (+11,48%); có 02 nhóm chỉ
số giá giảm là giao thông giảm 3,95%; bưu chính viễn thông giảm 0,35%. Các nhóm
còn lại có mức tăng từ 0,31% đến 10,1%.
Kim
ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt trên 10,46 tỷ USD, giảm 18,99%
so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm so cùng
kỳ do tình hình kinh tế thế giới phục hồi chậm cùng với các chính sách thắt
chặt tiền tệ, sức mua tại các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc...
đều giảm khiến khối lượng đơn đặt hàng giảm; các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu
hụt đơn hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng không thiết
yếu như: Sản xuất đồ gỗ, giày da, hàng may mặc....Kim
ngạch nhập khẩu đạt trên 7,8 tỷ USD, giảm 22,87% so với cùng
kỳ. Giá trị xuất siêu trên địa bàn tỉnh đạt 2,65 tỷ USD.
Tổng thu ngân sách nhà nước, chi ngân sách địa
phương dự ước 6 tháng đầu năm so với dự toán giao cụ thể: Thu ngân
sách nhà nước
trên 28.801,7 tỷ đồng, đạt 47% so với dự toán và
bằng 81% so với cùng kỳ. Trong đó: Thu nội
địa là: 20.112,75 tỷ đồng, đạt 50% so với dự toán và bằng 87% so với cùng kỳ. (Nếu
loại trừ thu tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết thì thu nội địa là:
17.758,3 tỷ đồng, đạt 49% so với dự toán và bằng 93% so với cùng kỳ); thu xuất nhập khẩu là 8.689 tỷ đồng,
đạt 41% so với dự toán và bằng 70% so với cùng kỳ. Chi cân đối ngân sách địa phương là 7.132
tỷ đồng, đạt 28% so với dự toán và bằng 86% so với cùng kỳ, trong đó chi đầu tư
phát triển (chưa bao gồm chi chuyển nguồn từ năm trước chuyển sang) là 1.770 tỷ
đồng, đạt 18% so với dự toán và bằng 73% so với cùng kỳ; chi thường xuyên là
5.362 tỷ đồng, đạt 37% so với dự toán và bằng 91% so với cùng kỳ.
Tổng nguồn vốn huy động
của các tổ chức tín dụng trên địa bàn dự ước đạt 293.258 tỷ đồng,
tăng 1,92% so với đầu năm; tổng dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 356.359
tỷ đồng, tăng 6,97% so với đầu năm (nợ xấu ước chiếm 1,3% trên tổng dư nợ cho
vay), trong đó: Tổng dư nợ cho vay ước đạt 354.100 tỷ đồng, tăng 7,01% so đầu
năm, gồm: Dư nợ bằng đồng Việt Nam ước đạt 302.900 tỷ đồng, tăng 5,17% so đầu
năm; dư nợ bằng ngoại tệ ước đạt 51.200 tăng 19,38% so với đầu năm.
Công tác chỉ đạo giải
ngân vốn đầu tư công, thu hút đầu tư trong nước, nước ngoài, đăng ký doanh nghiệp và thành lập Hợp tác xã được chú trọng tập trung thực
hiện một số kết quả như sau:
+ Giải ngân kế hoạch đầu tư công năm 2023 (tính đến ngày 15/6/2023) là 1.807,46 tỷ đồng đạt 15,6% kế hoạch, trong đó: Vốn ngân sách trung ương giải ngân đạt 27,43% kế hoạch; vốn chương trình phục
hồi và phát triển kinh tế - xã hội giải ngân
đạt 1,4% kế hoạch; vốn ngân sách địa phương giải ngân đạt 18,43% kế hoạch (Ngân sách tỉnh giải ngân đạt 16,85% kế
hoạch; Ngân sách huyện đạt 20,71% kế hoạch). Riêng nguồn bội chi (trái
phiếu chính quyền địa phương) 1.000 tỷ đồng, Tỉnh đang khẩn trương xây dựng đề
án sơ bộ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương trình Hội đồng nhân dân
tỉnh thông qua để trình Bộ Tài chính phê duyệt đề án làm cơ sở phát hành trái
phiếu chính quyền địa phương từ nguồn Bội chi năm 2023 để tạo nguồn vốn đầu tư
các công trình trọng điểm của tỉnh.
+ Thu hút đầu tư trong nước tính từ đầu năm đến ngày 20/6/2023
(chưa bao gồm các dự án trúng
đấu giá, đầu thầu) khoảng 2.288,197 tỷ đồng, gấp 4,18 lần so với cùng kỳ năm
2022 (cùng kỳ năm 2022 đạt 546,604 tỷ đồng). Trong đó: cấp mới 13 dự án với
tổng vốn đăng ký là 1.538,632 tỷ đồng. Lũy kế đến ngày 15/6/2023, số dự án còn
hiệu lực là 1.088 dự án với số vốn hơn 310.266 tỷ đồng.
+ Đến ngày 20/6/2023, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) đạt khoảng 623,21 triệu USD, tăng gần 02 lần so
với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2022 đạt 321,34 triệu USD), trong đó: cấp mới 33 dự án
với tổng vốn đăng ký 108,77 triệu USD (so với cùng kỳ năm 2022, tăng 10% về vốn
đăng ký cấp mới) và 44 dự án tăng vốn với tổng vốn bổ sung 514,45 triệu USD (so
với cùng kỳ năm 2022, tăng hơn 02 lần về vốn bổ sung). Lũy kế đến ngày 15/6/2023,
số dự án còn hiệu lực là 1.588 dự án với số vốn 33,81 tỷ USD.
+ Tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh
nghiệp và bổ sung tăng vốn đến ngày 15/6/2023 là: 24.791,4 tỷ đồng, bằng
66,11% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 là 37.499,6 tỷ đồng). Trong
đó, có 1.743 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký khoảng
11.546,2 tỷ đồng và 598 doanh nghiệp đăng ký tăng vốn với số vốn bổ sung khoảng
13.245,2 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm 2022, bằng 80,7% về số lượng doanh nghiệp
thành lập mới và bằng 91,7% về số vốn thành lập mới.
+ Thành lập mới 11 HTX với
số vốn đăng ký là 36,9 tỷ đồng, lĩnh vực đăng ký hoạt động chủ yếu là nông
nghiệp, Vận tải, Vệ sinh môi trường, Thương mại – Dịch vụ. Lũy kế đến ngày
15/6/2023, toàn tỉnh có 484 HTX, Quỹ tín dụng nhân dân và Liên hiệp HTX; trong
đó: có 204 HTX nông nghiệp và 01 Liên hiệp HTX, 244 HTX phi nông nghiệp và 35
Quỹ tín dụng nhân dân (TDND).
Tổng vốn đầu tư xã
hội trên địa bàn tỉnh đạt 50.152,23 tỷ đồng, tăng 10,3% so cùng kỳ, đạt 43,23%
kế hoạch. Trong đó: vốn khu vực nhà nước đạt 5.300,42 tỷ đồng, tăng 17,74%; vốn
khu vực ngoài nhà nước đạt 22.532,57 tỷ đồng, tăng 7,84%; vốn khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 22.319,22 tỷ đồng, tăng 11,19% so cùng kỳ.
Công tác đảm bảo an sinh
xã hội được quan tâm, thực hiện kịp thời, 6 tháng đầu năm tỉnh đã giải quyết việc làm cho trên 40,4 ngàn người; hỗ trợ kết
nối việc làm cho cho khoảng 3.000 người lao động lao động thỏa thuận chấm
dứt hợp đồng lao động tại Công
ty TNHH Taekwang MTC; Công ty Hwaseung vina; Công ty TNHH
Pousung Việt Nam, Công ty TNHH Pou Phong Việt Nam; tư vấn giới thiệu việc làm cho số lao động thất nghiệp trên 29,3 ngàn người; chi trên 821,8 tỷ đồng trợ cấp thất nghiệp và hỗ trợ học nghề; hỗ trợ học nghề cho 418 người; chi hơn 14,97 tỷ đồng chăm lo, hỗ trợ cho 463 lao động hưởng chính sách hỗ trợ bị chấm dứt hợp đồng
lao động và 9.528 lao động
hưởng chính sách hỗ trợ tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động; hỗ trợ cho 1093 hộ nghèo,
hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay mới với số tiền trên 64
tỷ đồng.
Về cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; chuyển đổi số được đẩy mạnh thực hiện ở tất cả các các
ngành, các lĩnh vực, địa phương nhất là Đề án 06 và
xây dựng, triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia; đối với cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh, trong năm
2022, chỉ số PCI của Đồng Nai đạt 65,67 điểm, xếp hạng 29/63 tỉnh thành, xếp hạng
khá; chỉ số
PAPI đứng ở nhóm tỉnh có chỉ số trung bình thấp với tổng điểm đạt được là 41,26; chỉ số
PAR Index đứng ở vị trí 51/63 tỉnh, thành phố.
Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững; công tác đối ngoại được triển khai chủ động, tích cực và hiệu quả.
Thông tin, truyền thông được tăng cường, nhất là truyền thông các chính sách
của Trung ương và của Tỉnh về hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, đời sống
người dân trên địa bàn tỉnh; chú trọng đấu tranh phản bác, ngăn chặn thông tin
xấu, độc và xử nghiêm các sai phạm.
Hà Phương