Dưới tác động chính sách thống trị của thực dân
Pháp và một số yếu tố khác làm cho xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc, các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp nổ
ra liên tiếp từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX nhưng
lần lượt bị thất bại vì thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức vững mạnh, thiếu
lực lượng tiên phong. Điều đó được lãnh tụ Hồ Chí Minh kết luận: “Từ ngày bị đế
quốc xâm chiếm, nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta
bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng,
tình hình đen tối như không có đường ra”.
Trong bối cảnh đó, Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc đã không đi theo con đường
cứu nước của các vị tiền bối vì nhận thấy ở đó còn những
hạn chế. Người tìm
hiểu một số cuộc cách mạng tư sản, nhất là Đại cách mạng Pháp năm 1789 với bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền và khẩu hiệu “Tự
do, bình đẳng, bác ái” nổi tiếng; cách mạng Bắc Mỹ với Tuyên ngôn độc lập
năm 1776 tuyên bố về quyền con người thiêng liêng bất khả xâm phạm, nhưng nhận
thấy ở đó “vẫn còn áp bức bất công”,
không thể đáp ứng yêu cầu của
dân tộc Việt Nam. Cuối cùng, Người tìm được và quyết định đưa dân tộc Việt Nam
đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 của Lênin - Lãnh tụ của giai cấp vô
sản thế giới - người kế thừa và phát triển di sản vĩ đại của Mác - Ănghen.
Qua thời gian chuẩn bị về
tư tưởng, lý luận, tổ chức và cán bộ, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội
nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2/1930 tại Cửu
Long - Hương Cảng - Trung Quốc; thông qua Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Người soạn
thảo, vạch ra những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam. Trong đó, có những nội dung về yêu cầu tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là cơ sở quan
trọng để sau đó Đảng ta xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
Giữa lúc cao
trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ
- Tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày 18-11-1930, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh
- hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam. Chỉ thị xác định Hội phản đế đồng minh phải bảo đảm
tính công nông, đồng thời phải mở rộng tới các thành phần trong dân tộc để Mặt
trận thực sự là của toàn dân và nhấn mạnh: “giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách
mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một
lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”.
Hội Phản đế Đồng minh là
hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực
tiễn cách mạng của Đảng
ta.
Đó cũng là cống hiến vĩ đại về lý luận
và thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc là thành quả của kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước, chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đủ trưởng thành, đủ sức
gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng.
Từ đó tới nay, tuy
có những hình thức và tên gọi khách
nhau cho phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ
cách mạng, nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam luôn là nơi tập hợp các
giai tầng xã hội vì mục tiêu lớn của dân tộc.
Mặt trận Dân
tộc Thống nhất Việt Nam – Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã trãi qua quá trình hình
thành và phát triển theo lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, cụ thể:
A. Thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền cách mạng (1930 – 1945)
1. Hội
phản đế đồng minh (11/1930-3/1935)
Ngày 18/11/1930
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ khi thành
lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Hội phản đế liên minh
(3/1935-10/1936)
Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất
của Đảng thông qua Nghị quyết về công tác Phản đế Liên minh. Nghị
quyết xác định các nhiệm vụ cần thiết trước mắt: lập tức tổ chức ra các Hội
Phản đế Liên minh, đảng viên phải vào Hội, mở rộng tổ chức Hội tới cấp toàn Đông
Dương, lôi kéo rộng rãi các tồ chức, cá nhân có tính chất phản đế phải liên kết
cuộc vận động Phản đế Liên minh vốn có những khẩu hiệu chung tuyên truyền lớn
lao với các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày. Phải ra báo và tài liệu
riêng cho Phản đế liên minh; cần sửa đổi những sai sót về tôn chỉ, điều lệ, các
hình thức tổ chức Phản đế liên minh của các đảng bộ.
3. Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản
đế Đông Dương (10/1936-3/1938)
Những năm 1936 – 1939, tình hình thế
giới diễn biến mau lẹ, phức tạp. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện, nguy cơ chiến
tranh thế giới đang đến gần. Sau khi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7 trở
về, Đoàn đại biểu Đảng ta cùng với Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị (tháng
11/1936) xác định mục tiêu chủ yếu và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam
lúc này là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát
xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Đảng quyết định
tạm thời chưa nêu khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ giành độc
lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày” đồng thời chủ trương thành lập Mặt
trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương tập hợp các lực lượng toàn Đông Dương vào cuộc đấu tranh chống đế quốc.
4. Mặt trận Dân chủ Đông Dương
(3/1938-11/1940)
Để phù hợp với tình hình thực tế và
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng
3/1938 quyết định đổi tên thành Mặt
trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Nhờ có
chính sách Mặt trận đúng đắn, có phương pháp vận động khôn khéo, phương pháp
đấu tranh linh hoạt nên Mặt trận đã tập hợp, đoàn kết rộng rãi các giai tầng xã
hội như công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ tư sản nhỏ, đồng thời còn
bắt tay với các đảng phái cải lương, kể cả những người Pháp tiến bộ ở Đông
Dương nhằm chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa
bình.
5. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản
đế (11/1940-5/1941)
Ngày 01/9/1939 Chiến tranh thế giới
lần thứ II bùng nổ, tháng 9/1940 phát xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp
thoả hiệp với phát xít Nhật, thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ chống chiến
tranh của nhân dân ta. Tháng 11/1940 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ
trương thành lập Mặt trận Dân tộc Thống
nhất Phản đế, nhằm tập hợp hết thảy những lực lượng phản đế, phản phong
kiến ở Đông Dương đánh đổ đế quốc Pháp – phát xít Nhật và bè lũ tay sai phản
lại quyền lợi dân tộc. Nhờ những chủ trương đúng đắn đó, các tổ chức phản đế
nhanh chóng được phát triển, Mặt trận được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân.
6. Mặt trận Việt Minh (thành lập từ
tháng 5/1941)
Nhận thấy sự chuyển biến của tình
hình thế giới và trong nước có lợi cho cách mạng Việt Nam, ngày 28/01/1941
Nguyễn Ái Quốc về nước (sau hơn 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài) Tháng
5/1941 Người triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám. Hội nghị nhận
định: Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc giải phóng, trước mắt tạm gác
khẩu hiệu “cách mạng thổ địa” để lôi kéo địa chủ tiến bộ, mở rộng Mặt trận Dân
tộc Thống nhất chống Pháp, Nhật nhằm giải quyết nhiệm vụ sống còn của dân tộc
lúc này là giải phóng dân tộc. Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc
theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh,
gọi tắt là Mặt trận Việt Minh bao
gồm các hội cứu quốc của các tầng lớp Nhân dân.
Tháng 10/1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn,
Chương trình và Điều lệ. Đây là lần đầu tiên một Mặt trận Dân tộc Thống nhất
trình bày công khai đường lối, chính sách, phương pháp tiến hành và tổ chức lực
lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu nước của mình. Ngày 07/5/1944, Tổng
bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa. Tháng 10/1944 Bác Hồ có thư kêu
gọi đồng bào ra sức chuẩn bị để họp toàn quốc Đại hội, đại biểu cho tất cả các
đảng phái cách mệnh và các đoàn thể trong nước để bầu cử ra “Một cơ cấu
đủ lực lượng và uy tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài
thì giao thiệp với các hữu bang”.
Ngày 22/12/1944 Bác Hồ ra chỉ thị
thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ngày 09/3/1945 Nhật lật đổ
Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Thực hiện Chỉ thị đó, một cao
trào cách mạng đã xuất hiện ở nhiều nơi; khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh
được thành lập. Tình hình chuyển biến mau lẹ, phát xít Đức đầu hàng Liên Xô và
các nước Đồng minh. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào dũng cảm tiến lên
dưới ngọn cờ của Việt Minh hãy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đại hội Quốc
dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 2 ngày 16 và 17/8/1945
đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản kiến nghị,
thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định Quốc
kỳ, Quốc ca. “Đại hội đã cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, sau này
trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” do lãnh tụ
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chỉ trong vòng 2 tuần lễ chính quyền địch hoàn toàn
sụp đổ, Ủy ban nhân dân lâm thời được thành lập khắp các địa phương trong cả
nước. Ngày 02/9/1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập
khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam).
B. Thời kỳ bảo vệ và phát triển
thành quả Cách mạng tháng Tám, tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược (1946 - 1975)
1. Mặt trận Việt Minh tăng cường
đoàn kết toàn dân góp phần bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công, chính quyền cách mạng đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù
trong giặc ngoài, nạn đói, nạn dốt. Để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ,
làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù và tay sai, nhiệm vụ củng cố và phát triển
Việt Minh được đề ra cụ thể; việc phát triển các tổ chức cứu quốc thống nhất
trong cả nước trở thành vấn đề cần kíp. Trước sự hoạt động ráo riết của các
loại kẻ thù, Đảng ta chuyển vào hoạt động bí mật; từ đó vai trò của Việt Minh
trong đời sống chính trị của đất nước ngày càng được đề cao, ngày càng thu nhận
thêm những thành viên mới, góp phần ngăn chặn và phân hóa hàng ngũ các đảng
phái chính trị phản động bám gót quân Tưởng, đồng thời tuyên truyền, vận động Nhân
dân tham gia các phong trào sản xuất cứu đói, tuần lễ vàng, hũ gạo tiết kiệm…
Nhờ những hoạt động có hiệu quả của Việt Minh, khối đại đoàn kết toàn dân thực
sự trở thành hậu thuẫn vững chắc chống thù trong giặc ngoài, đưa con thuyền
cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh nguy hiểm, bảo vệ được chính quyền, chủ
động chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đánh giá công lao to lớn của Việt
Minh, Tuyên ngôn của Đại hội toàn quốc Thống nhất Việt Minh – Liên Việt tháng
3/1951 nêu rõ: “Việt Minh có công lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân, chống quân cướp nước. Công đức ấy tất cả mọi người Việt Nam phải
ghi nhớ. Lịch sử của Việt Minh 10 năm đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc
cũng là những trang lịch sử vẻ vang vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam ta”.
2. Mặt trận Thống nhất Việt Minh –
Liên Việt (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt) đóng góp to lớn đưa cuộc kháng chiến
chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn
Để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp
cách mạng và sự phát triển của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, Bác Hồ và Trung
ương Đảng chủ trương vận động thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội
Liên Việt). Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 29/5/1946 Hội Liên hiệp Quốc dân
Việt Nam tuyên bố thành lập. Cương lĩnh của Hội chỉ rõ: “Mục đích đoàn kết
tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước vô đảng phái, không phân
biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam
độc lập – thống nhất – dân chủ – phú cường”. Việc thành lập Hội Liên Việt
là bước phát triển mới của Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
Thực hiện Lời kêu gọi “Toàn quốc
kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt đã
ra sức tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia kháng chiến. Mặt trận Việt Minh
và Hội Liên Việt ngày càng sát cánh bên nhau, đẩy mạnh mọi hoạt động, xây dựng
tổ chức, phát triển lực lượng nhằm mục tiêu chung là kháng chiến thắng lợi,
giành độc lập dân tộc. Việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt trở thành yêu cầu
khách quan của kháng chiến và sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta nhằm củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Ngày 03/3/1951, Đại hội toàn quốc
Mặt trận Thống nhất Việt Minh – Liên Việt lấy tên là Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi
tắt là Mặt trận Liên Việt)
được tiến hành. Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Đương (5/1951), tuyên
bố ra công khai với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam và lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Liên Việt đã thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ. Tăng cường đại đoàn kết toàn dân, vận động các giới đồng bào chấp
hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước, đập tan mọi hoạt động tàn bạo và
âm mưu thâm độc của kẻ thù, vận động Nhân dân thực hiện giảm tô, giảm tức, và
cải cách ruộng đất nhằm động viên khí thế cách mạng của nông dân, tăng cường
liên minh công nông, góp phần củng cố Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
Quá trình kháng chiến toàn dân, toàn
diện làm cho Mặt trận Dân tộc Thống nhất không ngừng lớn mạnh, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần, đưa cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền
Bắc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất
nước. Qua 9 năm kháng chiến, Mặt trận Liên Việt trở thành “… Một trong
những trụ cột của Nhà nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng
chiến, kiến quốc; là cơ sở quần chúng rộng rãi làm thành một áo giáp vững bền
của Đảng để đánh thắng bọn xâm lược và tay sai của chúng”.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng với Liên minh các lực lượng dân
tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng
Ngày 10/9/1955, Đại hội Mặt trận Dân
tộc Thống nhất họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
thông qua Cương lĩnh nhằm đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình
trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đã ra sức vận động các tầng lớp Nhân dân, tham gia khôi phục kinh tế
và phát triển văn hóa, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo và xây dựng miền
Bắc xã hội chủ nghĩa thực sự là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà.
Để Mặt trận không ngừng phát huy vai
trò, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm theo dõi và chỉ đạo
công tác Mặt trận. Tại lớp huấn luyện cán bộ Mặt trận (8/1962), Người chỉ
rõ: “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt
trận là công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”. Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III năm 1960 của Đảng nêu rõ: “Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn
giáo, các nhân sĩ yêu nước và tán thành chủ nghĩa xã hội, nhờ đó đã động viên
mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của dân tộc để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.
Từ
cao trào đấu tranh của Nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính
quyền tay sai Ngô Đình Diệm, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời
với bản Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm, nội dung cơ bản là đoàn
kết rộng rãi các tầng lớp Nhân dân với mục tiêu đấu tranh “Phải hòa bình! Phải
độc lập! Phải dân chủ! Phải cơm no, áo ấm! Phải hòa bình, thống nhất Tổ quốc!”
nhằm đánh đổ chế độ độc tài tay sai của đế quốc Mỹ. Trong quá trình hoạt động,
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã kịp thời đề ra nhiều chủ
trương, chính sách nhằm không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội
lần thứ I (3/1962) quyết định nhiều chính sách lớn về đối nội, đối ngoại như
vấn đề hòa bình, trung lập, dân tộc, ruộng đất, trí thức, tư sản, tôn giáo,
ngoại kiều và chính sách đối với binh lính và ngụy quyền miền Nam… tạo điều
kiện đoàn kết rộng rãi nhất, sẵn sàng bắt tay với những ai tán thành chống Mỹ,
cứu nước và thống nhất đất nước.
Ngày 20/4/1968, trong khí thế của
Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân
chủ và hoà bình Việt Nam ra đời với bản Cương lĩnh thích hợp nhằm đoàn kết,
tranh thủ thêm tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở thành thị nhưng chưa
tham gia Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngày 06/6/1969, Đại hội
đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam đã bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn.
Từ khi ra đời, Mặt trận đã làm một
phần chức năng của chính quyền dân chủ nhân dân. Sau khi có Chính phủ Cách mạng
lâm thời, Mặt trận giữ vai trò trụ cột và làm hậu thuẫn cho chính quyền cách
mạng, không ngừng đẩy mạnh hoạt động trên cả ba mặt quân sự, chính trị và ngoại
giao, tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975 giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
C. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới
- Từ ngày 31/01 đến 04/2/1977 tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam quyết định
hợp nhất 3 tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam,
lấy tên chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã thông qua chương trình
chính trị và điều lệ mới nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp Nhân dân, tăng
cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong Nhân dân, phát huy nhiệt tình
cách mạng và tinh thần làm chủ, động viên nhân dân hăng hái tham gia xây dựng
và củng cố chính quyền, xây dựng Hiến pháp chung của cả nước; tổ chức bầu cử
Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp, góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục thiên tai,
phát triển kinh tế…
Ngày 18/4/1983, Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khoá V) ra Chỉ thị số 17 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới” chỉ rõ: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn nhất, vừa có
tính chất liên hiệp rộng rãi, vừa có tính quần chúng sâu sắc. Mặt trận đại diện
cho quyền làm chủ của Nhân dân lao động, là sợi dây nối liền các tầng lớp xã
hội rộng rãi với Đảng, là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước”.
- Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
lần thứ II (từ 12 đến 14/5/1983) thông qua Chương trình hành động và ra lời kêu
gọi đồng bào chiến sĩ cả nước đoàn kết phấn đấu khắc phục khó khăn, vượt qua
thử thách, góp sức cùng với Đảng và Nhà nước tìm ra những giải pháp có hiệu quả
để đưa đất nước tiến lên.
- Đại hội Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ III (họp từ ngày 2 đến ngày 4/11/1988) là Đại hội
thực hiện công cuộc đổi mới do Đại hội VI (1986) của Đảng đề ra, là “sự biểu
dương lực lượng to lớn của toàn dân, đoàn kết một lòng tiến hành công cuộc đổi
mới”. Phương
hướng tăng cường và đổi mới công tác Mặt trận được Đại hội nêu ra là:
+ Mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân; mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về hoạt động và tổ chức nhằm
tập hợp mọi lực lượng, mọi khả năng, phấn đấu vì sự phồn vinh của đất nước, vì
hạnh phúc của Nhân dân.
+ Hướng hoạt động của Ủy ban Mặt
trận các cấp đi vào thực hiện một cách thiết thực các nhiệm vụ quan trọng và
cấp bách của đất nước, địa phương và đời sống của Nhân dân; tập trung vào việc
vận động Nhân dân tham gia xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng
chính quyền Nhân dân và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
+ Phát huy tinh thần chủ động sáng
tạo, tự lực vươn lên; ra sức khai thác mọi tiềm năng và các điều kiện thuận
lợi, khắc phục khó khăn, tự đổi mới và góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới
chung của đất nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” và xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể Nhân dân và của cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên,
vừa là người lãnh đạo Mặt trận”.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VII
của Đảng, Nhà nước đã đẩy mạnh việc thể chế hóa vai trò, vị trí trách nhiệm của
Mặt trận trên một số lĩnh vực hoạt động. Ngày 17/11/1993, Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết 07-NQ/TW về “Đại đoàn kết dân tộc và tăng
cường Mặt trận Dân tộc Thống nhất”, đề ra 4 chủ trương lớn, đồng thời là 4 quan
điểm cơ bản chỉ đạo quá trình tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc
và tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đại hội lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (họp từ ngày 17 đến 19/8/1994) đã đề ra phương hướng tiếp tục đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận nhằm làm tốt hơn nữa chức năng
đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng tán thành sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu
độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thực
hiện các nghị quyết Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng và chương trình Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam “Đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước”; kỳ họp thứ
5 Quốc hội khoá X năm 1999 đã thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tạo cơ
sở pháp lý quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có hiệu quả, mở
rộng về tổ chức và hoạt động, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,
phát huy vị trí, vai trò của Mặt trận trong đời sống chính trị – xã hội. Hội
nghị lần thứ 2 Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khóa IV) đã quyết
định mở Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”. Ngày 03/5/1995 Ban Thường trực Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra Thông tri 04 hướng dẫn thực hiện
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” (nay
là Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”).
- Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam lần thứ V (họp từ ngày 26 đến 28/8/1999) đánh dấu cột mốc quan trọng
trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân
tộc Thống nhất trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, là Đại hội phát huy
tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường Mặt trận Dân
tộc Thống nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10 năm 2000,
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động cuộc vận động
“Ngày vì người nghèo” trong phạm vi
toàn quốc, thể hiện chủ trương phù hợp
với lòng dân, ý Đảng, mang ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc.
- Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VI (họp từ ngày
21/9 đến 23/9/2004) là Đại hội “Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân
tộc, nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”.
Đại hội lần
thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
Nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng
rãi các tầng lớp Nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng
chính đáng của Nhân dân; đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chương
trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh thành hiện thực cuộc sống.
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể Nhân dân
thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
- Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VII được
tổ chức trong các ngày 28, 29 và 30/9/2009 tại Thủ đô Hà Nội. Chủ đề của Đại
hội là "Nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Đại hội đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và chương trình hành
động nhiệm kỳ 2009-2014 và chính thức phát động phong trào thi đua yêu nước
trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân lập thành tích chào mừng kỷ niệm 1.000 năm
Thăng Long - Hà Nội, 80 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam
và các ngày lễ lớn của đất nước. Đại hội đã ra lời kêu gọi các tầng lớp Nhân
dân ở trong nước và ở nước ngoài đoàn kết, đồng tâm hiệp lực cùng toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường,
đồng lòng chung sức thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh".
Trong nhiệm kỳ Đại hội, ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết
định 217-QĐ/TW về việc ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” và Quyết định
218-QĐ/TW về việc ban hành “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền”. Sau khi các Quyết định nêu trên được ban hành, Đoàn Chủ tịch, Ban
Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành, phối hợp và đề xuất
với các cơ quan chức năng ban hành nhiều văn bản quán triệt, triển khai thực
hiện giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
trong hệ thống MTTQ Việt Nam, như: Thông
tri số 28/TTr-MTTW-BTT ngày 17/4/2014 hướng dẫn thực hiện một số điều Quyết
định số 217,
Quyết định số 218; Kế hoạch
số 471/KH-MTTW-BTT ngày 17/4/2014 về triển khai thực hiện Quyết định số 217, Quyết định số 218 trong hệ
thống MTTQ Việt Nam. Đến nay, các hoạt động giám sát, phản biện xã hội và tham
gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền của MTTQ Việt Nam từng bước đi vào nề nếp.
MTTQ Việt Nam các cấp đã tích cực bám sát chương trình, kế hoạch của cấp ủy, chính
quyền các cấp và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, chính
quyền của địa phương, những vấn đề xã hội và nhân dân quan tâm, bức xúc để giám
sát, phản biện xã hội hàng năm. Góp ý thường xuyên, định kỳ, đột xuất được quan
tâm hơn; gắn giám sát, phản biện xã hội với nhiệm vụ lắng nghe ý kiến Nhân dân,
vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật, các phong trào thi đua yêu
nước, các cuộc vận động.
- Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII (họp
từ ngày 25/9 đến 27/9/2014) được tổ
chức tại Thủ đô Hà Nội, với chủ đề “Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới - Phát
triển”. Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội và Chương
trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VII (2009 - 2014); rút ra
những bài học kinh nghiệm, nhận định, đánh giá cụ thể, toàn diện về tình hình
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đề ra mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ và Chương
trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2014 - 2019). Với
tinh thần “Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới”, Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt
Nam lần thứ VIII thiết tha kêu gọi toàn thể đồng bào Việt Nam ta ở trong nước
và nước ngoài tích cực hưởng ứng thực hiện 5 chương trình hành động của MTTQ
Việt Nam, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng Đảng và Nhà nước
tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh và hạnh phúc.
- Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX, nhiệm
kỳ 2019 - 2024 từ ngày 18 đến ngày 20/9/2019 tại Thủ đô Hà Nội, với chủ đề:
“Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Chương trình hành động Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024 là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội
dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; tăng cường củng cố
liên minh chính trị, xây dựng và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực
hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội, đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, thực hành tiết kiệm, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch,
vững mạnh; tăng cường đồng thuận xã hội, thúc đẩy tinh thần thi đua sáng tạo,
phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế, giữ vững hòa bình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trải qua gần một thế kỷ, với nhiều hình thức tổ chức
và tên gọi khác nhau,
Mặt
trận Dân tộc Thống nhất Việt
Nam nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn trung thành với lợi ích của Nhân dân, tiêu biểu cho truyền thống đoàn kết dân tộc, là biểu tượng về lòng tự hào, tự tôn dân tộc, là trí tuệ, sức mạnh không
gì lay chuyển nổi của các thế hệ người Việt Nam yêu nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Dương Hòa (tổng hợp)