LỜI GIỚI THIỆU
Bầu
cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện của Nhân dân là các quyền cơ bản
của công dân. Qua đó, người dân có thể tham gia vào quá trình quyết định các
vấn đề quan trọng của địa phương và trong phạm vi cả nước.
Quyền
bầu cử và ứng cử đã được Hiến pháp qua các thời kỳ ghi nhận. Hiến pháp năm
2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (được sửa đổi bổ sung năm 2020), Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 đã có những nội dung đổi mới quan trọng, tiếp
tục đề cao và phát huy quyền của Nhân dân trong bầu cử, ứng cử để lập ra cơ
quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương là Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
Thông
qua việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Nhân dân
ta sẽ lựa chọn những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội hoặc Hội đồng nhân
dân để thực thi quyền làm chủ của mình. Vì vậy, việc lựa chọn những
người bảo đảm tiêu chuẩn, xứng đáng đại diện cho Nhân dân tham gia vào
các cơ quan quyền lực nhà nước là yêu cầu quan trọng và có ý nghĩa
chính trị to lớn.
Ngày
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026 đã được ấn định là Chủ nhật,
ngày 23 tháng 5 năm 2021. Để phục vụ các tổ chức phụ trách bầu
cử, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cử tri nghiên cứu, tìm hiểu và
thực hiện những nội dung của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức biên soạn
cuốn sách “Hỏi - Đáp về bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội
đồng nhân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026”. Cuốn sách gồm các nội dung
cơ bản sau đây:
Phần
thứ nhất: Những vấn đề chung.
Phần
thứ hai: Các tổ chức phụ trách bầu cử.
Phần
thứ ba: Cử tri và danh sách cử tri.
Phần
thứ tư: Việc ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Phần
thứ năm: Tổ chức hiệp thương, giới thiệu người ứng cử
Phần
thứ sáu: Tuyên truyền, vận động bầu cử.
Phần
thứ bảy: Ngày bầu cử, nguyên tắc, trình tự bỏ phiếu, kiểm phiếu và xác định
kết quả bầu cử.
Trong
sách có tổng cộng 207 câu hỏi và nội dung trả lời được biên soạn dựa trên cơ sở
quy định của Hiến pháp, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân, các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, các chỉ thị, hướng dẫn
của Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan khác có thẩm quyền. Đặc biệt, một
số vấn đề vướng mắc trong quá trình tổ chức bầu cử, được nhiều cơ quan, tổ chức
và địa phương quan tâm đã được Hội đồng bầu cử quốc gia hướng dẫn, giải đáp từ
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2016-2021 cũng đã được tập hợp, biên tập, bổ sung vào cuốn sách
này để các cơ quan, tổ chức và cử tri tiện tham khảo, tra cứu, sử dụng trong
cuộc bầu cử lần này.
Trong
quá trình biên soạn cuốn sách, khó tránh khỏi những thiếu sót hoặc chưa
đề cập hết các vấn đề được xã hội quan tâm. Chúng tôi mong nhận được những
ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Xin
trân trọng giới thiệu.
HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân là một trong những quyền chính trị cơ
bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Bầu cử là phương thức thể hiện ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và thành lập cơ quan quyền lực nhà nước ở
trung ương và địa phương nói riêng.
Cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026
được tổ chức cùng một ngày trên phạm vi cả nước, trong bối cảnh công cuộc đổi
mới ở nước ta sau 35 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội, nhưng cũng đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức, nhất là tác động, ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19. Cuộc bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026 là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, diễn ra sau thành công
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, gắn liền với công tác cán
bộ, liên quan đến trách nhiệm của các cấp, các ngành; là nơi để cử tri phát huy
quyền làm chủ của công dân, lựa chọn bầu ra những người tiêu biểu, xứng đáng
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình trong Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ mới, góp phần tích cực vào việc xây dựng, củng
cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát
tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Quốc hội là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất bởi vì theo quy định của Hiến pháp, ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về
Nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quốc hội do Nhân dân bầu
ra, là cơ quan nhà nước cao nhất thực hiện quyền lực của Nhân dân. Quốc hội là
cơ quyền lực nhà nước cao nhất còn thể hiện ở chức năng của Quốc hội. Theo quy
định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật.
Bằng việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, Quốc hội quy định các vấn đề cơ
bản nhất, quan trọng nhất về hình thức và bản chất của Nhà nước; ghi nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định các nội
dung cơ bản về chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ,
môi trường, bảo vệ Tổ quốc và về tổ chức bộ máy nhà nước. Bằng việc làm luật và
sửa đổi luật, Quốc hội điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực của đời
sống xã hội. Bên cạnh đó, Quốc hội là cơ quan có quyền quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước, đó là những chủ trương lớn, những vấn đề quốc kế dân
sinh, những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Không một cơ quan nào đứng trên
Quốc hội trong xem xét, đánh giá việc thi hành Hiến pháp, luật - những văn bản
mà chỉ Quốc hội mới có quyền ban hành. Các cơ quan do Quốc hội thành lập và
người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn phải chịu trách nhiệm, báo cáo
công tác trước Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân được thể hiện ở các mặt sau đây:
- Trước hết về cách
thức thành lập, Quốc hội là cơ quan do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của Nhân dân cả nước, được Nhân dân tin tưởng uỷ thác quyền lực nhà
nước, thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và chịu
trách nhiệm trước Nhân dân cả nước.
- Về cơ cấu tổ
chức, đại biểu Quốc hội là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất cấu thành Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà
nước và xã hội, đại diện cho các tầng lớp Nhân dân và các dân tộc anh em trên đất
nước Việt Nam. Quốc hội là hình ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân, là biểu trưng
sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam.
- Chức năng và
nhiệm vụ của Quốc hội được quy định toàn diện trên các lĩnh vực: lập hiến, lập
pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nhằm
phục vụ cho lợi ích chung của toàn thể Nhân dân. Có thể nói, 75 năm hình thành
và phát triển của Quốc hội Việt Nam là 75 năm Quốc hội tận tâm cống hiến vì lợi
ích quốc gia và dân tộc, nói lên tiếng nói của Nhân dân, hành động theo ý chí
và nguyện vọng của Nhân dân.
Theo quy định của
Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội thì Quốc hội nước ta có 3 chức năng chính
là: thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Theo quy
định tại Điều 70 của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
1. Làm Hiến pháp
và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật.
2. Thực hiện quyền
giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét
báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia,
Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập.
3. Quyết định mục
tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
4. Quyết định
chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ
các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc
gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ
ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
5. Quyết định
chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước.
6. Quy định tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền
địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập.
7. Bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ
tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc,
Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử
quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội
thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Hội
đồng bầu cử quốc gia.
8. Bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
9. Quyết định
thành lập, bãi bỏ Bộ, cơ quan ngang Bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo
quy định của Hiến pháp và luật.
10. Bãi bỏ văn bản
của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội.
11. Quyết định đại
xá.
12. Quy định hàm,
cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp
nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước.
13. Quyết định vấn
đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc
biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia.
14. Quyết định
chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt
hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền
quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ
chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị
quyết của Quốc hội.
15. Quyết định
trưng cầu ý dân.
Nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là 05 năm kể từ ngày
khai mạc kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa đó đến ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất
của Quốc hội khóa sau. Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội
khóa mới phải được bầu xong. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần
ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút
ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá 12 tháng, trừ trường
hợp có chiến tranh.
Quốc hội làm việc
theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số.
Hiệu quả hoạt động
của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn
đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và hiệu quả của sự phối hợp hoạt động
với Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, tổ chức
khác.
Đại biểu Quốc hội là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và
của Nhân dân cả nước; là người thay mặt Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
trong Quốc hội. Đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm trước cử tri và trước Quốc
hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình.
Đại biểu Quốc hội bình đẳng trong
thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội
có quyền trình dự án luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh trước Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.
Đại biểu Quốc hội được tư vấn, hỗ trợ trong việc lập, hoàn thiện hồ sơ về dự án
luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh theo quy định của pháp luật.
Đại biểu Quốc hội
có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc
hội. Đại biểu Quốc hội không phải là thành viên của Hội đồng Dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội có quyền đăng ký tham dự phiên họp do Hội đồng, Ủy ban tổ chức
để thảo luận về những nội dung mà đại biểu quan tâm.
Đại biểu Quốc hội
có quyền ứng cử hoặc giới thiệu người ứng cử vào các chức danh do Quốc hội bầu.
Đại biểu Quốc hội
có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước.
Đại biểu Quốc hội
có quyền kiến nghị Quốc hội làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, trưng cầu ý dân,
thành lập Ủy ban lâm thời của Quốc hội, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ
chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, tổ chức phiên họp bất thường, phiên họp
kín của Quốc hội và kiến nghị về những vấn đề khác mà đại biểu Quốc hội thấy
cần thiết.
Khi phát hiện có
hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan,
tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành
vi vi phạm pháp luật.
Khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân đó.
Đại biểu Quốc hội
có quyền tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình thực hiện nhiệm vụ
đại biểu, có quyền tham gia ý kiến vào các vấn đề quản lý nhà nước, vấn đề liên
quan đến đời sống của Nhân dân và các vấn đề khác mà đại biểu quan tâm.
Đại biểu Quốc hội
có trách nhiệm tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp toàn thể của Quốc hội;
tham gia các hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội; của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban
của Quốc hội mà mình là thành viên; thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội; các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội mà mình là thành viên.
Đại biểu Quốc hội
có trách nhiệm liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường
xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và
phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ
chức hữu quan; phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.
Đại biểu Quốc hội
có trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
của công dân theo quy định của pháp luật.
Đại biểu Quốc hội
hoạt động chuyên trách có trách nhiệm tham gia hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt
động chuyên trách và các hội nghị khác do Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập.
Đại biểu Quốc hội có quyền miễn trừ khi làm nhiệm vụ.
Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội, khám xét nơi ở và nơi làm
việc của đại biểu Quốc hội nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời
gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Việc
đề nghị bắt, giam, giữ, khởi tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu
Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trường hợp đại biểu Quốc hội bị tạm giữ vì phạm tội
quả tang thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban
Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Đại biểu Quốc hội không thể bị cơ quan, tổ chức, đơn
vị nơi đại biểu công tác bãi nhiệm, cách chức, buộc thôi việc, sa thải nếu
không được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý.
Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, tổng số đại
biểu Quốc hội không quá 500 người, bao gồm đại biểu hoạt động chuyên trách và
đại biểu hoạt động không chuyên trách. Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động
chuyên trách ít nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của
Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch
Quốc hội và các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội làm Chủ
tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội làm Phó Chủ tịch. Thành viên Ủy ban Thường vụ
Quốc hội là đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và không đồng thời là
thành viên Chính phủ.
Quốc hội thành lập các cơ quan chuyên môn gồm:
(1) Hội đồng Dân tộc.
(2) Ủy ban Pháp luật.
(3) Ủy ban Tư pháp.
(4) Ủy ban Kinh tế.
(5) Ủy ban Tài chính, Ngân sách.
(6) Ủy ban Quốc phòng và An ninh.
(7) Ủy ban Văn hoá, Giáo dục.
(8) Ủy ban Xã hội.
(9) Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
(10) Ủy ban Đối ngoại.
Đây là các cơ quan của Quốc hội, chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo
công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hội đồng Dân tộc nghiên cứu và kiến
nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành
chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi
và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo được Quốc hội
hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt
động của Hội đồng, Ủy ban.
Ngoài ra, Quốc hội có thể thành lập Ủy ban lâm thời để
thẩm tra dự án luật, dự thảo nghị quyết hoặc báo cáo, dự án khác do Ủy ban
Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội hoặc có nội dung liên quan đến lĩnh vực phụ
trách của Hội đồng Dân tộc và nhiều Ủy ban của Quốc hội; điều tra làm rõ về một
vấn đề cụ thể khi xét thấy cần thiết.
Đoàn đại biểu Quốc hội là tổ chức của các đại biểu
Quốc hội được bầu tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc được
chuyển đến công tác tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đoàn đại biểu
Quốc hội có nhiệm vụ tổ chức để các đại biểu Quốc hội tiếp công dân; tổ chức để
các đại biểu Quốc hội thảo luận về dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác, dự
kiến chương trình kỳ họp Quốc hội theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
tổ chức hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để các đại
biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện nhiệm vụ giám sát tại địa phương.
Bộ máy giúp việc của Quốc hội gồm Tổng Thư ký Quốc hội
do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm; Văn phòng Quốc hội và các cơ quan thuộc
Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm Ban Công tác đại biểu, Ban Dân nguyện, Viện
Nghiên cứu lập pháp.
Hội đồng nhân dân
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân
quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân
dân.
Nhiệm kỳ của mỗi khóa Hội đồng nhân dân là 05 năm kể
từ kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khóa đó đến kỳ họp thứ nhất của Hội
đồng nhân dân khóa sau. Chậm nhất là 45 ngày trước khi Hội đồng nhân dân hết
nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân khóa mới phải được bầu xong. Việc rút ngắn hoặc kéo
dài nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội.
Đại biểu Hội đồng
nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương; liên
hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc,
báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời
những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
Đại biểu Hội đồng
nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính
sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham
gia quản lý nhà nước. Đại biểu Hội đồng nhân dân bình đẳng trong thảo luận và
quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
Đại biểu Hội đồng
nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, Ủy viên Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cùng cấp.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị
Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Hội
đồng nhân dân bầu; kiến nghị tổ chức phiên họp chuyên đề, phiên họp để giải
quyết các công việc phát sinh đột xuất, phiên họp kín của Hội đồng nhân dân và
kiến nghị về những vấn đề khác mà đại biểu thấy cần thiết.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị
các cơ quan, tổ chức, cá nhân áp dụng biện pháp cần thiết để thực hiện Hiến
pháp, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
Khi phát hiện có
hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu
cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm
dứt hành vi vi phạm pháp luật.
Khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu, đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm tham
dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp Hội đồng nhân dân, tham gia thảo luận và biểu
quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội
đồng nhân dân không tham dự kỳ họp, phiên họp thì phải có lý do và phải báo cáo
trước với Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Trường hợp đại biểu Hội đồng nhân dân
không tham dự các kỳ họp liên tục trong 01 năm mà không có lý do thì Thường
trực Hội đồng nhân dân phải báo cáo Hội đồng nhân dân để bãi nhiệm đại biểu Hội
đồng nhân dân đó.
Đại biểu Hội đồng
nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri nơi mình thực hiện nhiệm vụ đại
biểu, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực
ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với
cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân nơi mình là đại
biểu, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
Sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội
đồng nhân dân có trách nhiệm báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến
và giải thích các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, vận động và cùng với Nhân
dân thực hiện các nghị quyết đó.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm tiếp
công dân theo quy định của pháp luật. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu, kịp
thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị biết; đôn đốc, theo dõi và giám sát việc giải quyết.
Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho đại biểu Hội đồng nhân dân về
kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân trong thời hạn do
pháp luật quy định. Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị không đúng pháp luật, đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền gặp
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu xem xét
lại; khi cần thiết, đại biểu Hội đồng nhân dân yêu cầu người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó giải quyết.
Đại biểu Hội đồng
nhân dân có quyền miễn trừ khi làm nhiệm vụ. Không được bắt, giam, giữ, khởi tố
đại biểu Hội đồng nhân dân, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Hội
đồng nhân dân nếu không có sự đồng ý của Hội đồng nhân dân hoặc trong thời gian
Hội đồng nhân dân không họp, không có sự đồng ý của Thường trực Hội đồng nhân
dân. Trường hợp đại biểu Hội đồng nhân dân bị tạm giữ vì phạm tội quả tang thì
cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội
đồng nhân dân xem xét, quyết định.
Hội đồng nhân dân
có cơ quan thường trực là Thường trực Hội đồng nhân dân, thực hiện những nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các quy
định khác của pháp luật có liên quan; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Hội đồng nhân dân. Thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân không thể
đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Ban của Hội đồng
nhân dân là cơ quan của Hội đồng nhân dân, có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị
quyết, báo cáo, đề án trước khi trình Hội đồng nhân dân, giám sát, kiến nghị về
những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Hội đồng nhân dân.
Ngoài ra, ở Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các
đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở một hoặc nhiều đơn vị bầu cử hợp thành Tổ
đại biểu Hội đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có cơ
quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động theo quy định của pháp luật.
Căn cứ quy định
của Luật số 47/2019/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 22 ngày 11 năm 2019
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính
quyền địa phương thì tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2021-2026
có sự thay đổi so với nhiệm kỳ 2016-2021 về số lượng đại biểu Hội đồng nhân
dân, số lượng cấp phó và cơ cấu của Thường trực Hội đồng nhân dân. Cụ thể như
sau:
- Về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương quy định tỉnh miền núi, vùng cao có từ
500.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 500.000 dân thì cứ
thêm 50.000 dân được bầu thêm 01
đại biểu, nhưng tổng số không quá 75 đại biểu (giảm 10 đại biểu); tỉnh
không thuộc trường hợp nêu trên có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 01
triệu dân thì cứ thêm 70.000 dân được
bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 đại biểu (giảm 10 đại biểu).
Thành phố trực thuộc trung ương có từ 01 triệu
dân trở xuống được bầu 50 đại biểu;
có trên 01 triệu dân thì cứ thêm 60.000 dân được bầu thêm 01
đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 đại biểu (giảm 10 đại biểu). Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh được bầu 95 đại biểu (giảm
10 đại biểu).
- Về cơ cấu Thường trực Hội đồng nhân dân: Thường
trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, các Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Như vậy, trong cơ cấu của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh không có chức danh Chánh Văn phòng Hội đồng nhân
dân.
- Về số lượng cấp phó:
Trường hợp Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là
đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách thì có 01 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; trường hợp Chủ
tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động
không chuyên trách thì có 02
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là
đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
Căn cứ quy định của Luật số 47/2019/QH14
được Quốc hội thông qua ngày 22 tháng 11 năm 2019 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì tổ
chức của Hội đồng nhân dân cấp huyện nhiệm kỳ 2021-2026 có sự thay đổi so với nhiệm kỳ 2016-2021
theo hướng giảm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu và giảm 01 Phó Chủ
tịch Hội đồng nhân dân. Cụ thể như sau:
- Huyện miền núi, vùng cao, hải đảo có từ 40.000 dân
trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 40.000 dân thì cứ thêm 7.000 dân
được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu (giảm 05 đại
biểu).
- Huyện không thuộc trường hợp nêu trên, thị xã có từ 80.000 dân
trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 80.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân
được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu (giảm 05 đại
biểu).
- Quận, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương có từ 100.000 dân trở xuống được bầu 30 đại
biểu; có trên 100.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm 01
đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu (giảm
05 đại biểu).
- Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân ở huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương
có từ 30 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc trở lên do Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quyết định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, nhưng
tổng số không quá 40 đại biểu (giảm 05 đại biểu).
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện gồm Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và các Ủy viên là
Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp huyện. Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp
huyện có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Chủ tịch
Hội đồng nhân dân cấp huyện là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên
trách.
Căn cứ quy định
của Luật số 47/2019/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 22 tháng 11 năm 2019
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính
quyền địa phương thì tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2021-2026
cũng có sự thay đổi so với nhiệm kỳ 2016-2021 về số lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân được bầu và cơ cấu Thường trực Hội đồng nhân dân. Cụ thể như sau:
- Xã, thị trấn
miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 2.000 dân trở xuống được bầu 15 đại biểu
(đối với xã, thị trấn miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 1.000 dân đến 2.000
dân giảm 05 đại biểu).
- Xã, thị trấn
miền núi, vùng cao và hải đảo có trên 2.000 dân đến dưới 3.000 dân được bầu 19
đại biểu (giảm 06 đại biểu).
- Xã, thị trấn
miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 3.000 dân đến 4.000 dân được bầu 21 đại
biểu; có trên 4.000 dân thì cứ thêm 1.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng
tổng số không quá 30 đại biểu (giảm 05 đại biểu).
- Xã, thị trấn
không thuộc trường hợp nêu trên có từ 5.000 dân trở xuống được bầu 25 đại biểu;
có trên 5.000 dân thì cứ thêm 2.500 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng
số không quá 30 đại biểu (giảm 05 đại biểu).
- Phường có từ
10.000 dân trở xuống được bầu 21 đại biểu (giảm 04 đại biểu).
- Phường có trên
10.000 dân thì cứ thêm 5.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không
quá 30 đại biểu (giảm 05 đại biểu).
Về cơ cấu Thường trực
Hội đồng nhân dân cấp xã, Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy
định Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã gồm Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và có thêm các Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp xã. Phó Chủ
tịch Hội đồng nhân dân cấp xã là đại
biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
Điều 19 và Điều 40 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã quy định cụ
thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đồng nhân dân thành
phố trực thuộc trung ương trong việc tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp
và pháp luật; quyết định các vấn đề của địa phương trên các lĩnh vực: xây dựng
chính quyền, kinh tế, tài nguyên, môi trường, y tế, lao động và thực hiện chính
sách xã hội, công tác dân tộc, tôn giáo và quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội. Đồng thời, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh còn thực hiện nhiệm
vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp,
Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy
ban nhân dân cùng cấp và văn bản của Hội đồng nhân dân cấp huyện; thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên, Hội đồng nhân dân thành
phố trực thuộc trung ương còn quyết định quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất của thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm cả
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các quận, phường trực thuộc; quyết định quy hoạch về
xây dựng và phát triển đô thị trong phạm vi được phân quyền; quyết định các biện pháp
phát huy vai trò trung tâm kinh tế - xã hội của đô thị lớn trong mối liên hệ
với các địa phương trong vùng, khu vực và cả nước theo quy định của pháp luật; quyết định các biện pháp
quản lý dân cư ở thành phố và tổ chức đời sống dân cư đô thị; điều chỉnh dân cư
theo quy hoạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân.
Theo quy định tại Điều 26 của Luật Tổ chức chính quyền
địa phương, Hội đồng
nhân dân huyện có
nhiệm vụ tổ
chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật ở địa phương; quyết định những
vấn đề quan trọng của địa phương trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xây dựng chính quyền, kinh tế, tài nguyên, môi
trường,
giáo dục, văn hóa - xã hội. Hội đồng nhân
dân huyện thực hiện giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện
nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện; giám sát hoạt động của Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật
của Ủy ban nhân dân cùng cấp và văn bản của Hội đồng nhân dân cấp xã; thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài nhiệm vụ,
quyền hạn nêu trên, Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương theo quy định tại Điều 54 của Luật Tổ chức
chính quyền địa phương còn có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Quyết định quy
hoạch xây dựng và phát triển đô thị trên cơ sở quy hoạch của tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê
duyệt; quyết định dự án đầu tư công trình đô thị trên địa bàn theo quy định của
pháp luật.
- Quyết định các
cơ chế, chính sách thu hút đầu tư phát triển đô thị, chương trình, kế hoạch xây
dựng công trình hạ tầng đô thị, giao thông theo quy định của pháp luật.
- Quyết định biện
pháp quản lý dân cư và tổ chức đời sống dân cư, bảo đảm trật tự công cộng, cảnh
quan đô thị trên địa bàn.
Theo quy định tại
Điều 47 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân quận cơ
bản cũng thực hiện phần lớn các nhiệm vụ, quyền hạn như Hội đồng nhân dân huyện.
Tuy nhiên, để phù hợp với tính chất của quận thuộc thành phố trực thuộc trung
ương (quận không phải là đơn vị hành chính đô thị hoàn toàn độc lập mà là một
bộ phận cấu thành, có tính kết nối, liên thông cao của đô thị trực thuộc trung
ương) nên Luật Tổ chức chính quyền địa phương chủ yếu giao cho Hội đồng nhân
dân quận quyết định các vấn đề liên quan đến công tác nhân sự, tổ chức bộ máy,
quyết định các vấn đề về ngân sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đầu
tư công trên địa bàn và giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương. Nếu so sánh với Hội đồng nhân dân ở huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương thì Hội đồng nhân dân
quận không có thẩm quyền quyết định các biện pháp thực hiện nhiệm vụ về quốc
phòng, an ninh, các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; quyết định quy
hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực trên địa bàn; quyết định các
biện pháp quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước,…
Theo quy định tại
Điều 33 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì Hội đồng nhân dân xã có
các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Ban hành nghị
quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã.
- Quyết định biện
pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các
hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm
vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính
mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của công dân trên địa bàn xã.
- Bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng
ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các Ủy viên Ủy ban nhân
dân xã.
- Thông qua kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của xã, trước khi trình Ủy ban nhân
dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương phê duyệt. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn;
dự toán thu, chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp
cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư
chương trình, dự án của xã trong phạm vi được phân quyền.
- Giám sát việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của
Hội đồng nhân dân xã; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân cùng cấp, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy
phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
- Lấy phiếu tín
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân xã
bầu.
- Bãi nhiệm đại
biểu Hội đồng nhân dân xã và chấp nhận việc đại biểu Hội đồng nhân dân xã xin
thôi làm nhiệm vụ đại biểu.
- Bãi bỏ một phần
hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã.
Đối với Hội
đồng nhân dân phường, thị trấn, theo quy định tại Điều 61 và Điều 68
của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng
nhân dân phường, thị trấn cơ bản giống như nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng
nhân dân xã, trừ nhiệm vụ quyết định biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,
đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng,
chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài
sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản,
các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn phường, thị trấn
do nội dung này thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân cấp trên để
bảo đảm tính đồng bộ, tập trung trong quản lý đô thị.
Đại biểu Quốc hội
phải đáp ứng các tiêu chuẩn được quy định tại Điều 22 của Luật Tổ chức Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải đáp ứng các tiêu chuẩn được quy định Điều
7 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Đó là:
- Trung thành với
Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Có một quốc tịch
là quốc tịch Việt Nam.
- Có phẩm chất đạo
đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật;
có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn
hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để
thực hiện nhiệm vụ.
- Liên hệ chặt chẽ
với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.
- Có điều kiện
tham gia hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Quyền bầu cử là quyền
cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật trong việc được lựa chọn người
đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền bầu cử bao gồm việc
giới thiệu người ứng cử và bỏ phiếu bầu cử để lựa chọn người đại diện cho mình
tại Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Quyền ứng cử là quyền
cơ bản của công dân khi đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của
pháp luật thì có thể thể hiện nguyện vọng của mình được ứng cử đại biểu Quốc
hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều 27 của Hiến
pháp và Điều 2 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
quy định: Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có
quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
Quyền bầu cử là
quyền chính trị cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định nhằm
bảo đảm cho mọi công dân có đủ điều kiện thực hiện việc lựa chọn người đại biểu
của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền của công dân không tách rời
nghĩa vụ của công dân.
Thông qua bầu cử,
công dân trực tiếp bỏ phiếu bầu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của mình, thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước, góp phần thiết
lập bộ máy nhà nước để tiến hành các hoạt động quản lý xã hội. Vì vậy, thực
hiện bầu cử là trách nhiệm của công dân đối với đất nước.
Theo quy định tại
Điều 7 của Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc bầu
cử phổ thông.
- Nguyên tắc bình
đẳng.
- Nguyên tắc bầu
cử trực tiếp.
- Nguyên tắc bỏ
phiếu kín.
Nguyên tắc bầu cử
phổ thông là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử.
Theo nguyên tắc này, mọi công dân, không phân biệt dân tộc, giới tính, thành
phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, đủ 18 tuổi
trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu
Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật (trừ
những người bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật hoặc người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi
hành án, người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người
mất năng lực hành vi dân sự). Nguyên tắc này thể hiện tính công khai, dân
chủ rộng rãi, đòi hỏi sự bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu
cử và ứng cử của mình.
Bình đẳng là
một nguyên tắc quan trọng xuyên suốt quá trình bầu cử, từ khi lập
danh sách cử tri cho đến khi xác định kết quả bầu cử. Nguyên tắc này
nhằm bảo đảm tính khách quan, không thiên vị để mọi công dân đều có khả năng
như nhau tham gia bầu cử và ứng cử; nghiêm cấm mọi sự phân biệt, kỳ thị dưới
bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử được thể hiện như sau:
- Mỗi công dân chỉ
được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình cư trú.
- Mỗi người chỉ
được ghi tên vào Danh sách những người ứng cử ở 01 đơn vị bầu cử đại biểu Quốc
hội hoặc 01 đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thuộc 01 đơn vị hành chính
ở cấp tương ứng.
- Mỗi cử tri chỉ
được bỏ 01 phiếu bầu đại biểu Quốc hội và 01 phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân
dân ở mỗi cấp.
- Giá trị phiếu
bầu của mọi cử tri như nhau mà không có sự phân biệt.
Nguyên tắc bình
đẳng đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng người được
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, số lượng
đại biểu được bầu ở từng địa phương, bảo đảm tính đại diện của các vùng, miền,
địa phương, các tầng lớp xã hội; các dân tộc thiểu số và phụ nữ có tỷ lệ đại
diện hợp lý trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Bầu cử trực tiếp
là việc cử tri trực tiếp đi bầu cử, tự bỏ lá phiếu của mình vào hòm phiếu để
lựa chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà nước. Điều 69 của Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: Cử tri không
được nhờ người khác bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư. Trường hợp cử
tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự
mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường
hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào
hòm phiếu.
Trong trường hợp
cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu
cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri
nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm giam,
người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ
tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm
giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri
nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
Nguyên tắc bỏ
phiếu kín bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn người mình tín nhiệm mà không bị
tác động bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài. Theo đó, cử tri bầu ai, không
bầu ai đều được bảo đảm bí mật. Cử tri viết phiếu bầu trong khu vực riêng,
không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử; không ai được biết và can thiệp
vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri tự mình bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Một cuộc bầu cử
được coi là bầu cử dân chủ và đúng pháp luật phải đảm bảo các yếu tố sau đây:
- Việc bầu cử phải
tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
- Bảo đảm các
quyền bầu cử, ứng cử, vận động bầu cử. Quy định cụ thể những trường hợp bị tước
quyền bầu cử, ứng cử; những trường hợp không được thực hiện quyền bầu cử, ứng
cử và những trường hợp không tham gia bầu cử.
- Quy định rõ quy
trình, thủ tục giới thiệu người ứng cử, hiệp thương, bầu cử lại, bầu cử thêm,
bầu cử bổ sung để đảm bảo lựa chọn được những người tiêu biểu, xứng đáng làm
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Bảo đảm quyền
của cử tri nơi người ứng cử công tác (hoặc làm việc), cư trú được nhận xét, bày
tỏ ý kiến của mình về sự tín nhiệm đối với người ứng cử.
- Quy định rõ tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác bầu
cử.
- Việc giải quyết
các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về bầu cử phải được thực hiện nghiêm túc,
nhanh chóng; các vi phạm về bầu cử phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.
Tại cuộc bầu cử
lần này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã dự kiến tổng số đại biểu Quốc hội khóa XV
được bầu là 500 đại biểu.
Điều 8 của Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: Căn cứ vào dự
kiến số lượng đại biểu Quốc hội được bầu, sau khi thống nhất ý kiến với Ban
Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đại diện các tổ chức
chính trị - xã hội, chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội dự kiến cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội; số lượng người của tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang
nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử
đại biểu Quốc hội để bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân
trong Quốc hội. Thực hiện quy định nói trên, ngày 23/01/2021, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 1193/NQ-UBTVQH14 để dự kiến số lượng người
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ
trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng
cử đại biểu Quốc hội khóa XV.
Dự kiến cơ cấu,
thành phần và phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được gửi đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ban Thường
trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tỉnh.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm
quyền phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội được bầu ở mỗi tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Việc phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội được bầu ở mỗi tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương được xác định theo các căn cứ sau đây:
- Mỗi tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương có ít nhất 03 đại biểu cư trú và làm việc tại địa
phương.
- Số lượng đại
biểu tiếp theo được tính theo số dân và đặc điểm của mỗi địa phương, bảo đảm
tổng số đại biểu Quốc hội dự kiến được bầu là 500 người.
- Bảo đảm mỗi
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có ít nhất là 06 đại biểu Quốc hội.
Dự kiến phân bổ
đại biểu Trung ương ứng cử ở địa phương được thực hiện theo nguyên tắc sau đây:
- Đoàn đại biểu
Quốc hội có 06 đại biểu thì có 02 đại biểu Trung ương.
- Đoàn đại biểu
Quốc hội có 07 đại biểu thì có 03 đại biểu Trung ương.
- Đoàn đại biểu
Quốc hội có 08 đại biểu thì có 03-04 đại biểu Trung ương.
- Đoàn đại biểu
Quốc hội có 09 đại biểu thì có 04 đại biểu Trung ương.
- Đoàn đại biểu
Quốc hội có 11 đến 14 đại biểu thì có 05-07 đại biểu Trung ương.
- Đoàn đại biểu
Quốc hội có 29-30 đại biểu thì có 14-15 đại biểu Trung ương.
Số lượng phụ nữ
được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến
trên cơ sở đề nghị của Đoàn chủ tịch Ban chấp hành trung ương Hội liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.
Số lượng người dân
tộc thiểu số được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban Thường vụ Quốc
hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, bảo đảm có ít
nhất 18% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu
Quốc hội là người dân tộc thiểu số.
Số người được giới
thiệu để ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cũng phải bảo đảm có ít nhất
35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân là phụ nữ; số lượng người ứng cử là người dân tộc thiểu số được
xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương.
Việc xác định tổng
số đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực
hiện theo nguyên tắc:
- Tỉnh miền núi,
vùng cao có từ 500.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 500.000 dân
thì cứ thêm 50.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 75
đại biểu. Việc xác định tỉnh miền núi, vùng cao để làm căn cứ xác định số lượng
đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu căn cứ vào văn bản, quyết định còn hiệu lực
pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tại Nghị quyết số
1187/NQ-UBTVQH14 ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
Hướng dẫn việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người
được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã
giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Ủy ban Dân tộc và các cơ quan có liên quan
rà soát, tập hợp các văn bản, quyết định còn hiệu lực pháp luật đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành để xác định đơn vị hành chính miền núi, vùng
cao và công bố trên Trang thông tin điện tử của Hội đồng bầu cử quốc gia (http://hoidongbaucu.quochoi.vn).
- Tỉnh không thuộc trường hợp nêu trên có từ 1.000.000
dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 1.000.000 dân thì cứ thêm 70.000
dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 đại biểu.
- Thành phố trực
thuộc trung ương có từ 1.000.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 1.000.000
dân thì cứ thêm 60 nghìn dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá
85 đại biểu.
- Thành phố Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh được bầu 95 đại biểu.
Theo quy định tại
Nghị quyết số 1187/NQ-UBTVQH14 ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, dân số của từng đơn vị hành chính để làm căn cứ xác định số lượng đại
biểu Hội đồng nhân dân được bầu được xác định theo số liệu thống kê dân số do
cơ quan thống kê cấp tỉnh công bố tại thời điểm gần nhất tính đến ngày 31 tháng
12 năm 2020.
Việc xác định tổng
số đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện được thực hiện theo nguyên tắc:
- Huyện miền núi, vùng cao, hải đảo có từ 40.000 dân
trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 40.000 dân thì cứ thêm 7.000 dân được
bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu. Việc xác định huyện
miền núi, vùng cao, hải đảo để làm căn cứ xác định số lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân được bầu căn cứ vào văn bản, quyết định còn hiệu lực pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Tại Nghị quyết số 1187/NQ-UBTVQH14 ngày 11 tháng 01
năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Hướng dẫn việc xác định dự kiến cơ
cấu, thành phần và phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp
với Ủy ban Dân tộc và các cơ quan có liên quan rà soát, tập hợp các văn bản,
quyết định còn hiệu lực pháp luật đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành để xác định đơn vị hành chính miền núi, vùng cao, hải đảo và công bố trên
Trang thông tin điện tử của Hội đồng bầu cử quốc gia (http://hoidongbaucu.quochoi.vn).
- Huyện không
thuộc trường hợp nêu trên, thị xã có từ 80.000 dân trở xuống được bầu 30 đại
biểu; có trên 80.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu,
nhưng tổng số không quá 35 đại biểu.
- Quận, thành phố
thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có từ 100.000 dân
trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 100.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được
bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu.
- Số lượng đại
biểu Hội đồng nhân dân ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố
thuộc thành phố trực thuộc trung ương có từ 30 đơn vị hành chính cấp xã trực
thuộc trở lên do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Thường
trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu.
Tại kỳ bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026, trên cả nước có tổng cộng 29 đơn vị
cấp huyện (thuộc 11 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) có từ 30 đơn vị hành
chính cấp xã trở lên. Trên cơ sở đề nghị của các địa phương cũng như bảo đảm
cân đối chung về tỷ lệ dân số và số đơn vị hành chính trực thuộc của từng địa
phương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét và ra nghị quyết quyết định số
lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện nhiệm kỳ 2021-2026 cụ thể (từ 37 đến
40 đại biểu) cho từng huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và thành phố Thủ Đức
thuộc phạm vi đối tượng nêu trên.
Việc xác định tổng
số đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã được thực hiện theo nguyên tắc:
- Xã, thị trấn
miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 2.000 dân trở xuống được bầu 15 đại biểu.
- Xã, thị trấn
miền núi, vùng cao và hải đảo có trên 2.000 dân đến dưới 3.000 dân được bầu 19
đại biểu.
- Xã, thị trấn
miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 3.000 dân đến 4.000 dân được bầu 21 đại
biểu; có trên 4.000 dân thì cứ thêm 1.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng
tổng số không quá 30 đại biểu.
Việc xác định xã
miền núi, vùng cao, hải đảo để làm căn cứ xác định số lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân được bầu căn cứ vào văn bản, quyết định còn hiệu lực pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Tại Nghị quyết số 1187/NQ-UBTVQH14 ngày 11 tháng 01
năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Hướng dẫn việc xác định dự kiến cơ
cấu, thành phần và phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp
với Ủy ban Dân tộc và các cơ quan có liên quan rà soát, tập hợp các văn bản,
quyết định còn hiệu lực pháp luật đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành để xác định đơn vị hành chính miền núi, vùng cao, hải đảo và công bố trên
Trang thông tin điện tử của Hội đồng bầu cử quốc gia (http://hoidongbaucu.quochoi.vn).
- Xã, thị trấn
không thuộc trường hợp nêu trên có từ 5.000 dân trở xuống được bầu 25 đại biểu;
có trên 5.000 dân thì cứ thêm 2.500 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng
số không quá 30 đại biểu.
- Phường có từ 10.000 dân trở xuống được bầu 21
đại biểu.
- Phường có trên
10.000 dân thì cứ thêm 5.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không
quá 30 đại biểu.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019 và Nghị quyết số 1187/NQ-UBTVQH14
ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quy định cụ thể
nguyên tắc xác định số lượng đại biểu HĐND đối với từng loại đơn vị hành chính:
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; xã, phường, thị trấn căn
cứ vào dân số, đặc điểm (miền núi, vùng cao, hải đảo) và số lượng đơn vị hành
chính trực thuộc. Chẳng hạn:
- Tỉnh miền núi,
vùng cao có từ 500.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 500.000 dân
thì cứ thêm 50.000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 75
đại biểu.
- Huyện không
thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 25 của Luật Tổ chức chính
quyền địa phương có từ 80.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên
80.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không quá 35 đại biểu.
- Phường có từ
10.000 dân trở xuống được bầu 21 đại biểu; phường có trên 10 nghìn dân thì cứ
thêm 5.000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 30 đại biểu.
Thực hiện đúng các
quy định nêu trên thì nếu số lượng dân tăng thêm (so với mức chuẩn đầu tiên) ở
01 đơn vị hành chính đáp ứng đủ điều kiện để bầu thêm 01 đại biểu thì mới được
tính thêm 01 đại biểu vào tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở đơn vị
hành chính đó (tức là không có việc chia bình quân và làm tròn số). Ví dụ: tại
phường X có tổng số dân là 14.000 người thì số đại biểu Hội đồng nhân dân phường
được bầu vẫn chỉ là 21 đại biểu bởi số dân tăng thêm so với tiêu chuẩn 10.000
dân chỉ có 4.000 người (thấp hơn mức 5000 dân để được tăng thêm 01 đại biểu
theo quy định của Luật). Tại tỉnh Y có dân số là 1.541.829 người (tính đến thời
điểm ngày 31 tháng 12 năm 2020), căn cứ theo quy định của Luật sẽ được bầu 50
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ứng với 500.000 dân đầu tiên và thêm 20 đại
biểu ứng với 1.000.000 dân tiếp theo (50.000 người x 20 lần); số dân còn lại là
41.829 người ít hơn 50.000 người, chưa đủ để bầu thêm 01 đại biểu nên không
được tính nữa. Như vậy, tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Y nhiệm kỳ
2021-2026 được bầu là 70 đại biểu.
Căn cứ vào số
lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu, nguyên tắc về việc bảo đảm số dư khi
lập danh sách người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại khoản 3 Điều
58 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Thường trực
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, sau khi thống nhất ý kiến với
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban nhân dân cùng cấp,
dự kiến cụ thể cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người của tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ
quan nhà nước ở cấp mình và các đơn vị hành chính cấp dưới (đối với cấp tỉnh,
cấp huyện), các thôn, tổ dân phố (đối với cấp xã), đơn vị sự nghiệp, tổ chức
kinh tế trên địa bàn được giới thiệu để ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn
vị hành chính cấp mình.
Việc dự kiến cơ
cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu để ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân ở mỗi đơn vị hành chính phải bảo đảm dân chủ, công tâm, khách
quan, minh bạch; coi trọng chất lượng, lựa chọn đại biểu là những người tiêu
biểu về phẩm chất, đạo đức, uy tín, trí tuệ; đồng thời bảo đảm cơ cấu hợp lý
trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở cấp mình và các đơn vị hành chính cấp
dưới (đối với cấp tỉnh, cấp huyện), các thôn, tổ dân phố (đối với cấp xã), đơn
vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế trên địa bàn; có đại diện của các thành phần xã
hội, nghề nghiệp, tôn giáo, độ tuổi và đáp ứng các yêu cầu sau đây:
- Bảo đảm có ít
nhất là 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân là phụ nữ; phấn đấu tỷ lệ phụ nữ trúng cử là khoảng 30%
tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Bảo đảm tỷ lệ
hợp lý người trong danh sách chính thức những người được giới thiệu ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân là người dân tộc thiểu số, phù hợp với đặc điểm, cơ cấu
dân số của từng địa phương. Quan tâm đến những dân tộc thiểu số trong nhiều
khóa chưa có người tham gia vào hoạt động của Hội đồng nhân dân.
- Phấn đấu đạt tỷ
lệ người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là người ngoài Đảng
không thấp hơn 10% tổng số người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân.
- Phấn đấu đạt tỷ
lệ người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là đại biểu trẻ tuổi
(dưới 40 tuổi) không thấp hơn 15% tổng số người được giới thiệu ứng cử đại biểu
Hội đồng nhân dân.
- Phấn đấu đạt tỷ
lệ từ 30% trở lên đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016 - 2021 tái cử đại
biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 ở từng cấp.
- Giảm tỷ lệ người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
công tác ở các cơ quan quản lý nhà nước so với nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Việc xác định số
lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách ở từng đơn vị hành
chính được căn cứ vào quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019, Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày
19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội về Thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị
và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng, Nghị quyết
số 131/2020/QH14 ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Quốc hội về Tổ chức chính quyền
đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể như sau:
- Đối với cấp tỉnh, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động
chuyên trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tối đa là 02
người; số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ
Trưởng ban, Phó Trưởng ban ở mỗi Ban của Hội đồng nhân dân tối đa là 02 người,
trừ Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng.
Đối với Thành phố Hồ Chí
Minh, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố tối đa là 03 người; số lượng
đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng ban, Phó
Trưởng ban và Ủy viên ở mỗi Ban của Hội đồng nhân dân thành phố tối đa là 04
người.
Đối với thành
phố Đà Nẵng, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ
chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố tối đa là 02 người;
số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng
ban, Phó Trưởng ban ở mỗi Ban của Hội đồng nhân dân thành phố tối đa là 03
người.
- Đối với cấp huyện, số lượng đại biểu Hội đồng nhân
dân hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
tối đa là 02 người; số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách
giữ chức vụ Trưởng ban, Phó Trưởng ban ở mỗi Ban của Hội đồng nhân dân tối đa
là 02 người.
- Đối với cấp xã, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân
hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân là 01 người.
Theo quy định tại
khoản 3 Điều 4 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện việc dự kiến và phân bổ số
lượng đại biểu Quốc hội được bầu; xác định cơ cấu, thành phần những người được
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội; hướng dẫn việc xác định dự kiến cơ cấu,
thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp; tổ chức giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân, bảo đảm cho việc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng
pháp luật, an toàn, tiết kiệm.
Theo quy định tại
khoản 4 Điều 4 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
thì trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp,
Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện công tác bầu cử theo quy định của pháp
luật; tổ chức thực hiện các biện pháp bảo đảm kinh phí, hướng dẫn việc quản lý
và sử dụng kinh phí tổ chức bầu cử, bảo đảm công tác thông tin, tuyên truyền,
an ninh, an toàn và các điều kiện cần thiết khác phục vụ cuộc bầu cử.
Theo quy định tại
khoản 7 Điều 4 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
thì trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp,
Thường trực Hội đồng nhân dân có trách nhiệm dự kiến cơ cấu, thành phần, số
lượng đại biểu Hội đồng nhân dân của cấp mình. Thường trực Hội đồng nhân dân
các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm giám sát,
kiểm tra và thực hiện công tác bầu cử theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác
có liên quan.
Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp, thống nhất với Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thành
lập các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương.
Riêng Ủy ban nhân
dân cấp xã còn có thêm một số trách nhiệm khác như xác định khu vực bỏ phiếu và
trình Ủy ban nhân dân cấp huyện phê chuẩn; đối với các đơn vị hành chính cấp
huyện không chia thành đơn vị hành chính cấp xã thì việc xác định khu vực bỏ
phiếu do Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định (khoản 4 Điều 11 của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân). Ủy ban nhân dân cấp xã lập
danh sách cử tri theo khu vực bỏ phiếu; đối với những nơi không có đơn vị hành
chính cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp huyện lập danh sách cử tri theo từng khu
vực bỏ phiếu.
Ủy ban nhân dân
các cấp có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và tổ chức triển khai
công tác bầu cử theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; thực hiện
công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn cho cuộc bầu
cử.
Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; tham gia giám sát việc bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phối hợp, tham gia cùng Ủy ban nhân dân,
Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử ở
địa phương.
Các cuộc bầu cử
phải được tiến hành theo các đơn vị bầu cử. Đơn vị bầu cử là khái niệm chỉ một
phạm vi địa lý hành chính tương ứng với một lượng dân cư nhất định để bầu một
số lượng đại biểu Quốc hội hay đại biểu Hội đồng nhân dân xác định.
Theo quy định tại
Điều 10 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì có
các loại đơn vị bầu cử sau đây:
- Đơn vị bầu cử
đại biểu Quốc hội. Theo đó, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được chia
thành các đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội.
- Đơn vị bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Theo đó, tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
- Đơn vị bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện. Theo đó, huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương được chia thành các
đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện.
- Đơn vị bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã. Theo đó, xã, phường, thị trấn được chia
thành các đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội: Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội. Số đơn vị bầu cử, danh
sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu Quốc hội được bầu ở mỗi đơn vị bầu
cử đại biểu Quốc hội được tính căn cứ theo số dân, do Hội đồng bầu cử quốc gia
ấn định theo đề nghị của Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và được công bố chậm nhất là ngày 04 tháng 3 năm 2021
(80 ngày trước ngày bầu cử).
Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân: Theo quy định tại khoản 3 Điều 10 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì
số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại
biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử do Ủy ban bầu cử ở cấp đó ấn định theo
đề nghị của Ủy ban nhân dân cùng cấp và được công bố chậm nhất là chậm
nhất là ngày 04 tháng 3 năm 2021 (80 ngày trước ngày bầu cử).
Tại khoản 4 Điều
10 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định:
- Mỗi đơn vị bầu
cử đại biểu Quốc hội được bầu không quá 03 đại biểu.
- Mỗi đơn vị bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu không quá 05 đại biểu.
Khu vực bỏ phiếu
là phạm vi địa lý hành chính có số dân nhất định. Việc chia khu vực bỏ phiếu
mang ý nghĩa kỹ thuật, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cử tri thực hiện quyền
bầu cử của mình. Chính vì vậy, khu vực bỏ phiếu có phạm vi hành chính nhỏ hơn
đơn vị bầu cử. Thông thường, các khu vực bỏ phiếu được thành lập theo các đơn
vị hành chính cơ sở như xã, phường hoặc thôn, tổ dân phố, khu phố (cá biệt cũng
có một số trường hợp đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã chỉ có duy
nhất 01 khu vực bỏ phiếu).
Theo quy định tại Điều 11 của Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc
hội, đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân chia thành các khu vực bỏ phiếu.
Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Mỗi khu vực bỏ
phiếu có từ 300 cử tri đến 4.000 cử tri. Ở miền núi, vùng cao, hải đảo và những
nơi dân cư không tập trung thì dù chưa có đủ 300 cử tri cũng được thành lập một
khu vực bỏ phiếu. Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người
khuyết tật, cơ sở chăm sóc người cao tuổi có từ 50 cử tri trở lên; đơn vị vũ
trang nhân dân; cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, trại tạm
giam có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
Việc xác định đơn
vị vũ trang nhân dân là khu vực bỏ phiếu riêng do Ban Chỉ huy đơn vị quyết
định. Việc xác định các khu vực bỏ phiếu còn lại do Ủy ban nhân dân cấp xã
quyết định và được Ủy ban nhân dân cấp huyện phê chuẩn. Đối với những huyện
không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì việc xác định khu vực bỏ phiếu do
Ủy ban nhân dân huyện quyết định.
Số cử tri làm căn
cứ để xác định thành lập khu vực bỏ phiếu là số lượng cử tri được xác định một
cách tương đối tại thời điểm thành lập, phê chuẩn việc thành lập khu vực bỏ
phiếu đó. Trên cơ sở các khu vực bỏ phiếu đã được xác định, Ủy ban nhân dân cấp
xã tiến hành việc lập và công bố danh sách cử tri. Sau khi danh sách cử tri đã
được công bố, nếu có cử tri ở nơi khác chuyển đến và đăng ký bỏ phiếu tại địa phương
thì Ủy ban nhân dân bổ sung tên cử tri vào danh sách cử tri và số cử tri này
được tính vào tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu đó khi lập biên bản kết quả
kiểm phiếu; trường hợp cử tri bị xóa tên trong danh sách cử tri, cử tri đã được
chứng nhận đi bỏ phiếu ở nơi khác thì không được tính vào tổng số cử tri của
khu vực bỏ phiếu.
1. Do tính chất và đặc điểm về thời gian tổ chức bầu
cử, nên việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong bầu cử không thực hiện theo
các quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo. Việc giải quyết các khiếu nại, tố
cáo trong bầu cử chủ yếu nhằm mục đích bảo đảm cho các bước, các công đoạn
trong quá trình tổ chức bầu cử được tiến hành đúng quy định của pháp luật; việc
xem xét, xác định trách nhiệm cụ thể của các cá nhân, tổ chức có vi phạm vẫn
thực hiện theo các quy định khác có liên quan của pháp luật (ví dụ như pháp
luật về cán bộ, công chức, pháp luật về thanh tra, về khiếu nại, tố cáo, về hình
sự….)
2. Điều 55 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân quy định về việc xác minh, trả lời các vụ việc mà cử tri
nêu đối với người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phát sinh trong quá trình
giới thiệu, hiệp thương, lựa chọn người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Điều
luật này đã nêu rõ trách nhiệm và thời hạn xác minh, trả lời đối với các vụ
việc khiếu nại, tố cáo. Kết quả xác minh, trả lời về các vụ việc nói trên là cơ
sở để Hội nghị hiệp thương lần thứ ba xem xét, quyết định danh sách những người
đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình.
Điều 61 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân quy định chung về khiếu nại, tố cáo về người ứng cử, lập danh
sách người ứng cử. Theo đó, công dân có quyền tố cáo về người ứng cử, khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị về những sai sót trong việc lập danh sách những người
ứng cử không phân biệt về thời điểm thực hiện việc khiếu nại, tố cáo. Ủy ban
bầu cử, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là các cơ quan chịu trách nhiệm
tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến người
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, việc lập danh sách những người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình.
Như vậy, các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến
người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, việc lập danh sách những người ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân đều phải được Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử tương ứng
tiếp nhận, ghi vào sổ, chuyển đến các cơ quan, tổ chức hữu quan để thực hiện
việc xác minh, trả lời làm cơ sở cho việc giải quyết của các cơ quan phụ trách
bầu cử theo thẩm quyền.
Đối với các vụ việc cử tri nêu lên về người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong thời gian tiến hành hiệp thương thì việc
xác minh và trả lời được thực hiện theo quy định tại Điều 55 của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Kết quả xác minh, trả lời được
gửi cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị
hiệp thương để làm cơ sở cho Hội nghị hiệp thương lần thứ ba xem xét, quyết
định danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở
cấp mình.
Các tố cáo về người ứng cử từ sau khi kết thúc Hội
nghị hiệp thương lần thứ ba hoặc việc xử lý kết quả xác minh những vụ việc cử
tri nêu mà chưa được trả lời theo thời hạn quy định tại khoản 4 Điều 55 của Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đều thuộc thẩm quyền xem
xét, giải quyết của Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử theo quy định tại Điều 61 của
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử ngừng việc xem xét, giải
quyết mọi khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử và việc lập danh sách
những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân 10 ngày trước ngày bầu cử. Các
khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết được chuyển đến Thường trực Hội đồng
nhân khóa mới để tiếp tục xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
3. Về nguyên tắc, các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về
tư cách của người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, liên quan đến việc điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung các thông tin trong danh sách chính thức những người
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban bầu cử
nơi đã lập và công bố danh sách này. Khi tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị thuộc loại nói trên, Ban bầu cử phải chuyển ngay cho Ủy ban bầu cử để xem
xét, giải quyết theo thẩm quyền (điểm e khoản 2 Điều 24 của Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân). Căn cứ vào kết quả xác minh, trả
lời của các cơ quan hữu quan, Ủy ban bầu cử có thể quyết định xóa tên người ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong danh sách chính thức những người ứng cử
hoặc thực hiện việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các nội dung cần thiết trong
danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Quyết định
của Ủy ban bầu cử là quyết định cuối cùng.
Ban bầu cử chỉ giải quyết những khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị mang tính kỹ thuật liên quan đến việc công bố, niêm yết danh sách
chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử (ví dụ
như về thời điểm niêm yết, vị trí, cách thức niêm yết danh sách, các sai sót in
ấn trong danh sách đã niêm yết….). Trong trường hợp công dân không đồng ý với
giải quyết của Ban bầu cử thì Ủy ban bầu cử cấp tương ứng giải quyết; trình tự
giải quyết được căn cứ vào nội dung vụ việc khiếu nại hay tố cáo.
4. Các tố cáo liên quan đến sai phạm của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hiệp thương, đến thành viên của Ủy ban bầu
cử, đến các Ban bầu cử, Tổ bầu cử đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban
bầu cử ở cấp tương ứng. Tuy nhiên, Ủy ban bầu cử chỉ xem xét, quyết định về các
nội dung liên quan trực tiếp đến việc tổ chức bầu cử; việc xem xét, xác định
trách nhiệm cụ thể của các cá nhân, tổ chức có vi phạm được thực hiện theo các
quy định khác của pháp luật có liên quan.
Câu
52. Người có hành vi vi phạm pháp luật về
bầu cử bị xử lý như thế nào?
Điều
95 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân đã quy định rõ: Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc
cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử của công dân; vi phạm các quy định về
vận động bầu cử; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả mạo giấy tờ,
gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử hoặc
vi phạm các quy định khác của pháp luật về bầu cử thì tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Căn cứ vào quy định của
Luật này, Bộ luật Hình sự đã quy định cụ thể 02 tội liên quan đến bầu cử gồm:
- Tội xâm phạm quyền bầu
cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân của công dân (Điều
160):
“1.
Người nào lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân
thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng
cầu ý dân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc
phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến
02 năm:
a)
Có tổ chức;
b)
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c)
Dẫn đến hoãn ngày bầu cử, bầu cử lại hoặc hoãn việc trưng cầu ý dân.
3.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05
năm.”
-
Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân (Điều 161):
“1.
Người nào có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử, tổ chức
trưng cầu ý dân mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác để
làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến
03 năm:
a)
Có tổ chức;
b)
Dẫn đến phải tổ chức lại việc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân.
3.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05
năm.”
Người
ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân mà có hành vi vi phạm pháp
luật về bầu cử (như kê khai hồ sơ ứng cử không trung thực, gian dối, giả mạo
thông tin, vi phạm các quy định về vận động bầu cử…) thì có thể bị xóa tên
trong Danh sách chính thức những người ứng cử hoặc nếu đã được bầu thì cũng
không được công nhận tư cách đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
PHẦN THỨ HAI
CÁC TỔ CHỨC PHỤ TRÁCH BẦU CỬ
Các
tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp gồm có:
-
Hội đồng bầu cử quốc gia.
-
Các Ủy ban bầu cử được thành lập ở các đơn vị hành chính có tổ chức Hội đồng
nhân dân gồm:
+
Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
+
Ủy ban bầu cử ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương.
+
Ủy ban bầu cử ở xã, phường, thị trấn.
-
Các Ban bầu cử được thành lập ở từng đơn vị bầu cử gồm:
+
Ban bầu cử đại biểu Quốc hội.
+
Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
+
Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện.
+
Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
-
Các Tổ bầu cử được thành lập ở từng khu vực bỏ phiếu.
Riêng
tại các địa phương thực hiện hoặc thí điểm thực hiện mô hình chính quyền đô
thị, việc tổ chức các tổ chức phụ trách bầu cử xin xem thêm Câu 79.
Theo
quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Hội
đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội thành lập gồm từ 15 đến 21 thành viên gồm Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên.
Hội
đồng bầu cử quốc gia được thành lập theo Nghị quyết số 118/2020/QH14 ngày 19
tháng 6 năm 2020 của Quốc hội khóa XIV để tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XV, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia là bà Nguyễn Thị Kim
Ngân, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII, Chủ tịch Quốc hội được Quốc hội bầu theo
đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 04 Phó Chủ tịch và 16 Ủy viên Hội đồng
bầu cử quốc gia do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng bầu cử
quốc gia đại diện cho các cơ quan trung ương của Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số cơ quan,
tổ chức hữu quan.
Hội
đồng bầu cử quốc gia có các chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau đây:
-
Tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội.
-
Chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
-
Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử.
-
Chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cuộc bầu cử.
-
Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử.
-
Quy định mẫu hồ sơ ứng cử, mẫu Thẻ cử tri, mẫu phiếu bầu cử, nội quy phòng bỏ
phiếu, các mẫu văn bản khác sử dụng trong công tác bầu cử.
Trong
việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, Hội đồng bầu cử quốc gia được
giao thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1.
Ấn định và công bố số đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách các đơn vị bầu
cử và số lượng đại biểu Quốc hội khóa XV được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử.
2.
Nhận và xem xét hồ sơ của người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV; nhận hồ sơ và danh sách người ứng
cử đại biểu Quốc hội khóa XV do Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương gửi đến.
3.
Gửi danh sách trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài
sản, thu nhập của những người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV đến Ban Thường trực Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để thực hiện việc hiệp thương. Giới thiệu và gửi hồ
sơ của người ứng cử đại biểu Quốc hội đã được Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương, giới thiệu để về ứng cử tại các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương.
4.
Lập và công bố Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa
XV theo từng đơn vị bầu cử; xóa tên người ứng cử trong Danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội trong trường hợp có căn cứ theo quy định
của luật.
5.
Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV của
các Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ban bầu cử đại biểu
Quốc hội chuyển đến; lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XV trong cả nước.
6.
Quyết định việc bầu cử thêm, bầu cử lại đại biểu Quốc hội hoặc hủy bỏ kết quả
bầu cử và quyết định ngày bầu cử lại ở khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử đại biểu
Quốc hội có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
7.
Xác nhận và công bố kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV trong cả nước; xác
nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XV.
8.
Trình Quốc hội khóa XV báo cáo tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước và kết quả
xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội được bầu.
9.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử đại biểu Quốc hội; chuyển giao
hồ sơ, khiếu nại, tố cáo liên quan đến những người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa
XV cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
10.
Quản lý và phân bổ kinh phí tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV.
Trong
việc chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021-2026, Hội đồng bầu cử quốc gia có các nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
1.
Chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện các quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân.
2.
Hướng dẫn hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
nhiệm kỳ 2021-2026.
3.
Kiểm tra việc tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026.
4.
Hủy bỏ kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và quyết định ngày bầu cử lại
ở khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng.
Để
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, Hội đồng bầu cử quốc
gia đã thành lập 04 Tiểu ban để tham mưu và giúp Hội đồng trực tiếp chỉ đạo,
điều hành, hướng dẫn, xử lý một số công việc trong từng mảng lĩnh vực cụ thể,
gồm có:
-
Tiểu ban Nhân sự.
-
Tiểu ban Giải quyết khiếu nại, tố cáo.
-
Tiểu ban Văn bản pháp luật và Thông tin, tuyên truyền.
-
Tiểu ban An ninh, Trật tự và Y tế.
Mỗi
Tiểu ban có từ 9-21 thành viên vừa có đại diện thành viên của Hội đồng bầu cử
quốc gia tham gia làm Trưởng, Phó Trưởng Tiểu ban, vừa có đại diện lãnh đạo các
cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, phụ
trách các lĩnh vực, mảng công việc tương ứng.
Đồng
thời, trên cơ sở Nghị quyết số 1000/2020/UBTVQH14 ngày 16 tháng 9 năm 2020 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về bộ máy giúp việc của Hội đồng bầu cử quốc
gia, Hội đồng bầu cử quốc gia đã thành lập Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia
với tư cách là bộ máy tham mưu, giúp việc, trực tiếp phục vụ việc triển khai
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng, các Tiểu ban của Hội đồng; đồng
thời đã bổ nhiệm Chánh Văn phòng, các Phó Chánh Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc
gia. Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia cũng tổ chức bộ
phận thường trực và 05 Tổ giúp việc để tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ
của Văn phòng. Công chức làm việc tại Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia chủ
yếu gồm công chức của Văn phòng Quốc hội, cán bộ, công chức trưng tập hoặc kiêm
nhiệm của một số cơ quan nhà nước khác, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội có liên quan.
1.
Tiểu ban Nhân sự giúp Hội đồng bầu cử quốc gia về công tác nhân sự, tiếp nhận, xử lý đối với hồ sơ ứng cử đại biểu
Quốc hội ở trung ương, tham mưu lập Danh sách chính thức những người ứng
cử đại biểu Quốc hội, lập danh sách đơn vị bầu cử, phân bổ người
ứng cử đại biểu Quốc hội ở trung ương về địa phương, xác nhận và
công bố kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV.
2.
Tiểu ban Giải quyết khiếu nại, tố cáo giúp Hội đồng bầu cử quốc gia chỉ đạo, hướng dẫn và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong bầu cử theo quy định của pháp luật.
3.
Tiểu ban Văn bản pháp luật và Thông tin, tuyên truyền giúp Hội đồng bầu cử quốc
gia trong việc hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về
bầu cử; chỉ đạo, hướng dẫn công tác
thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử.
4.
Tiểu ban An ninh, trật tự và Y tế giúp
Hội đồng bầu cử quốc gia chỉ đạo công tác bảo đảm an
ninh, trật tự
và y tế trong
cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
5.
Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
-
Phục vụ Hội đồng bầu cử quốc gia, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Hội đồng bầu
cử quốc gia và các Tiểu ban của Hội đồng bầu cử quốc gia trong việc thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân.
-
Giúp Hội đồng bầu cử quốc gia, các Tiểu ban của Hội đồng bầu cử quốc gia soạn thảo các văn bản thuộc
thẩm quyền theo phân công.
- Tổ chức phục vụ các phiên họp, cuộc họp của Hội
đồng bầu cử quốc gia, các Tiểu ban của
Hội đồng bầu cử quốc gia.
- Giúp Hội đồng bầu cử quốc gia đôn đốc, theo dõi
việc triển khai thực hiện công tác bầu cử.
- Giúp Hội đồng bầu cử quốc gia quản lý, sử dụng
kinh phí hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia.
- Thực hiện công tác hành chính, văn thư liên quan
đến hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia.
Ngoài các nhiệm vụ nêu trên, các Tiểu ban và Văn
phòng Hội đồng bầu cử quốc gia còn thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Hội
đồng bầu cử quốc gia giao.
Ủy
ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thành lập để thực hiện
công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Chậm
nhất là ngày 07 tháng 2 năm 2021
(105 ngày trước ngày bầu cử), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sau khi thống nhất với
Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp phải ra quyết định thành lập Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung.
Ủy
ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có từ 21 đến 31 thành viên
gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và một số
cơ quan, tổ chức hữu quan.
Danh
sách Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được gửi đến
Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ban Thường trực
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ủy
ban bầu cử ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương, xã, phường, thị trấn được thành lập để tổ chức bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã tương ứng trên địa bàn.
Chậm
nhất là ngày 07 tháng 2 năm 2021
(105 ngày trước ngày bầu cử), Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã
sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập Ủy ban bầu cử ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung
ương, Ủy ban bầu cử ở xã, phường, thị trấn.
Ủy
ban bầu cử ở cấp huyện có từ 11 đến 15 thành viên; Ủy ban bầu cử ở cấp xã có từ
09 đến 11 thành viên. Thành viên Ủy ban bầu cử ở cấp huyện, cấp xã gồm Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và một số cơ
quan, tổ chức hữu quan.
Danh
sách Ủy ban bầu cử ở cấp huyện, Ủy ban bầu cử ở cấp xã phải được gửi đến Thường
trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp.
Trong
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh có các nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
1.
Chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV ở các đơn vị
bầu cử đại biểu Quốc hội trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
kiểm tra, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của các
Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Tổ bầu cử.
2.
Chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử đại biểu
Quốc hội ở địa phương.
3.
Chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV ở địa phương.
4.
Nhận và xem xét hồ sơ của người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, tổ chức kinh tế ở địa phương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa
XV và hồ sơ của người tự ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV tại địa phương; gửi danh
sách trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài sản, thu
nhập của những người được giới thiệu ứng cử và những người tự ứng cử đại biểu
Quốc hội khóa XV đến Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh
để tiến hành hiệp thương; gửi hồ sơ và danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội
khóa XV tại địa phương đến Hội đồng bầu cử quốc gia.
5.
Lập danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV theo đơn vị bầu cử
và báo cáo để Hội đồng bầu cử quốc gia quyết định.
6.
Chỉ đạo, kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri.
7.
Nhận tài liệu, phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV từ Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh và phân phối cho các Ban bầu cử đại biểu Quốc hội chậm nhất là ngày 27 tháng 4 năm
2021 (25 ngày trước ngày bầu cử).
8.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc thực hiện công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội của Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Tổ bầu cử; khiếu nại, tố cáo về bầu
cử đại biểu Quốc hội do Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Tổ bầu cử chuyển đến;
khiếu nại, tố cáo về người ứng cử đại biểu Quốc hội.
9.
Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV của
các Ban bầu cử đại biểu Quốc hội; lập biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XV ở địa phương.
10.
Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV theo
yêu cầu của Hội đồng bầu cử quốc gia.
11.
Chuyển hồ sơ, biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV đến
Hội đồng bầu cử quốc gia.
12.
Tổ chức việc bầu cử thêm, bầu cử lại đại biểu Quốc hội theo quyết định của Hội
đồng bầu cử quốc gia.
Trong
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026, Ủy ban bầu cử ở các cấp
có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1.
Chỉ đạo việc tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình nhiệm kỳ
2021-2026; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân.
2.
Quản lý và phân bổ kinh phí tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp
mình.
3.
Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân ở địa phương.
4.
Chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cuộc
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa phương.
5.
Ấn định và công bố số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình được bầu của mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân tương ứng.
6.
Nhận và xem xét hồ sơ của những người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, tổ chức kinh tế, thôn, tổ dân phố ở địa phương giới thiệu ứng cử và
những người tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình nhiệm kỳ 2021-2026;
gửi danh sách trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài
sản, thu nhập của người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp mình nhiệm kỳ 2021-2026 đến Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng cấp để tiến hành hiệp thương.
7.
Lập và công bố Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp mình nhiệm kỳ 2021-2026 theo từng đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân; xóa tên người ứng cử trong Danh sách chính thức những người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp mình nhiệm kỳ 2021-2026 khi có các căn cứ theo quy
định của luật.
8.
Nhận tài liệu, phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân từ Ủy ban nhân dân cùng
cấp và phân phối cho các Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình chậm
nhất là ngày 27 tháng 4 năm 2021 (25 ngày trước ngày bầu cử).
9.
Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp mình nhiệm kỳ 2021-2026 ở từng đơn vị bầu cử do các Ban bầu cử gửi đến; lập
biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cấp mình.
10.
Chỉ đạo việc bầu cử thêm, bầu cử lại đại biểu Hội đồng nhân dân trong trường
hợp cần thiết.
11.
Xác nhận và công bố kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình nhiệm kỳ
2021-2026; xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
12.
Trình Hội đồng nhân dân khóa mới ở cấp mình báo cáo tổng kết cuộc bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 và kết quả xác nhận tư cách đại biểu
Hội đồng nhân dân cùng cấp được bầu.
13.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc thực hiện công tác bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân của Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình, Tổ bầu
cử; khiếu nại, tố cáo về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình do Ban bầu
cử, Tổ bầu cử chuyển đến; khiếu nại, tố cáo về người ứng cử, việc lập danh sách
người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình.
14.
Bàn giao các biên bản tổng kết và hồ sơ, tài liệu về cuộc bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021 – 2026 cho Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp khóa
mới.
Ban
bầu cử đại biểu Quốc hội được thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội
để trực tiếp phụ trách công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV tại đơn vị bầu
cử đó.
Chậm
nhất là ngày 14 tháng 3 năm 2021
(70 ngày trước ngày bầu cử), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sau khi thống nhất với
Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp phải ra quyết định thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội
một Ban bầu cử đại biểu Quốc hội.
Ban
bầu cử đại biểu Quốc hội có từ 9 đến 15 thành viên gồm Trưởng ban, các Phó
Trưởng ban và các Ủy viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và một số cơ quan, tổ chức
hữu quan.
Danh
sách Ban bầu cử đại biểu Quốc hội phải được gửi đến Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
Ban
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân từng cấp (tỉnh, huyện, xã) được thành lập ở
mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cấp tương ứng để trực tiếp phụ
trách công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 tại đơn vị
bầu cử đó.
Chậm
nhất là ngày 14 tháng 3 năm 2021
(70 ngày trước ngày bầu cử), Ủy ban nhân dân ở cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã sau
khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp mình một Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Ban
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 11 đến 13 thành viên. Ban bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện có từ 9 đến 11 thành viên. Ban bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có từ 7 đến 9 thành viên. Ban bầu cử gồm
Trưởng ban, các Phó Trưởng ban và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội.
Danh
sách Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì phải được gửi đến Ủy ban
bầu cử ở cấp tương ứng và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp với Ủy ban bầu cử đó nhằm bảo đảm thực hiện
công tác chỉ đạo, tổ chức bầu cử và kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ
chức phụ trách bầu cử ở địa phương.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đã quy định
rõ thành phần tham gia các Ban bầu cử phải có đại diện của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tương ứng với từng cấp
và một số cơ quan, tổ chức hữu quan khác.
Luật không quy định thành viên của Ban bầu cử đại biểu Quốc hội không
thể đồng thời là thành viên của Ban bầu cử khác mà chỉ có quy định về những
trường hợp không được tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử, trong đó bao
gồm các Ban bầu cử (nếu là người thuộc danh sách ứng cử tại đơn vị bầu cử thuộc
phạm vi phụ trách của Ban bầu cử đó). Do đó, tùy tình hình nhân sự và thực tiễn
của địa phương, các cơ quan nói trên có thể xem xét, phân công người thích hợp
tham gia vào các Ban bầu cử, bảo đảm đầy đủ thành phần theo quy định của Luật.
Ban
bầu cử đại biểu Quốc hội, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã có chung những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1.
Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử của các Tổ bầu cử thuộc đơn
vị bầu cử.
2.
Kiểm tra, đôn đốc việc lập, niêm yết danh sách cử tri và việc niêm yết danh
sách những người ứng cử ở các Tổ bầu cử thuộc đơn vị bầu cử.
3.
Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc bố trí các phòng bỏ phiếu và công việc bầu cử ở
các phòng bỏ phiếu.
4.
Nhận và phân phối tài liệu, phiếu bầu cử cho các Tổ bầu cử chậm nhất là 15 ngày
trước ngày bầu cử.
5.
Nhận, tổng hợp và kiểm tra biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử của các Tổ bầu
cử; lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử.
6.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc thực hiện công tác bầu cử của các Tổ
bầu cử và khiếu nại, tố cáo về bầu cử do các Tổ bầu cử chuyển đến; nhận và
chuyển đến Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh
khiếu nại, tố cáo về người ứng cử đại biểu Quốc hội; nhận và chuyển đến Ủy ban bầu cử tương ứng khiếu nại, tố cáo
về người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
7.
Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo hướng dẫn, yêu cầu của Hội
đồng bầu cử quốc gia hoặc theo yêu cầu của Ủy
ban bầu cử cùng cấp.
8.
Chuyển hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội đến Ủy ban bầu cử ở tỉnh; chuyển hồ sơ, tài
liệu về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đến Ủy ban bầu cử cùng cấp.
9.
Tổ chức thực hiện việc bầu cử thêm, bầu cử lại (nếu có).
Tổ
bầu cử được thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu để thực hiện công tác bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
Chậm
nhất là ngày 03 tháng 4 năm 2021
(50 ngày trước ngày bầu cử), Ủy ban nhân dân cấp xã sau khi thống nhất với
Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử để thực
hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Tổ bầu cử có từ 11 đến 21 thành viên gồm Tổ trưởng,
Thư ký và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương.
Trường
hợp đơn vị vũ trang nhân dân được xác định là khu vực bỏ phiếu riêng thì chỉ
huy đơn vị quyết định thành lập một Tổ bầu cử có từ 5 đến 9 thành viên gồm Tổ
trưởng, Thư ký và các Ủy viên là đại diện chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân
của đơn vị vũ trang nhân dân đó. Danh sách Tổ bầu cử phải được gửi đến Ban bầu
cử đại biểu Quốc hội, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện có tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân tại khu vực bỏ phiếu đó và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đơn vị đóng quân.
Trường
hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương tổ chức chung thành một khu vực bỏ
phiếu thì Ủy ban nhân dân cấp xã sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và chỉ huy
đơn vị vũ trang nhân dân quyết định thành lập Tổ bầu cử có từ 11 đến 21 thành
viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa
phương, đại diện chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ trang nhân
dân đó.
Ngoài
đơn vị vũ trang nhân dân (như đã nêu tại Câu 69), tại các khu vực bỏ phiếu
riêng khác như bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người
khuyết tật, cơ sở chăm sóc người cao tuổi có từ 50 cử tri trở lên hoặc cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện, trại tạm giam (quy định tại điểm b và điểm
c khoản 3 Điều 11 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân) thì việc thành lập Tổ bầu cử vẫn do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện như
đối với các khu vực bỏ phiếu thông thường khác.
Đối
với các đơn vị hành chính cấp huyện không được chia thành các đơn vị hành chính
cấp xã (ví dụ như tại một số huyện đảo) thì Ủy ban nhân dân cấp huyện sau khi
thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ
bầu cử có từ 11 đến 21 thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy viên là đại
diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội, đại diện cử tri ở địa phương.
Trong
việc thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, Tổ bầu cử có các nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
1.
Phụ trách công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu.
2.
Bố trí phòng bỏ phiếu, chuẩn bị hòm phiếu.
3.
Nhận tài liệu và phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân từ
các Ban bầu cử tương ứng; phát Thẻ cử tri, phiếu bầu cử có đóng dấu của Tổ bầu
cử cho cử tri.
4.
Thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ
phiếu trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử (tức là từ ngày 13 tháng 5 đến ngày 22 tháng
5 năm 2021).
5.
Bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về bầu cử và nội quy
phòng bỏ phiếu.
6.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của
Tổ bầu cử; nhận và chuyển đến Ban bầu cử tương ứng khiếu nại, tố cáo về người
ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân mỗi cấp và
các khiếu nại, tố cáo khác không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tổ bầu cử.
7.
Kiểm phiếu và lập biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV,
biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân từng cấp nhiệm kỳ
2021-2026 để gửi đến các Ban bầu cử tương ứng.
8.
Chuyển biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử và toàn bộ phiếu bầu cử đến Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi có khu vực bỏ phiếu khi kết thúc việc kiểm phiếu.
9.
Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của các tổ chức phụ
trách bầu cử cấp trên.
10.
Thực hiện việc bầu cử thêm, bầu cử lại tại khu vực bỏ phiếu (nếu có).
Hội
đồng bầu cử quốc gia hoạt động theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Các
cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Hội
đồng bầu cử quốc gia tham dự; các quyết định được thông qua khi có quá nửa tổng
số thành viên biểu quyết tán thành. Hội đồng bầu cử quốc gia chịu trách nhiệm
trước Quốc hội và báo cáo về hoạt động của mình trước Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội.
Các
tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương (bao gồm các Ủy ban bầu cử, các Ban bầu
cử, các Tổ bầu cử) hoạt động theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Các
cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham dự;
các quyết định được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán
thành.
Các
quyết định của Hội đồng bầu cử quốc gia, của các Ủy ban bầu cử ở các đơn vị
hành chính được thông qua và thể hiện dưới hình thức nghị quyết.
Căn
cứ điều kiện cụ thể, cơ quan có thẩm quyền thành lập các tổ chức phụ trách bầu
cử có quyền trưng tập cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
giúp việc cho tổ chức phụ trách bầu cử theo quyết định của người đứng đầu tổ
chức phụ trách bầu cử.
Các
tổ chức phụ trách bầu cử tổ chức quán triệt những nhiệm vụ, quyền hạn của từng
tổ chức phụ trách bầu cử đã được Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân quy định; các thành viên của các tổ chức phụ trách bầu cử phải
được tập huấn đầy đủ các kỹ năng, nghiệp vụ thực hiện công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, trong đó đặc biệt chú trọng công tác
tập huấn đối với thành viên Tổ bầu cử.
Các
tổ chức phụ trách bầu cử thực hiện các công việc theo quy định của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và thực hiện chế độ báo cáo
định kỳ theo tiến độ về tình hình chuẩn bị, triển khai, thực hiện công tác bầu
cử với tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên trực tiếp và cơ quan có thẩm quyền.
Người
đứng đầu tổ chức phụ trách bầu cử phân công, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể đối với từng thành viên trong quá trình thực hiện
công tác bầu cử.
Thành
viên các tổ chức phụ trách bầu cử có trách nhiệm tham gia đầy đủ việc tập huấn
kỹ năng, nghiệp vụ thực hiện công tác bầu cử; nắm vững và thực hiện đúng nhiệm
vụ, quyền hạn được phân công; công tâm, khách quan, trung thực trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Trong
quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao, các thành viên tổ chức phụ trách
bầu cử phải trao đổi, hội ý công việc, đánh giá rút kinh nghiệm về những công
việc đã thực hiện của mỗi thành viên; người đứng đầu tổ chức phụ trách bầu cử
chịu trách nhiệm chỉ đạo, đôn đốc các thành viên thực hiện những công việc còn
tồn đọng và phân công các thành viên thực hiện các công việc tiếp theo của tổ
chức phụ trách bầu cử theo tiến độ thực hiện công tác bầu cử.
Trong
ngày bầu cử, các thành viên tổ chức phụ trách bầu cử phải đeo phù hiệu của tổ
chức phụ trách bầu cử cấp mình.
Trong
quá trình tổ chức, thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, các tổ chức phụ trách bầu cử
ở địa phương được cấp và sử dụng thống nhất các con dấu theo mẫu do Hội đồng
bầu cử quốc gia quy định (theo Mẫu số 41/HĐBC tại Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG
ngày 18 tháng 01 năm 2021). Các mẫu dấu này đã
được thiết kế để dùng ổn định, lâu dài trong tất cả các cuộc bầu cử để tiết
kiệm chi phí và đã được sử dụng trong cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021
(năm 2016). Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm chuẩn bị các con
dấu của các tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp mình; Ủy ban nhân dân cấp xã chuẩn
bị con dấu của Tổ bầu cử và con dấu “Đã bỏ phiếu” để bàn giao
cho các tổ chức phụ trách bầu cử tương ứng.
Do đó, các con dấu đã được sử dụng trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021 nếu vẫn trong tình trạng
sử dụng tốt và các thông tin về đơn vị hành chính có liên quan (tên loại, tên
gọi) không có sự thay đổi, điều chỉnh thì vẫn được sử dụng cho cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Các tổ chức phụ
trách bầu cử có trách nhiệm thực hiện đúng quy định về quản lý và sử dụng con
dấu.
Tại đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã chỉ có duy nhất một khu
vực bỏ phiếu, vẫn thành lập Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã và Tổ
bầu cử ở khu vực bỏ phiếu. Thành viên Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
xã có thể kiêm nhiệm làm thành viên của Tổ bầu cử. Ban bầu cử, Tổ bầu cử thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật về bầu cử.
Theo các nghị quyết số 97/2019/QH14, số 119/2020/QH14 và số 131/2020/QH14 của Quốc hội
thì tại thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng sẽ tổ chức thực hiện thí điểm mô
hình chính quyền đô thị, thành phố Hồ Chí Minh sẽ chính thức thực hiện mô hình
chính quyền đô thị từ năm 2021. Theo đó, bắt đầu từ nhiệm kỳ 2021-2026, ở các
phường của thành phố Hà Nội sẽ không tổ chức Hội đồng nhân dân phường; ở các
quận, phường của thành phố Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh đều không tổ chức Hội
đồng nhân dân quận, Hội đồng nhân dân phường. Như vậy, việc tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026
trên địa bàn các thành phố nói trên sẽ được tiến hành như sau:
- Trên địa bàn thành phố Hà Nội,
chỉ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân thành
phố Hà Nội, đại biểu Hội đồng nhân dân các quận, đại biểu Hội đồng nhân dân thị
xã Sơn Tây, đại biểu Hội đồng nhân dân các huyện thuộc thành phố Hà Nội và đại
biểu Hội đồng nhân dân các xã, thị trấn thuộc các huyện, thị xã của thành phố
Hà Nội nhiệm kỳ 2021-2026.
- Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng,
chỉ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân thành
phố Đà Nẵng, đại biểu Hội đồng nhân dân huyện Hòa Vang và đại biểu Hội đồng nhân
dân các xã thuộc huyện Hòa Vang nhiệm kỳ 2021-2026.
- Trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, chỉ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Thủ Đức, đại biểu
Hội đồng nhân dân các huyện thuộc thành phố Hồ Chí Minh và đại biểu Hội đồng
nhân dân các xã, thị trấn thuộc các huyện của thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ
2021-2026.
Để tổ chức việc bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nêu tại Câu 78, thành phố Hà Nội, thành
phố Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh sẽ cần thành lập các loại tổ chức phụ
trách bầu cử sau đây:
1. Đối với
thành phố Hà Nội:
- Thành lập Ủy ban bầu cử ở
thành phố Hà Nội để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và tổ
chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2021-2026.
- Thành lập Ủy ban bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân ở các quận, huyện, thị xã, xã, thị trấn trên địa bàn
thành phố Hà Nội để tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ
2021-2026 ở từng đơn vị hành chính tương ứng. Không thành lập Ủy ban bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân phường tại các phường thuộc quận, thị xã của thành phố
Hà Nội.
- Thành lập các Ban bầu cử đại
biểu Quốc hội tại mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội trên địa bàn thành phố Hà
Nội.
- Thành lập các Ban bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
huyện, quận, thị xã, xã, thị trấn tại mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân của cấp tương ứng. Không thành lập Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
phường tại các phường thuộc quận, thị xã thuộc thành phố Hà Nội.
- Thành lập ở mỗi khu vực bỏ
phiếu một Tổ bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân của cấp được tổ chức bầu cử trên địa bàn khu vực bỏ phiếu.
Như vậy, Tổ bầu cử được thành lập ở các khu vực bỏ phiếu trên địa bàn các quận
nội thành của thành phố Hà Nội và các phường thuộc thị xã Sơn Tây sẽ chỉ thực
hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân
thành phố Hà Nội, đại biểu Hội đồng nhân dân quận hoặc thị xã thuộc thành phố
Hà Nội nhiệm kỳ 2021-2026.
2. Đối với thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng:
-
Thành lập Ủy ban bầu cử ở thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng để thực hiện
công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân thành phố nhiệm kỳ 2021-2026.
-
Thành lập Ủy ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở thành phố Thủ Đức, các
huyện, xã, thị trấn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, ở huyện Hòa Vang, các
xã thuộc huyện Hòa Vang của thành phố Đà Nẵng để tổ chức bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 ở từng đơn vị hành chính tương ứng. Không
thành lập Ủy ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quận, Ủy ban bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân phường tại các quận và tại các phường thuộc quận của thành
phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng; không thành lập Ủy ban bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân phường tại các phường thuộc thành phố Thủ Đức.
-
Thành lập các Ban bầu cử đại biểu Quốc hội tại mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc
hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng.
-
Thành lập các Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Ban
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Thủ Đức, Ban bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân huyện, xã, thị trấn tại mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân của cấp tương ứng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thành lập các Ban bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân huyện Hòa Vang, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các xã thuộc
huyện Hòa Vang thuộc thành phố Đà Nẵng. Không thành lập Ban bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân quận, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân phường tại các phường
thuộc quận của thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng; không thành lập Ban
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân phường tại các phường thuộc thành phố Thủ Đức.
-
Thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân của cấp được tổ chức bầu cử trên
địa bàn khu vực bỏ phiếu. Như vậy, Tổ bầu cử được thành lập ở các khu vực bỏ
phiếu trên địa bàn các quận của thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng sẽ chỉ
thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng
nhiệm kỳ 2021-2026; Tổ bầu cử được thành lập ở các khu vực bỏ phiếu trên địa
bàn thành phố Thủ Đức chỉ thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV
và đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng nhân dân
thành phố Thủ Đức nhiệm kỳ 2021-2026.
Do số lượng các tổ chức phụ trách
bầu cử tại các thành phố sẽ tổ chức mô hình chính quyền đô thị có sự giảm bớt
khá nhiều so với các đơn vị hành chính thông thường khác, nên để có thể bảo đảm
thực hiện có hiệu quả công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và tổ chức bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 trên địa bàn, thì cấp ủy,
chính quyền địa phương, đặc biệt là Ủy ban bầu cử ở các thành phố nói trên, cần
tập trung đẩy mạnh, tổ chức thực hiện tốt công tác chỉ đạo việc tổ chức bầu cử;
kiểm tra, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử trên toàn địa bàn thành
phố; chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về cuộc bầu
cử; chú trọng công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội
trên địa bàn; có phương án chủ động ứng phó với những tình huống thiên tai,
dịch bệnh có thể xẩy ra trong thời gian tiến hành bầu cử,... Sau khi kết thúc
cuộc bầu cử, các tổ chức phụ trách bầu cử cần tiến hành tổng kết cụ thể, chi
tiết về việc triển khai thực hiện công tác bầu cử ở địa phương mình để đánh
giá, rút kinh nghiệm, chỉ ra các nội dung còn khó khăn, vướng mắc và đề xuất
các giải pháp, điều chỉnh cần thiết nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác này
trong các kỳ bầu cử tiếp theo.
Hội
đồng bầu cử quốc gia kết thúc nhiệm vụ sau khi đã trình Quốc hội khóa XV báo
cáo tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước và kết quả xác nhận tư cách đại biểu
Quốc hội được bầu, bàn giao biên bản tổng kết và hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại
biểu Quốc hội cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV.
Ủy
ban bầu cử ở cấp tỉnh, Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Tổ bầu cử kết thúc nhiệm
vụ đối với bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV sau khi Hội đồng bầu cử quốc gia
kết thúc việc tổng kết công tác bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả nước và công
bố kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV.
Ủy
ban bầu cử ở các cấp kết thúc nhiệm vụ đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cùng cấp nhiệm kỳ 2021-2026 sau khi Ủy ban bầu cử đã trình báo cáo tổng kết
cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và hồ sơ, tài liệu về bầu cử tại kỳ họp
thứ nhất của Hội đồng nhân dân cấp tương ứng nhiệm kỳ 2021 – 2026.
Ban
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 sau khi Ủy ban bầu cử ở cấp
tương ứng kết thúc việc tổng kết công tác bầu cử và công bố kết quả bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân của cấp mình nhiệm kỳ 2021-2026.
Người
ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân không được làm thành viên
Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị bầu cử mà mình ứng cử.
Nếu
đã là thành viên của Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị bầu cử mà mình có tên
trong Danh sách chính thức những người ứng cử thì người ứng cử phải xin rút
khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử đó chậm nhất là vào ngày
công bố Danh sách chính thức những người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử. Trường
hợp người ứng cử không có đơn xin rút thì cơ quan đã quyết định thành lập Ban
bầu cử, Tổ bầu cử ra quyết định xóa tên người đó khỏi danh sách thành viên của
tổ chức phụ trách bầu cử và bổ sung thành viên khác để thay thế.
Trường
hợp thành viên tổ chức phụ trách bầu cử bị chết, bị kỷ luật, bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc vì lý do khác dẫn đến khuyết thành viên tổ chức phụ trách
bầu cử so với số lượng ghi trong quyết định thành lập thì căn cứ tình hình cụ
thể của mỗi địa phương, Ủy ban nhân dân sau khi thống nhất với Thường trực Hội
đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp
quyết định thay đổi, bổ sung thành viên tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp mình
trước ngày bầu cử.
Các
luật bầu cử trước đây có quy định về chức danh Thư ký Ủy ban bầu cử, Thư ký Ban
bầu cử trong số các thành viên của Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử. Tuy nhiên, Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 không có quy
định cụ thể về chức danh này. Điều 4 của Thông tư số 01/2021/TT-BNV ngày 11
tháng 01 năm 2021 của Bộ Nội vụ hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-20261
đã nêu rõ: Người đứng đầu tổ chức phụ trách bầu cử chịu trách nhiệm phân công
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng thành viên tổ chức phụ trách bầu cử cấp
mình từ giai đoạn chuẩn bị, triển khai, tổ chức ngày bầu cử, các công việc tiến
hành sau ngày bầu cử cho đến khi kết thúc cuộc bầu cử; trong đó phân công một
thành viên làm thư ký chịu trách nhiệm quản lý tài liệu, con dấu, tổng hợp
chung công tác bầu cử của Ủy ban bầu cử và Ban bầu cử. Do đó, Ủy ban bầu cử,
Ban bầu cử có thể phân công một Phó Trưởng ban hoặc một Ủy viên thực hiện các
nhiệm vụ của Thư ký Ủy ban bầu cử, Thư ký Ban bầu cử trước đây mà không cần có
chức danh riêng cho công tác này.
Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đã quy định rõ về các tổ
chức phụ trách bầu cử ở trung ương và ở địa phương. Nhiệm vụ, quyền hạn của
từng loại tổ chức phụ trách bầu cử cũng đã được quy định rất cụ thể. Vì vậy, để
bảo đảm thống nhất và phù hợp với các quy định của pháp luật, các địa phương
không được thành lập thêm các tổ chức trung gian để tập hợp kết quả bầu cử hoặc
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác mà Luật đã quy định cho các tổ chức phụ
trách bầu cử ở địa phương.
Hội
đồng bầu cử quốc gia có quyền trưng tập cán bộ, công chức, viên chức của cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội để giúp việc cho
Hội đồng bầu cử quốc gia.
Cơ
quan có thẩm quyền thành lập tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương có quyền trưng
tập cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập để giúp thực hiện các công việc
liên quan đến tổ chức bầu cử.
Cử tri là người có quyền
bầu cử. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – là người có quốc
tịch Việt Nam, tính đến ngày bầu cử (Ngày 23 tháng 5 năm 2021), đủ 18 tuổi trở
lên và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về bầu cử đều có quyền
bầu cử.
Theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam, người được xác định có quốc
tịch Việt Nam (là công dân Việt Nam) nếu có một trong những căn cứ sau đây:
1.
Cha, mẹ đều là công dân Việt Nam, được sinh ra ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài.
2.
Cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có
mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai, được sinh ra ở Việt Nam hoặc ở
nước ngoài.
3.
Cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia là công dân nước ngoài, nếu cha
mẹ có sự thỏa thuận bằng văn bản về việc chọn quốc tịch Việt Nam vào thời điểm
đăng ký khai sinh cho con.
4.
Cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài mà được
sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam và cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn
quốc tịch cho con.
5.
Được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không
quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam.
6.
Được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có mẹ là người không quốc
tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai.
7.
Người được nhập quốc tịch Việt Nam.
8.
Người được trở lại quốc tịch Việt Nam.
9.
Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không
rõ cha mẹ là ai.
10.
Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữ
quốc tịch Việt Nam.
11.
Trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc
tịch Việt Nam, kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công
nhận việc nuôi con nuôi.
12.
Người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
Khi
có sự thay đổi về quốc tịch do nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam của
cha mẹ thì quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng với cha mẹ cũng
được thay đổi theo quốc tịch của họ (nếu người con từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của người con).
Người
đã có quốc tịch Việt Nam mà bị mất quốc tịch Việt Nam, được Chủ tịch nước quyết
định cho thôi quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt
Nam, bị tước quốc tịch Việt Nam thì không còn là công dân Việt Nam.
Người có quốc tịch Việt Nam có thể được chứng minh bằng một trong các
loại giấy tờ sau đây:
1.
Giấy khai sinh; trường hợp Giấy khai sinh không thể hiện rõ quốc tịch Việt Nam
thì phải kèm theo giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam của cha mẹ.
2.
Giấy chứng minh nhân dân, Căn cước công dân hoặc các giấy tờ có giá trị tương
đương.
3.
Hộ chiếu Việt Nam.
4.
Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt
Nam, Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước
ngoài, Quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
Công dân từ đủ 18 tuổi tính
đến Ngày bầu cử 23 tháng 5 năm 2021, tức là có ngày sinh từ ngày 23 tháng
5 năm 2003 trở về trước thì được xác định là đủ tuổi để được ghi vào
danh sách cử tri để bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
Cách tính tuổi công dân
được thực hiện như sau:
- Tuổi của công dân được
tính từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong Giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã được
ấn định (ngày 23 tháng 5 năm 2021). Trường hợp không có Giấy khai sinh thì căn
cứ vào thông tin ghi trong Sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng minh nhân dân, Căn cước
công dân, Hộ chiếu để tính tuổi thực hiện quyền bầu cử, ứng cử.
- Mỗi tuổi tròn được tính
từ ngày, tháng sinh dương lịch của năm trước đến ngày, tháng sinh dương lịch
của năm sau.
- Trường hợp không xác định
được ngày sinh thì lấy ngày 01 của tháng sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực
hiện quyền bầu cử và ứng cử. Trường hợp không xác định được ngày và tháng sinh
thì lấy ngày 01 tháng 01 của năm sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện
quyền bầu cử và ứng cử.
Những người thuộc các
trường hợp sau đây không được ghi tên vào danh sách cử tri:
- Người đang bị tước quyền
bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Người bị kết án tử hình
đang trong thời gian chờ thi hành án.
- Người đang chấp hành hình
phạt tù mà không được hưởng án treo.
- Người mất năng lực hành
vi dân sự.
Khoản 1 Điều 30 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân quy định: “Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian
chờ thi hành án, người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo,
người mất năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri”.
Như vậy, công dân đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án
kết án phạt tù nhưng được hưởng án treo, nếu không bị tước quyền bầu cử (trong
bản án không ghi hình phạt bị tước quyền bầu cử) vẫn có quyền bầu cử và được
ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi mình cư trú để tham gia bầu đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Khoản 1 Điều 30 của Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “Người đang bị
tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp
hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân
sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri”. Như vậy, những người bị kết án
phạt tù nhưng được hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù thì không được tính là đang trong thời hạn chấp hành hình phạt tù và
vẫn được ghi tên vào danh sách cử tri để thực hiện quyền bầu cử.
Khi một người do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan,
Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự
trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Người bị mất năng lực hành vi
dân sự sẽ không được thực hiện quyền ứng cử và bầu cử.
Trên thực tế, bệnh nhân tâm thần
thường không cư trú cố định ở một nơi. Mạng lưới y tế chuyên khoa hiện tại cũng
chưa phát triển rộng khắp nên chưa khám và xác định được họ. Do đó, ở địa
phương, nếu có trường hợp có biểu hiện bệnh lý tâm thần rõ rệt, thường xuyên
không làm chủ được nhận thức và hành vi thì tuy chưa có điều kiện tổ chức khám
và xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền, chưa được Tòa án tuyên bố là người
mất năng lực hành vi dân sự nhưng gia đình, người giám hộ có cam kết và chính
quyền địa phương xác nhận thì họ cũng bị coi là người mất năng lực hành vi dân
sự và không được ghi tên vào danh sách cử tri.
Người vừa câm, vừa điếc nếu không
thuộc các trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri quy định tại Điều
30 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì vẫn được
ghi tên vào danh sách cử tri để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân.
Danh sách cử tri do Ủy ban
nhân dân cấp xã lập theo khu vực bỏ phiếu (theo Mẫu số 33/HĐBC); đối với những
nơi không có đơn vị hành chính cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp huyện lập danh
sách cử tri theo từng khu vực bỏ phiếu. Danh sách cử tri trong đơn vị vũ trang
nhân dân do chỉ huy đơn vị lập theo đơn vị vũ trang nhân dân để đưa vào danh
sách cử tri của khu vực bỏ phiếu nơi đơn vị đóng quân. Việc lập danh sách cử
tri phải được hoàn thành chậm nhất là ngày 04 tháng 4 năm 2021
(50 ngày trước ngày bầu cử).
Mọi công dân có quyền bầu
cử đều được ghi tên vào danh sách cử tri và được phát Thẻ cử tri bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026 (theo Mẫu số 11/HĐBC), trừ những người đang bị tước quyền bầu cử theo
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình
đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp hành hình phạt tù mà
không được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân sự.
Mỗi công dân chỉ được ghi
tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Ủy ban nhân
dân cấp xã có trách nhiệm thông báo cho cử tri trên địa bàn đơn vị hành chính
cấp xã về việc lập danh sách cử tri theo từng khu vực bỏ phiếu. Các cử tri đang
đăng ký thường trú tại địa bàn được ghi tên vào danh sách cử tri tại nơi mình
thường trú; trường hợp cử tri có nguyện vọng bỏ phiếu ở nơi khác thì cần thông
báo lại để Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đã đăng ký thường trú biết và không
ghi tên vào danh sách cử tri ở địa phương. Trong quá trình lập danh sách cử
tri, Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ ghi vào danh sách những cử tri thuộc diện đăng
ký tạm trú ở địa phương mình nếu cử tri đó thể hiện rõ nguyện vọng được tham
gia bỏ phiếu tại nơi mình đang tạm trú (có thể bằng văn bản hoặc trực tiếp bằng
lời nói với người có trách nhiệm, ví dụ như trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố
hoặc cán bộ phụ trách công tác lập danh sách cử tri của Ủy ban nhân dân cấp
xã…).
Sau khi danh sách cử tri đã
được lập và công bố, việc thay đổi, bổ sung danh sách được thực hiện theo quy
định của Luật và văn bản quy định về các mẫu văn bản sử dụng trong bầu cử của
Hội đồng bầu cử quốc gia.
Trong trường hợp đơn vị vũ
trang nhân dân và địa phương có chung khu vực bỏ phiếu thì chỉ huy đơn vị vũ
trang nhân dân lập danh sách cử tri trong đơn vị và chuyển cho Ủy ban nhân dân
cấp xã để đưa vào danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu. Trong danh sách cử tri
(theo Mẫu số 33/HĐBC), đối với cử tri là quân nhân, cột “nghề nghiệp” ghi chung
là “lực lượng vũ trang”; cột “nơi cư trú” ghi tên đơn vị hành chính cấp xã nơi
đơn vị vũ trang nhân dân đóng quân, không ghi tên hoặc phiên hiệu đơn vị vũ
trang nhân dân; cử tri là quân nhân tham gia bầu cử tại nơi đóng quân chỉ thực
hiện việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký, đóng dấu
vào danh sách cử tri và Thẻ cử tri và chuyển lại cho đơn vị vũ trang nhân dân
để thực hiện việc niêm yết tại đơn vị và phát Thẻ cử tri cho quân nhân.
Trường hợp đơn vị vũ trang
nhân dân được xác định là khu vực bỏ phiếu riêng thì chỉ huy đơn vị vũ trang
nhân dân tổ chức việc lập danh sách cử tri, ghi Thẻ cử tri đối với các cử tri
là quân nhân trong đơn vị và chuyển cho Ủy ban nhân dân cấp xã để Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã ký, đóng dấu vào danh sách cử tri và Thẻ cử tri. Danh sách
cử tri chỉ được niêm yết trong phạm vi đơn vị vũ trang nhân dân. Quân nhân đã
đăng ký thường trú, tạm trú ở địa phương gần khu vực đóng quân có thể được chỉ
huy đơn vị cấp giấy chứng nhận để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia
bỏ phiếu ở nơi cư trú (theo Mẫu số 13/HĐBC). Khi cấp giấy chứng nhận, chỉ huy
đơn vị phải ghi ngay vào danh sách cử tri tại đơn vị vũ trang nhân dân bên cạnh
tên người đó cụm từ “Bỏ phiếu ở nơi cư trú”.
Trường hợp 01 đơn vị vũ
trang nhân dân có doanh trại đóng quân tập trung trên địa bàn của 02 đơn vị
hành chính cấp xã trở lên thì chỉ huy đơn vị trao đổi với Ủy ban nhân dân cấp
huyện nơi đơn vị đóng quân, đề nghị chỉ định Ủy ban nhân dân của 01 trong các
đơn vị hành chính cấp xã liên quan phối hợp thực hiện việc lập danh sách cử tri
và phát Thẻ cử tri cho cử tri tại đơn vị vũ trang nhân dân.
Chậm nhất là ngày 14 tháng
4 năm 2021 (40 ngày trước ngày bầu cử), Ủy ban nhân dân cấp xã đã lập danh sách cử
tri phải niêm yết danh sách đó tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và tại những
địa điểm công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời thông báo rộng rãi danh sách
cử tri và việc niêm yết để Nhân dân kiểm tra.
Tùy thuộc thời gian cư trú
hoặc quan hệ gắn bó với địa phương nơi đăng ký tham gia bầu cử mà Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đã quy định từng nhóm đối tượng
cử tri có phạm vi tham gia bầu cử không hoàn toàn giống nhau. Cụ thể là:
- Cử tri là người đăng ký
thường trú tại khu vực bỏ phiếu và cử tri là người đăng ký tạm trú, có thời gian
đăng ký tạm trú tại đơn vị hành chính cấp xã nơi có đơn vị bỏ phiếu từ đủ 12
tháng trở lên thì được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cả 3 cấp: cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã
(trừ nơi không có đơn vị hành chính cấp xã hoặc nơi thực hiện mô hình chính
quyền đô thị không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường).
- Cử tri là người đăng ký
tạm trú tại đơn vị hành chính cấp xã nơi có khu vực bỏ phiếu và có thời gian
đăng ký tạm trú chưa đủ 12 tháng thì chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri để
bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp huyện ở nơi mình tạm trú nếu có nguyện vọng tham gia bỏ phiếu
tại nơi tạm trú.
- Cử tri là người đang bị
tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm
giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
- Cử tri là người đang bị
tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri để tham
gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người
đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Cử tri vì đi nơi khác,
không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì làm
thủ tục để được bổ sung tên vào danh sách cử tri và tham gia bầu cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở nơi mình có thể tham gia bỏ
phiếu.
- Cử tri thuộc danh sách cử
tri ở các khu vực bỏ phiếu được tổ chức trên địa bàn các quận của thành phố Hồ
Chí Minh và thành phố Đà Nẵng (nơi tổ chức mô hình chính quyền đô thị không tổ
chức Hội đồng nhân dân quận, phường).
- Cử tri là người tạm trú
tại đơn vị hành chính cấp xã và có thời gian đăng ký tạm trú chưa đủ 12 tháng
chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện nơi mình đang tạm trú.
- Cử tri là quân nhân ở các
đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện ở nơi tạm
trú hoặc đóng quân.
- Công dân Việt Nam ở nước
ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã
được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ thì làm thủ tục để
được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi tạm trú và tham gia bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
- Người chuyển đến tạm trú
ở nơi khác với đơn vị hành chính cấp xã mà mình đã được ghi tên vào danh sách
cử tri và có nguyện vọng tham gia bầu cử ở nơi tạm trú mới thì được xóa tên
trong danh sách cử tri ở nơi cư trú cũ và bổ sung vào danh sách cử tri tại nơi
tạm trú mới để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện.
- Cử tri thuộc danh sách cử
tri ở các khu vực bỏ phiếu được tổ chức trên địa bàn thành phố Thủ Đức, địa bàn
các quận, thị xã của thành phố Hà Nội (nơi thực hiện mô hình chính quyền đô thị
không tổ chức Hội đồng nhân dân phường).
Cử tri được tham gia bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã khi
thuộc các trường hợp sau đây:
- Cử tri là người thường
trú tại đơn vị hành chính cấp xã nơi có khu vực bỏ phiếu.
- Cử tri là người tạm trú
tại đơn vị hành chính cấp xã nơi có khu vực bỏ phiếu và có thời gian đăng ký
tạm trú từ đủ 12 tháng trở lên.
- Công dân Việt Nam ở nước
ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã
được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ đã làm thủ tục để
được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi thường trú.
- Người đang bị tạm giam,
tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ mà được trả
tự do hoặc đã hết thời gian giáo dục bắt buộc, cai nghiện bắt buộc và đã làm
thủ tục để được xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi có trại tạm giam, cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc và được bổ sung vào danh sách cử
tri tại nơi thường trú.
Khoản 5 Điều 29 của Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “Cử tri là
người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri
để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người đó
đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Như vậy, quy định này chỉ áp dụng đối với cử
tri là người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Đối với cử tri là người tự
nguyện xin vào cai nghiện, chữa trị tại cơ sở cai nghiện bắt buộc thì việc bảo đảm
thực hiện quyền bầu cử được xác định như đối với cử tri là người tạm trú quy
định tại khoản 3 Điều 29 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân. Theo đó, nếu đến trước ngày bầu cử những cử tri này trở về nơi thường
trú thì được bổ sung tên vào danh sách cử tri ở nơi thường trú để bầu đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân ở cả ba cấp tỉnh, huyện, xã. Trường hợp
đến ngày bầu cử họ vẫn đang thực hiện việc cai nghiện, chữa trị ở cơ sở cai
nghiện, nếu thời gian từ khi bắt đầu cai nghiện, chữa trị tại cơ sở đến ngày
bầu cử chưa đủ 12 tháng thì những cử tri này được tham gia bầu đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; nếu thời gian từ khi bắt
đầu cai nghiện, chữa trị tại cơ sở đến ngày bầu cử là từ đủ 12 tháng trở lên
thì họ được tham gia bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ở cả
ba cấp tại khu vực bỏ phiếu nơi có cơ sở cai nghiện.
Về nguyên tắc, mọi công dân
có quyền bầu cử đều được ghi tên vào danh sách cử tri và được phát Thẻ cử tri
để thực hiện quyền bầu cử. Mỗi công dân chỉ được ghi tên vào một danh sách cử
tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Trên thực tế, ở một số địa phương, nhất
là các tỉnh khu vực Tây Nguyên đang có một số lượng khá lớn người di cư tự do
sinh sống thực tế trên địa bàn nhưng chưa thể hoàn thành thủ tục đăng ký thường
trú, đăng ký tạm trú với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương do nhiều
lý do khác nhau (ví dụ như chưa có chỗ ở hợp pháp, chưa hoàn thành thủ tục hành
chính hoặc không thực hiện việc đăng ký do không hiểu luật…). Do đó, để bảo đảm
quyền bầu cử của cử tri là người di cư tự do, tránh gây phiền hà cho cử tri
trong việc thực hiện quyền cơ bản của công dân, thì theo hướng dẫn của Hội đồng
bầu cử quốc gia từ cuộc bầu cử năm 2016, Ủy ban nhân dân cấp xã cần thông tin
cho cử tri trên địa bàn biết về cách thức thực hiện quyền bầu cử và việc lập
danh sách cử tri để cử tri quyết định nơi mình đăng ký thực hiện quyền bầu cử
(có thể là trở về nơi họ đang đăng ký thường trú hoặc tạm trú). Trường hợp cử
tri vẫn có nguyện vọng được thực hiện việc bầu cử tại địa phương nơi họ đang
thực tế sinh sống thì địa phương tạo điều kiện để ghi tên những cử tri này vào
danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu tương ứng nơi họ đang thực tế sinh sống
và thực hiện quyền bầu cử như đối với cử tri là người tạm trú, có thời gian
đăng ký tạm trú chưa đủ 12 tháng (do không có cơ sở để xác định thời gian bắt
đầu cư trú tại địa phương).
Ủy ban nhân dân cấp xã tổ
chức để cử tri là người di cư tự do chưa đăng ký thường trú hoặc tạm trú tham
gia bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu của địa phương được xác định trên cơ sở các
thôn, bản, cụm dân cư hiện có trên địa bàn.
Trường hợp cử tri đã đăng
ký thường trú ở địa phương, nếu đã làm thủ tục khai báo tạm vắng trước khi đi
lao động, học tập tại địa phương khác thì được coi là không thường trú tại địa
phương. Ủy ban nhân dân cấp xã tại nơi công dân đăng ký thường trú không ghi
tên công dân đó vào danh sách cử tri. Trong trường hợp này, công dân có quyền
đăng ký để được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi mình đang tạm trú và thực
hiện quyền bầu cử tại nơi tạm trú.
Trường hợp cử tri trở về
nơi thường trú trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm
yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ thì đến Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi đăng ký thường trú để đề nghị được bổ sung tên vào danh sách cử tri và nhận
Thẻ cử tri bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện, cấp xã.
Trường hợp công dân đã đăng
ký thường trú ở địa phương nhưng chưa làm thủ tục khai báo tạm vắng trước khi
đi lao động, học tập tại địa phương khác thì dù trên thực tế đã vắng mặt dài
ngày ở nơi thường trú, Ủy ban nhân dân cấp xã vẫn phải ghi tên công dân đó vào
danh sách cử tri để họ thực hiện quyền bầu cử ở địa phương, trừ trường hợp bản
thân cử tri hoặc người thân của cử tri đó đã thông báo nguyện vọng của cử tri
về việc không tham gia bỏ phiếu ở nơi thường trú. Đồng thời cần có có biện pháp
thông tin phù hợp để cử tri biết về việc danh sách cử tri và thực hiện quyền
bầu cử của mình.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đã quy định: “Mỗi công dân chỉ được ghi tên
vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú”. Như vậy, về
nguyên tắc, cử tri là sinh viên, công nhân cần đăng ký để được ghi tên vào danh
sách cử tri nơi mình thường trú hoặc tạm trú.
Trường hợp trường đại học,
cao đẳng hoặc khu công nghiệp được thành lập khu vực bỏ phiếu riêng thì cử tri
là cán bộ, giáo viên, sinh viên, công nhân không thường trú hoặc tạm trú trong
khu ký túc xá hoặc khu nhà ở tập trung của khu công nghiệp mà có nguyện vọng
tham gia bầu cử tại khu vực bỏ phiếu nơi có trường đại học, cao đẳng hoặc khu
công nghiệp (để thuận lợi hơn cho công việc và sinh hoạt của bản thân) có quyền
xin cấp giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đã có tên trong
danh sách cử tri (theo Mẫu số 12/HĐBC) để được bổ sung vào danh sách cử tri
tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
theo khu vực bỏ phiếu mới.
Từ khi niêm yết danh sách
cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia
bỏ phiếu ở nơi mình đã được ghi tên vào danh sách cử tri (ví dụ như đi công
tác, đi học, du lịch, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, thăm thân…) thì có thể xin giấy
chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đã có tên trong danh sách cử tri
(theo Mẫu số 12/HĐBC) để được bổ sung tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ
phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở nơi mình có
thể tham gia bỏ phiếu. Khi cấp giấy chứng nhận, Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi
ngay vào danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu thuộc địa phương mình bên cạnh
tên cử tri cụm từ “Bỏ phiếu ở nơi khác”.
Trường hợp người đã được
ghi tên vào danh sách cử tri ở 01 khu vực bỏ phiếu nhưng gần đến ngày bầu cử
được chuyển đi cách ly y tế tập trung ở địa phương khác cho đến hết ngày bầu cử
theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và không thể thực hiện thủ tục xin
cấp giấy chứng nhận để đi bỏ phiếu ở nơi khác như đã nêu ở trên thì Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi đã lập danh sách cử tri có trách nhiệm nắm thông tin, chủ động
cấp giấy chứng nhận và gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở cách ly tập
trung để đề nghị bổ sung người này vào danh sách cử tri và cấp Thẻ cử tri mới
nhằm giúp họ thực hiện quyền bầu cử theo quy định của pháp luật. Ủy ban nhân
dân nơi đã lập danh sách cử tri ban đầu có trách nhiệm cập nhật vào danh sách
cử tri cùng dòng với họ và tên của người bị đưa đi cách ly tập trung nội dung
ghi chú “bỏ phiếu ở nơi khác do cách ly y tế”.
Từ sau khi danh sách cử tri
đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, việc điều chỉnh,
bổ sung danh sách cử tri ở khu vực bỏ phiếu được thực hiện trong các trường hợp
sau đây:
- Người thay đổi nơi thường
trú ra ngoài đơn vị hành chính cấp xã nơi mình đã được ghi tên vào danh sách cử
tri thì được xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi thường trú cũ và bổ sung vào
danh sách cử tri tại nơi thường trú mới để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; những người chuyển đến
tạm trú ở nơi khác với đơn vị hành chính cấp xã mà mình đã được ghi tên vào
danh sách cử tri và có nguyện vọng tham gia bầu cử ở nơi tạm trú mới thì được
xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi cư trú cũ và bổ sung vào danh sách cử tri
tại nơi tạm trú mới để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Khi xóa tên cử tri trong danh sách cử tri và cấp
Giấy chứng nhận để cử tri đi bỏ phiếu ở nơi khác, Ủy ban nhân dân cấp xã phải
ghi ngay vào danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu thuộc địa phương mình bên
cạnh tên cử tri cụm từ “Bỏ phiếu ở nơi khác”.
- Người bị tước quyền bầu
cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án
tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp hành hình phạt tù
mà không được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu đến trước
thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả lại
tự do hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất
năng lực hành vi dân sự thì tùy theo
nguyện vọng của bản thân mà được bổ sung vào danh sách cử tri tại nơi
đăng ký thường trú để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã hoặc được bổ sung vào danh sách cử tri tại nơi
đăng ký tạm trú để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện.
- Công dân Việt Nam
từ nước ngoài trở về trong khoảng thời gian nói trên, nếu chưa được ghi tên vào
danh sách cử tri ở khu vực bỏ phiếu nào thì đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình
đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú tùy theo nguyện vọng của bản thân, xuất
trình hộ chiếu để được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (nếu xuất trình tại nơi
đăng ký thường trú) hoặc bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện (nếu xuất trình tại nơi đăng ký tạm trú).
- Cử tri nào vì đi nơi
khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri
thì có quyền xin giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đã có tên
trong danh sách cử tri để được bổ sung tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ
phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở nơi mình có
thể tham gia bỏ phiếu. Khi cấp giấy chứng nhận, Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi
ngay vào danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu thuộc địa phương mình bên cạnh
tên cử tri cụm từ “Bỏ phiếu ở nơi khác”.
- Người đã có tên trong
danh sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị Tòa án tước quyền bầu cử,
phải chấp hành hình phạt tù hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì Ủy ban nhân dân
cấp xã xóa tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi Thẻ cử tri.
Khác với trước đây, Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 không quy định
về việc bổ sung cử tri vãng lai vào danh sách cử tri ngay tại phòng bỏ phiếu
trong ngày bầu cử. Do đó, về nguyên tắc, những thay đổi liên quan đến cử tri
(như từ nước ngoài trở về Việt Nam, thay đổi nơi thường trú, được trả tự do,…)
sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết phải được thông báo cho Ủy ban nhân
dân cấp xã trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, trừ trường hợp bị xóa tên
trong danh sách cử tri thì tính đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu. Đối với cử tri
đã được cấp giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc chỉ huy đơn vị vũ
trang nhân dân nơi mình đã có tên trong danh sách cử tri để được bổ sung tên
vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh nơi mình có thể tham gia bỏ phiếu (theo Mẫu số 12/HĐBC
hoặc Mẫu số 13/HĐBC) thì việc bổ sung tên vào danh sách cử tri ở nơi mới
cũng được tính đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu. Sau thời điểm bắt đầu bỏ
phiếu thì Ủy ban nhân dân cấp xã không thực hiện việc bổ sung danh sách cử tri
nữa. Trong các biên bản kết quả kiểm phiếu của Tổ bầu cử (theo Mẫu số
20/HĐBC-QH và Mẫu số 25/HĐBC-HĐND), thì tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu
được xác định là số cử tri trong danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu được cập
nhật đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu.
Trong quá trình nắm thông
tin địa bàn, tiếp nhận yêu cầu, kiến nghị của cử tri để lập, điều chỉnh, bổ
sung danh sách cử, cán bộ thực hiện việc lập danh sách cần ghi chú rõ một số nội
dung sau đây:
- Đối với cử tri là người
đăng ký tham gia bỏ phiếu ở nơi tạm trú, cần ghi chú cụ thể thời điểm bắt đầu
tạm trú tại địa bàn. Nếu đã tạm trú từ năm 2019 trở về trước thì chỉ cần ghi
năm bắt đầu tạm trú; nếu tạm trú từ năm 2020 trở về đây thì ghi rõ tháng, năm
bắt đầu đăng ký tạm trú để làm cơ sở xác định số cấp đại biểu Hội đồng nhân dân
mà cử tri được tham gia bỏ phiếu bầu cử.
- Đối với cử tri là người
đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc thì ghi chú rõ là “người đang bị tạm
giam”, “người đang bị tạm giữ” hoặc “người đang chấp hành biện pháp … (ghi tên
biện pháp xử lý hành chính)”.
- Đối với cử tri là người ốm đau, già yếu,
khuyết tật không thể trực tiếp đi bỏ phiếu; người đang bị cách ly y tế tập
trung tại các cơ sở điều trị Covid-19 hoặc các địa điểm cách ly y tế tập trung
khác và người đang bị cách ly y tế tại nhà để thực hiện phòng, chống dịch bệnh
thì cần ghi chú rõ để dự trù, có kế hoạch đưa hòm phiếu phụ và phiếu bầu cử đến
để những cử tri này được thực hiện quyền bầu cử.
- Đối với cử tri có tên
trong danh sách nhưng đã được cấp giấy chứng nhận để tham gia bỏ phiếu ở nơi
khác thì phải ghi chú rõ “Bỏ phiếu ở nơi khác”; cử tri là quân nhân trong danh
sách cử tri tại đơn vị vũ trang nhân dân đã xin cấp giấy chứng nhận để tham gia
bỏ phiếu ở nơi cư trú thì ghi chú rõ “Bỏ phiếu ở nơi cư trú” để không tính vào
tổng số cử tri ở đơn vị bầu cử nữa.
Khi kiểm tra danh sách cử
tri, nếu thấy có sai sót thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày niêm yết, công
dân có quyền khiếu nại với cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ quan lập danh sách
cử tri phải ghi vào sổ những khiếu nại đó. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày
nhận được khiếu nại, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết và thông báo
cho người khiếu nại biết kết quả giải quyết.
Trường hợp người khiếu nại
không đồng ý về kết quả giải quyết khiếu nại hoặc hết thời hạn giải quyết mà
khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp
huyện nơi có cơ quan lập danh sách cử tri.
Thời hiệu khởi kiện được
quy định tại Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính như sau: Từ ngày nhận được thông báo kết quả
giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn
giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại
của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày.
Ngay sau khi nhận được đơn
khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán thụ lý ngay vụ án. Trong
thời hạn 02 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án
phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc đình chỉ vụ án và trả lại đơn kiện.
Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án
phải mở phiên toà xét xử. Bản án, quyết định đình chỉ vụ án giải quyết khiếu
kiện về danh sách cử tri có hiệu lực thi hành ngay. Đương sự không có quyền
kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân không có quyền kháng nghị. Tòa án phải gửi
ngay bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án cho đương sự và Viện kiểm sát nhân
dân cùng cấp.
Căn cứ vào Nghị quyết số
41/NQ-HĐBCQG ngày 18 tháng 01 năm 2021 của Hội đồng bầu cử quốc gia hướng dẫn
mẫu hồ sơ ứng cử, mẫu phiếu bầu cử, nội quy phòng bỏ phiếu và các mẫu văn bản
sử dụng trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 (tại Mẫu số 11/HĐBC và Mẫu số 33/HĐBC), thì
trong danh sách cử tri lập theo từng khu vực bỏ phiếu, họ và tên cử tri
xếp theo hộ gia đình hoặc theo tổ chức, đơn vị nơi cử tri đăng ký tham gia bỏ
phiếu (ví dụ bệnh viện, nhà an dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, đơn vị vũ trang
nhân dân,…). Trường hợp danh sách lập theo hộ gia đình thì tên chủ hộ xếp lên
đầu; các hộ xếp theo thứ tự từ đầu xóm đến cuối xóm (ở nông thôn), từ đầu phố
đến cuối phố (ở thành thị) hoặc theo một thứ tự thích hợp với đặc điểm của địa
phương. Số Thẻ cử tri được
ghi theo số thứ tự của cử tri trong danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu tương ứng.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cùng các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn
của Hội đồng bầu cử quốc gia không quy định cụ thể việc ghi họ và tên cử tri
trên Thẻ cử tri và danh sách cử tri bằng chữ in hoa hay in thường. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện, tùy tình hình thực tế địa phương có thể hướng dẫn
ghi họ và tên cử tri trong Thẻ cử tri và Danh sách cử tri bằng chữ in hoa hoặc
chữ in thường, nhưng phải bảo đảm chính xác, rõ ràng, đầy đủ các nội dung theo
hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia tại Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG ngày 18
tháng 01 năm 2021.
Người được
giới thiệu ứng cử là cán bộ, công
chức, viên chức, sĩ quan lực lượng vũ trang hoặc người lao động tiêu biểu, xuất
sắc đang công tác tại các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân
dân hoặc thành viên tiêu biểu của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,
người của thôn, tổ dân phố bảo đảm đủ tiêu chuẩn, điều kiện ứng cử đại biểu
Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của Luật Tổ chức Quốc
hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và được các cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc thôn, tổ dân phố (đối với ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã) lựa
chọn theo thủ tục nhất định để giới thiệu ra ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân và đã hoàn thành việc nộp hồ sơ ứng cử theo đúng quy
định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Người tự
ứng cử là người tự thấy mình có đủ tiêu chuẩn, điều kiện ứng cử đại biểu
Quốc hội hay đủ tiêu chuẩn, điều kiện ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo
quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, có
nguyện vọng ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và
đã hoàn thành việc nộp hồ sơ ứng cử theo đúng quy định của Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội,
tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội và
Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Theo các quy định mới được sửa đổi, bổ
sung của 02 đạo luật nói trên thì đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
phải có các tiêu chuẩn sau đây:
- Trung thành với Tổ quốc, Nhân
dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Có một quốc tịch là quốc tịch
Việt Nam.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh,
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách
dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn hóa, chuyên
môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện
nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân,
lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.
- Có điều kiện tham gia các hoạt
động của Quốc hội, hoạt động của Hôi đồng nhân dân.
Người tự ứng
cử, người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân của địa phương nào
thì phải là người đang cư trú hoặc công tác thường xuyên ở địa phương đó.
Ngoài ra, đối với người được giới
thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đang công tác tại cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp
nhà nước ngoài việc đảm bảo các tiêu chuẩn chung còn phải là cán bộ, công chức,
viên chức, người lao động tiêu biểu, xuất sắc; có quan điểm, lập trường chính
trị vững vàng, có năng lực phân tích, hoạch định chính sách, xây dựng pháp
luật, có chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn phù hợp với vị trí dự kiến, thể hiện
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, không vi phạm quy định về những
điều đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức không được làm.
Đối với người được giới thiệu ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đang công tác tại cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh
nghiệp nhà nước nói chung phải là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động
tiêu biểu; có tư tưởng chính trị vững vàng; có năng lực xây dựng chính sách và
khả năng tổ chức hoạt động giám sát, có chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn phù
hợp với vị trí dự kiến; thể hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
không vi phạm quy định về những điều đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức
không được làm.
Không giới thiệu và đưa vào danh
sách ứng cử người có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực; có tư
tưởng cục bộ, bảo thủ, trì trệ; đang bị thanh tra, kiểm tra dấu hiệu vi phạm;
người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham nhũng, lãng
phí, mất đoàn kết; những người vi phạm Quy định số 126-QĐ/TW ngày 28 tháng 02
năm 2018 của Bộ Chính trị hoặc có vấn đề về chính trị chưa được kết luận. Kiên
quyết không để lọt những người không xứng đáng, những người chạy chức, chạy
quyền tham gia Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Ngoài các tiêu chuẩn chung nói
trên, người được giới thiệu ứng cử để làm làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân hoạt động chuyên trách còn cần đáp ứng thêm một số tiêu chuẩn cao
hơn về trình độ chuyên môn, vị trí công tác đang đảm nhiệm, về tình hình sức
khỏe và độ tuổi ứng cử, tái cử (nêu cụ thể tại Hướng dẫn số 36-HD/BTCTW ngày 20
tháng 01 năm 2021).
Những người
không được ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân gồm có:
- Người chưa đủ 21 tuổi.
- Người đang bị tước
quyền ứng cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người
đang chấp hành hình phạt tù, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
- Người đang bị khởi tố
bị can.
- Người đang chấp hành
bản án, quyết định hình sự của Tòa án.
- Người đã chấp hành
xong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhưng chưa được xóa án tích.
- Người đang chấp hành
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Luật số 47/2019/QH14 và Luật số 65/2020/QH14 đã bổ
sung vào quy định về tiêu chuẩn đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân nội dung: “Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. Theo đó, căn cứ
vào Luật Quốc tịch Việt Nam, người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam
được xác định theo các căn cứ quy định tại Chương II của Luật này. Người có 01
quốc tịch là quốc tịch Việt Nam phải là người không đồng thời có quốc tịch của
một quốc gia khác. Về nguyên tắc, người đang có quốc tịch nước ngoài, người có
nguyện vọng và đang thực hiện thủ tục xin gia nhập quốc tịch của quốc gia khác
đều không đủ điều kiện để ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp.
Thực tế, đây không phải là quy định hoàn toàn mới mà
là nội dung đã được thể hiện nhất quán trong Hiến pháp cũng như trong các quy
định và thực tiễn công tác bầu cử từ trước đến nay. Việc quy định rõ thành một
tiêu chuẩn cụ thể trong các luật nói trên là nhằm khẳng định rõ hơn quan điểm
của Đảng, Nhà nước và tạo sự minh bạch, rõ ràng trong áp dụng pháp luật.
Do đó, trong phần khai về quốc tịch trong đơn ứng cử
và các tài liệu khác trong hồ sơ ứng cử, Hội đồng bầu cử quốc gia đã hướng dẫn
người ứng cử cần ghi rõ: “Chỉ
có 01 quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và không trong thời gian thực hiện thủ
tục xin gia nhập quốc tịch quốc gia khác”. Người ứng cử phải cam
đoan về các nội dung mình đã khai. Nếu phát hiện thông tin không đúng sự thật,
không như nội dung đã kê khai thì người ứng cử phải hoàn toàn chịu trách nhiệm
và tùy theo nội dung, mức độ vi phạm mà có thể bị loại khỏi danh sách người ứng
cử; nếu đã trúng cử thì sẽ không được công nhận tư cách đại biểu hoặc bị bãi
nhiệm đại biểu.
Công dân chỉ được nộp
hồ sơ ứng cử làm đại biểu Hội đồng nhân dân tối đa ở 02 cấp trong cùng một
nhiệm kỳ; nếu đã nộp hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội thì chỉ được nộp thêm hồ sơ
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở 01 cấp nữa.
Trường hợp người ứng cử
vi phạm quy định nói trên (ví dụ như nộp đơn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cả ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã) thì sẽ bị coi là có vi phạm nghiêm trọng
pháp luật về bầu cử và bị xóa tên trong Danh sách chính thức những người ứng cử
đại biểu Quốc hội, Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân ở tất cả các cấp mà người đó đã nộp hồ sơ ứng cử; nếu sau khi có kết
quả bầu cử mới bị phát hiện thì không được công nhận tư cách đại biểu ở tất cả
các cấp mà người đó đã trúng cử.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân không được làm thành viên Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử
ở đơn vị bầu cử hay khu vực bỏ phiếu nơi mình có tên trong Danh sách chính thức
những người ứng cử; nếu đã là thành viên của Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị
mình ứng cử thì người ứng cử phải rút ra khỏi danh sách thành viên của tổ chức
phụ trách bầu cử đó kể từ ngày được ghi tên vào Danh sách chính thức những
người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử.
Hồ
sơ ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân gồm có:
- Đơn ứng cử.
- Sơ yếu lý lịch có đóng dấu giáp lai và xác
nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người ứng cử công tác hoặc Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi người ứng cử cư trú.
- Tiểu sử tóm tắt.
- Mỗi bộ hồ sơ ứng cử của
người ứng cử gửi kèm theo 03 ảnh chân dung màu, nền trắng, cỡ 4cm x 6cm (không
kể ảnh dán trên Sơ yếu lý lịch và Tiểu sử tóm tắt). Ảnh chân dung của người ứng cử là ảnh được chụp trong thời gian 06 tháng tính
đến ngày nộp hồ sơ ứng cử. Trong Sơ yếu lý lịch, Tiểu sử tóm tắt, ảnh của người
ứng cử phải được dán đúng vị trí quy định và được đóng dấu giáp lai của cơ
quan, tổ chức, đơn vị nơi người ứng cử công tác hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
người ứng cử cư trú.
- Bản kê khai tài sản,
thu nhập theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Người ứng cử thực hiện việc kê khai các nội dung
đầy đủ, chính xác theo hướng dẫn trong các mẫu văn bản thuộc hồ sơ ứng cử ban
hành kèm theo Nghị quyết số 41/NQ-HĐBC của Hội đồng bầu cử quốc gia. Việc kê
khai có thể thực hiện bằng cách viết tay hoặc đánh máy nhưng phải bảo đảm đúng
theo các mẫu văn bản thuộc hồ sơ ứng cử do Hội đồng bầu cử quốc gia ban hành.
Người ứng cử ký vào từng trang văn bản của hồ sơ ứng cử.
Theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân dân thì trong hồ sơ ứng cử không bao gồm giấy khám sức
khỏe. Trong hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia ở các mẫu Sơ yếu lý lịch và
Tiểu sử tóm tắt của người ứng cử (các mẫu số 02, 03/HĐBC-QH và 07,
08/HĐBC-HĐND) đều có các mục kê khai thể hiện cụ thể các nội dung liên quan đến
tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (trong
đó có mục “Tình trạng sức khỏe”) để người ứng cử tự kê khai và cam kết chịu
trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung mình đã kê khai trong hồ sơ ứng
cử. Do đó, khi nộp hồ sơ ứng cử, người ứng cử (gồm người được giới thiệu ứng cử
và người tự ứng cử) không phải nộp kèm theo giấy khám sức khỏe.
Hướng dẫn số 36-HD/BTCTW ngày 20 tháng 01 năm 2021 của
Ban Tổ chức trung ương có nêu yêu cầu về tiêu chuẩn sức khỏe là để áp dụng
riêng đối với các trường hợp được giới thiệu ứng cử để làm đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách. Theo đó, người được giới
thiệu ứng cử phải được cơ quan y tế có thẩm quyền chứng nhận đủ sức khỏe trong
thời gian không quá 06 tháng tính đến tháng 5 năm 2021, cụ thể là đối với cán
bộ ở các cơ quan trung ương do Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trung ương
hướng dẫn, xác định cơ sở y tế để khám sức khỏe; đối với cán bộ ở địa phương do
Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh ủy, thành ủy hướng dẫn, xác định cơ
sở y tế để khám sức khỏe. Kết quả khám sức khỏe này sẽ làm căn cứ cho các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế sử dụng trong quá
trình xem xét, lựa chọn nhân sự, giới
thiệu người của cơ quan, tổ chức, đơn
vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân để hoạt động
chuyên trách tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong nhiệm kỳ 2021-2026. Khi
đã được cơ quan, tổ chức, đơn vị thống nhất giới thiệu ra ứng cử thì người được
giới thiệu ứng cử thực hiện việc lập và nộp hồ sơ với các thành phần tài liệu theo
đúng quy định tại Điều 35 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân và Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG của Hội đồng bầu cử quốc gia.
Chậm nhất là ngày 14 tháng 3 năm 2021 (70 ngày trước ngày bầu cử), người ứng cử
đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (bao gồm cả người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng
cử) phải hoàn thành việc nộp hồ sơ ứng cử.
Việc nộp hồ sơ ứng cử đại
biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 được thực
hiện như sau:
- Người được tổ chức chính
trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân
dân, cơ quan nhà nước ở trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội nộp 02
bộ hồ sơ ứng cử tại Hội đồng bầu cử quốc gia (qua Tổ giúp việc Tiểu ban Nhân sự
của Hội đồng bầu cử quốc gia, địa chỉ: Nhà Quốc hội, số 01 đường Độc Lập, quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội).
- Người được cơ quan, tổ
chức, đơn vị ở địa phương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội và người tự ứng
cử đại biểu Quốc hội nộp 02 bộ hồ sơ ứng cử tại Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương nơi mình cư trú hoặc công tác thường xuyên.
- Người ứng cử được cơ quan, tổ chức, đơn vị, thôn,
tổ dân phố giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và người tự ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân nộp 01 bộ hồ sơ ứng cử tại Ủy ban bầu cử ở đơn vị hành
chính mà mình ứng cử.
Ủy ban bầu cử các cấp có trách nhiệm thông báo công
khai về địa điểm và thời gian tiếp nhận hồ sơ ứng cử trên các phương tiện thông
tin đại chúng ở địa phương.
Trường hợp người ứng cử không tự mình đến nộp hồ sơ
ứng cử được thì có thể ủy quyền cho người đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị của
người ứng cử đến nộp hồ sơ cho mình; người đại diện phải có giấy giới thiệu của
cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
Thời hạn nhận hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội khóa
XV và hồ sơ ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 là trong giờ
hành chính các ngày trong tuần, bắt đầu từ ngày 22 tháng 02 năm 2021 và kết
thúc vào 17 giờ 00 ngày 14 tháng 3 năm 2021. Riêng thứ Bảy, ngày 13
tháng 3 năm 2021 và Chủ nhật, ngày 14 tháng 3 năm 2021, Tiểu ban Nhân sự của
Hội đồng bầu cử quốc gia và Ủy ban bầu cử các cấp cử người trực để nhận hồ sơ
ứng cử.
Người được phân công tiếp nhận hồ sơ ứng cử có trách
nhiệm nhận, kiểm tra kỹ hồ sơ; nếu các tài liệu trong hồ sơ đã đầy đủ, ghi đủ
thông tin theo đúng yêu cầu trong mẫu và hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia
thì điền thông tin vào Sổ tiếp nhận và Giấy biên nhận; ký và giao Giấy biên
nhận cho người nộp hồ sơ ứng cử.
1. Đối với hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội:
Hội đồng bầu cử quốc gia có trách nhiệm tổ chức việc
tiếp nhận hồ sơ ứng cử của người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ ứng cử của người được tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, tổ chức kinh tế ở địa phương giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử đại
biểu Quốc hội.
Sau khi nhận và xem xét hồ sơ của những người ứng cử,
nếu thấy hợp lệ theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân thì Hội đồng bầu cử quốc gia chuyển danh sách trích ngang lý
lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài sản, thu nhập của người được
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đến Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam; Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
chuyển 01 bộ hồ sơ ứng cử của người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử đại
biểu Quốc hội tại địa phương đến Hội đồng bầu cử quốc gia và chuyển danh sách
trích ngang lý lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt, bản kê khai tài sản, thu nhập của
người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử tại địa phương đến Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh để đưa vào danh sách hiệp
thương.
2. Đối với hồ sơ ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân:
Ủy ban bầu cử ở cấp nào thì có trách nhiệm tiếp nhận
hồ sơ ứng cử của người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế và
thôn, tổ dân phố (đối với cấp xã) giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử đại biểu
Hội đồng nhân dân ở cấp đó.
Sau khi nhận và xem xét hồ sơ của những người tự ứng
cử, người được cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân, nếu thấy hợp lệ theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân thì Ủy ban bầu cử chuyển danh sách trích ngang lý
lịch, bản sao tiểu sử tóm tắt và bản kê khai tài sản, thu nhập của những người
ứng cử đến Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp để đưa vào
danh sách hiệp thương.
Chậm
nhất là ngày 23 tháng 4 năm 2021
(30 ngày trước ngày bầu cử), Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam phải gửi biên bản Hội nghị hiệp thương lần thứ ba kèm theo Danh sách
những người đủ tiêu chuẩn được Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đến Hội đồng bầu cử quốc gia; Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh gửi biên bản Hội nghị
hiệp thương lần thứ ba và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử được Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội tại
địa phương đến Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Căn
cứ vào danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội được Đoàn
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, Hội đồng bầu
cử quốc gia gửi đến Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương danh
sách và 01 bộ hồ sơ của người do cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương giới
thiệu ứng cử được dự kiến về ứng cử tại địa phương để Ủy ban bầu cử dự kiến
danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo đơn vị bầu cử trên địa bàn
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và gửi danh sách này đến Hội đồng bầu cử
quốc gia để xem xét, quyết định việc lập Danh sách chính thức những người ứng
cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử.
Trên cơ sở danh sách giới
thiệu của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và dự kiến bố trí người ứng cử đại
biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử do các địa phương gửi đến, Hội đồng bầu
cử quốc gia lập và công bố Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu
Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước chậm nhất là ngày 27 tháng 4 năm
2021 (25 ngày trước ngày bầu cử).
Ủy
ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải công bố danh sách
người ứng cử đại biểu Quốc hội ở địa phương mình theo quyết định của Hội đồng
bầu cử quốc gia chậm nhất là ngày 03 tháng 5 năm 2021 (20 ngày trước ngày bầu
cử); đồng thời, các Tổ bầu cử có trách nhiệm niêm yết ngay Danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội ở khu vực bỏ phiếu mà mình phụ trách kèm
theo tiểu sử tóm tắt của từng người để cử tri nắm được thông tin.
Chậm
nhất là ngày 23 tháng 4 năm 2021
(30 ngày trước ngày bầu cử), Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã gửi biên bản Hội nghị hiệp thương lần thứ ba và
danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình đến Ủy ban bầu cử
cùng cấp.
Trên cơ sở danh sách giới
thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Ủy ban bầu cử ở từng đơn vị hành chính lập và công bố Danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình theo từng đơn vị bầu cử
chậm
nhất là ngày 27 tháng 4 năm 2021 (25 ngày trước ngày bầu cử).
Trên
cơ sở quyết định của các Ủy ban bầu cử, Tổ bầu cử có trách nhiệm niêm yết ngay
Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở khu vực bỏ
phiếu mà mình phụ trách kèm theo tiểu sử tóm tắt của từng người chậm
nhất là ngày 03 tháng 5 năm 2021 (20 ngày trước ngày bầu cử) để cử tri
nắm được thông tin.
Như vậy, trên cơ sở danh sách những
người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân do Ban Thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hiệp thương gửi đến, Ủy ban bầu cử các
cấp phải lập và công bố danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân theo từng đơn vị bầu cử. Khi chuyển danh sách cho Ủy ban bầu cử,
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phải bảo đảm những người
trong danh sách đã đủ điều kiện, tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
làm cơ sở cho Ủy ban bầu cử lập danh sách chính thức những người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân. Ủy ban bầu cử không có thẩm quyền loại bớt người đã có
tên trong danh sách hoặc bổ sung người không có tên trong danh sách do Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chuyển đến, trừ trường hợp phát
hiện ra người ứng cử thuộc đối tượng bị xóa tên do không đủ tiêu chuẩn, điều
kiện ứng cử đại biểu hoặc trường hợp người ứng cử chết hay vì lý do khác không
thể tiếp tục ứng cử được nữa.
Danh
sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, quốc tịch, dân tộc,
tôn giáo, quê quán, nơi ở hiện nay, trình độ, nghề nghiệp, chức vụ, nơi công
tác của người ứng cử và một số thông tin bổ sung khác (như ngày vào Đảng, là
đại biểu Quốc hội hay đại biểu Hội đồng nhân dân các khóa nào chưa…). Danh sách
những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo
từng đơn vị bầu cử được xếp theo vần chữ cái A, B, C...
Tổ chức phụ trách bầu cử cần ghi đúng họ và tên đã khai trong hồ sơ của
người ứng cử. Trường hợp họ và tên khai sinh của người ứng cử khác với họ và
tên thường dùng hoặc người ứng cử có chức vị, pháp danh, pháp hiệu theo tôn
giáo thì tại phần ghi họ và tên người ứng cử trong danh sách người ứng cử, họ
và tên khai sinh được viết trước, họ và tên thường dùng hoặc chức vị, pháp danh
theo tôn giáo viết sau và được đặt trong dấu ngoặc đơn; không cần ghi bí danh
hoặc các tên gọi khác chỉ sử dụng trong phạm vi hẹp hoặc đã lâu không còn sử
dụng. Ví dụ: người ứng cử có tên thường dùng là Nguyễn Văn, tên khai sinh là
Nguyễn Văn A thì tên ghi trong danh sách người ứng cử là: Ông NGUYỄN VĂN A
(NGUYỄN VĂN); hoặc người ứng cử là chức sắc tôn giáo có tên khai sinh là Nguyễn
Văn A, chức vị và pháp danh trong tôn giáo là Hòa thượng Thích Thanh A hoặc
Linh mục Nguyễn Văn A thì ghi tên người ứng cử là Ông NGUYỄN VĂN A (HÒA THƯỢNG
THÍCH THANH A) hoặc Ông NGUYỄN VĂN A (LINH MỤC NGUYỄN VĂN A). Trong các trường hợp
này, việc ghi họ, tên người ứng cử trên danh sách người ứng cử hoặc trên phiếu
bầu cử có thể viết liên tục trong một dòng hoặc thể hiện thành hai dòng liền
nhau nhưng phải có cùng kiểu chữ, cỡ chữ như họ và tên của những người ứng cử
khác trong cùng danh sách.
Trường
hợp họ và tên của những người ứng cử có phần tên giống nhau thì căn cứ vào phần
họ để xác định thứ tự; trường hợp phần họ cũng giống nhau thì căn cứ vào phần
tên đệm. Trường hợp trùng hoàn toàn cả họ, tên và tên đệm thì xếp theo ngày
tháng năm sinh; người nào có ngày tháng năm sinh sớm hơn thì được xếp trước.
Tuy nhiên, các Ủy ban bầu cử cần lưu ý không bố trí, sắp xếp 02 người ứng cử có
họ và tên trùng nhau trong Danh sách những người ứng cử ở cùng một đơn vị bầu
cử để tránh gây nhầm lẫn cho cử tri.
Người ứng cử đại biểu
Quốc hội chỉ được ghi tên vào Danh sách chính thức những người ứng cử ở một đơn
vị bầu cử đại biểu Quốc hội. Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính nào thì cũng chỉ được ghi
tên vào Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở
một đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp tương ứng trên địa bàn đơn
vị hành chính đó.
Số người trong Danh sách chính thức những người
ứng cử đại biểu Quốc hội ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội phải nhiều hơn
số đại biểu Quốc hội được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử đó ít nhất là 02
người.
Số
người trong Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở từng cấp phải nhiều hơn số
lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử đó; nếu đơn vị bầu cử được
bầu 03 đại biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số lượng đại
biểu được bầu ít nhất là 02 người; nếu đơn vị bầu cử được bầu 04 hoặc 05 đại
biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số lượng đại biểu được
bầu ít nhất là 03 người. Trường hợp đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
được ấn định bầu 01 hoặc 02 đại biểu thì số người ứng cử chỉ cần nhiều hơn số
đại biểu được bầu ít nhất là 01 người.
Hội
đồng bầu cử quốc gia sẽ xem xét, quyết định trong trường hợp khuyết người ứng
cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử vì lý do bất khả kháng và hướng dẫn để Ủy
ban bầu cử các cấp xem xét, quyết định đối với trường hợp khuyết người ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử vì lý do bất khả kháng.
Đối
với cuộc bầu cử năm 2016, Hội đồng bầu cử quốc gia đã có hướng dẫn như sau:
·
Trường hợp khuyết
người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân vì lý do bất khả kháng được hiểu là sau
khi Ủy ban bầu cử công bố Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử mà người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân vì lý
do bất khả kháng (chết, bị xóa tên khỏi danh sách chính thức những người ứng
cử…) không thể tiếp tục ứng cử theo quy định của pháp luật dẫn đến số lượng
người ứng cử tại đơn vị bầu cử ít hơn so với số đã được công bố.
·
Nếu khuyết người
ứng cử trong thời gian từ sau khi Ủy ban bầu cử công bố Danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử đến trước khi
Danh sách này được niêm yết, thì Ủy ban bầu cử sau khi thống nhất với Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định theo một trong
các hình thức sau đây, đồng thời báo cáo Ủy ban bầu cử cấp trên trực tiếp; đối với
đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thì báo cáo để Hội đồng bầu
cử quốc gia:
-
Quyết định giữ nguyên danh sách chính thức những người ứng cử còn lại khi số dư
người ứng cử vẫn đảm bảo theo quy định của pháp luật.
-
Quyết định bổ sung người có số phiếu tín nhiệm cao nhất và đạt trên 50% tổng số
phiếu tín nhiệm trong số những người còn lại trong danh sách những người ứng cử
được xem xét tại Hội nghị hiệp thương lần thứ ba vào Danh sách chính thức những
người ứng cử khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
+
Số dư người ứng cử ở đơn vị bầu cử không đảm bảo theo quy định của pháp luật;
+
Trong danh sách hiệp thương lần thứ ba còn có người ứng cử đạt trên 50% tổng số
phiếu tín nhiệm trở lên;
+
Thời gian để bổ sung phải còn từ 02 ngày trở lên tính đến trước ngày niêm yết
Danh sách chính thức những người ứng cử.
-
Quyết định giảm số đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở đơn vị bầu cử để đảm
bảo số dư theo quy định của pháp luật nếu không đáp ứng được một trong các điều
kiện nói trên.
·
Nếu khuyết người
ứng cử trong thời gian từ sau khi Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
đã được niêm yết cho đến ngày bầu cử, thì Ủy ban bầu cử sau khi thống nhất với
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định theo một
trong các hình thức sau đây:
-
Quyết định giữ Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân còn lại khi số người ứng cử vẫn nhiều hơn số đại biểu được bầu tại đơn vị
bầu cử đó (ít nhất là 01 người).
-
Quyết định giảm số đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở đơn vị bầu cử để đảm
bảo số người ứng cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu tại đơn vị bầu cử đó ít
nhất là 01 người.
Quyết
định của Ủy ban bầu cử phải được báo cáo ngay đến Ủy ban bầu cử ở cấp trên trực
tiếp (đối với trường hợp khuyết người ứng cử tại đơn vị bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã) hoặc đến Hội đồng bầu cử quốc gia (đối với
trường hợp khuyết người ứng cử tại đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh).
Công dân có quyền tố
cáo về người ứng cử, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về những sai sót trong việc
lập danh sách những người ứng cử. Việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị được thực
hiện như sau:
- Khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại biểu Quốc hội, việc lập danh sách
những người ứng cử đại biểu Quốc hội được gửi đến Ban bầu cử đại biểu Quốc hội,
Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc Hội đồng bầu cử quốc
gia. Trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đồng ý với kết quả
giải quyết của Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử thì có quyền khiếu nại đến Hội đồng
bầu cử quốc gia. Quyết định của Hội đồng bầu cử quốc gia là quyết định cuối
cùng.
-
Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân, việc lập danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp nào
thì được gửi tới Ban bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân ở cấp đó. Trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không
đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử thì có quyền khiếu nại đến Ủy ban
bầu cử ở cấp tương ứng. Quyết định của Ủy ban bầu cử là quyết định cuối cùng.
- Ban bầu cử, Ủy ban
bầu cử, Hội đồng bầu cử quốc gia phải ghi vào sổ và giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị nhận được theo thẩm quyền.
Không xem xét, giải
quyết đối với những đơn tố cáo không có họ, tên người tố cáo hoặc mạo danh
người khác để tố cáo.
Câu 128.
Việc thay đổi, đính chính hồ sơ ứng cử có thể
được thực hiện như thế nào?
Trường hợp từ sau khi nộp hồ sơ ứng cử đến trước khi công bố Danh sách
chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân mà
người ứng cử có sự thay đổi một số thông tin trong hồ sơ ứng cử đã nộp như nơi
ở, nghề nghiệp hoặc trình độ, các hình thức khen thưởng… mà không ảnh hưởng đến
tiêu chuẩn, điều kiện ứng cử, thì Hội đồng bầu cử quốc gia hoặc Ủy ban bầu cử
nơi đã nhận hồ sơ ứng cử hướng dẫn người ứng cử làm văn bản gửi Ủy ban bầu cử
đề nghị đính chính, ghi rõ những thay đổi trong hồ sơ và cam đoan việc đính
chính là đúng sự thật, nếu sai thì người ứng cử phải chịu hoàn toàn trách nhiệm
trước pháp luật. Đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội đã nộp hồ sơ ứng cử tại
Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì sau khi nhận được văn
bản đề nghị đính chính của người ứng cử, Ủy ban bầu cử cần báo cáo ngay bằng
văn bản đến Hội đồng bầu cử quốc gia về việc đính chính hồ sơ của người ứng cử
kèm theo văn bản, tài liệu đính chính mà người ứng cử đại biểu đã nộp trước đó
để thực hiện việc đính chính.
Trường hợp sau khi Danh sách chính thức những người ứng cử theo từng
đơn vị bầu cử đã được công bố và niêm yết thì không thực hiện việc đính chính
và in lại danh sách và tiểu sử tóm tắt những người ứng cử để thay thế cho nội
dung đã công bố, niêm yết nữa, song Ủy ban bầu cử cần cập nhật thông tin vào
danh sách khi công bố kết quả bầu cử; trường hợp nội dung đính chính liên quan
đến người ứng cử đại biểu Quốc hội thì cần cần báo cáo bằng văn bản đến Hội
đồng bầu cử quốc gia để thống nhất trong việc cập nhật và công bố thông tin.
Trong
thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử (tức là từ ngày 13 tháng 5 năm 2021 trở đi),
Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử ngừng việc xem xét, giải
quyết mọi khiếu nại, tố cáo về người ứng cử và việc lập danh sách những người
ứng cử.
Trong trường hợp những
khiếu nại, tố cáo đã rõ ràng, có đủ cơ sở kết luận người ứng cử không đáp ứng
đủ tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì Hội đồng
bầu cử quốc gia (đối với bầu cử đại biểu Quốc hội) hoặc Ủy ban bầu cử ở cấp tương ứng (đối với bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân) quyết định xóa tên người đó trong danh sách chính thức những người
ứng cử trước ngày bầu cử và thông báo cho cử tri biết.
Hội
đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử ở cấp
tỉnh, Ủy ban bầu cử ở cấp huyện, Ủy ban bầu cử ở cấp xã chuyển toàn bộ hồ sơ về
khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết đến Ủy
ban Thường vụ Quốc hội khóa XV (đối với bầu cử đại biểu Quốc hội) hoặc
Thường trực Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021 – 2026 ở cấp tương ứng (đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân) để tiếp
tục xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
Người có tên trong Danh
sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội đã được Hội đồng bầu cử
quốc gia công bố mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị khởi tố bị can, bị bắt,
giữ vì phạm tội quả tang, bị mất năng lực hành vi dân sự, chết hoặc vi phạm
nghiêm trọng pháp luật về bầu cử thì Hội đồng bầu cử quốc gia xóa tên người đó
trong Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội.
Người có tên trong Danh
sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã được Ủy ban
bầu cử công bố mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị khởi tố bị can, bị bắt, giữ
vì phạm tội quả tang, bị mất năng lực hành vi dân sự, chết hoặc vi phạm nghiêm
trọng pháp luật về bầu cử thì Ủy ban bầu cử, sau khi thống nhất ý kiến với Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, quyết định xóa tên người đó
trong Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp
mình.
PHẦN THỨ NĂM
TỔ CHỨC HIỆP THƯƠNG, GIỚI THIỆU NGƯỜI ỨNG CỬ
Tổ chức hiệp thương, giới
thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân là một giai
đoạn hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức bầu cử. Việc hiệp thương, giới
thiệu người ứng cử được tiến hành thông qua 05 bước cụ thể như sau:
Bước 1: Tổ chức hội nghị hiệp
thương lần thứ nhất để thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người được
giới thiệu ứng cử.
Bước 2: Cơ quan, tổ chức, đơn
vị giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp.
Bước 3: Tổ chức hội nghị hiệp
thương lần thứ hai để thỏa thuận lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Bước 4: Tổ chức hội nghị lấy ý
kiến cử tri ở nơi cư trú đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân và ở nơi công tác hoặc làm việc (nếu có) đối với người tự ứng cử
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Bước 5: Tổ chức hội nghị hiệp
thương lần thứ ba để lựa chọn, lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Hội nghị hiệp thương là hội nghị
giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành viên được tiến hành
ở trung ương và ở địa phương để thỏa thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng
người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân từng cấp cũng như việc lập danh sách sơ bộ và lựa
chọn, lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Hội nghị hiệp thương ở trung ương
do Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập và chủ
trì; Hội nghị hiệp thương ở địa phương do Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam ở mỗi cấp triệu tập và chủ trì để thực hiện công việc của Hội
nghị hiệp thương ở cấp mình.
Để đảm bảo dân chủ và lựa chọn
được những người tiêu biểu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân, Hội nghị hiệp thương sẽ được tiến hành ba lần: Hội nghị hiệp thương lần
thứ nhất; Hội nghị hiệp thương lần thứ hai; Hội nghị hiệp thương lần thứ ba.
Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở trung ương do Đoàn Chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập, chủ trì trong khoảng thời gian từ
ngày 03 tháng 02 năm 2021 đến ngày 17 tháng 02 năm 2021 (chậm nhất là
95 ngày trước ngày bầu cử) để thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở
trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội trên cơ sở dự kiến của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội.
Thành phần tham dự hội nghị gồm: Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Đại diện Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ được
mời tham dự hội nghị.
Thủ tục tổ chức Hội nghị hiệp
thương lần thứ nhất ở trung ương được thực hiện như sau:
-
Hội nghị cử chủ tọa trong Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và Thư ký hội nghị.
-
Đại diện Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình bày dự kiến về cơ cấu, thành phần, số
lượng người của tổ chức chính trị, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang
nhân dân ở trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
-
Hội nghị thảo luận để thoả thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người được
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội của cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo đảm tỷ lệ
người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ, người dân tộc thiểu số theo quy định
của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Trường
hợp không thỏa thuận được vấn đề nào thì hội nghị quyết định biểu quyết bằng
hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu gồm từ 03 đến 05
người. Trường hợp quyết định biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín thì phiếu
biểu quyết phải đóng dấu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chỉ
các đại biểu thuộc thành phần hội nghị hiệp thương có mặt tại hội nghị mới được
quyền biểu quyết.
-
Hội nghị thông qua biên bản (theo Mẫu số 01/BCĐBQH-MT). Biên bản hội nghị phải ghi rõ
thành phần, số lượng người tham dự, diễn
biến, kết quả hội nghị và được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia và Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
do Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh triệu tập, chủ trì
trong khoảng thời gian từ ngày 03 tháng 02 năm 2021 đến ngày 17
tháng 02 năm 2021 (chậm nhất là 95 ngày trước ngày bầu cử) để thỏa
thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội trên
cơ sở dự kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Thành phần tham dự hội nghị gồm:
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, đại diện ban lãnh
đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và đại diện
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện trực thuộc. Đại diện
Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thường trực Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự hội nghị này.
Thủ tục tổ chức Hội nghị hiệp
thương lần thứ nhất ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực hiện như
sau:
-
Hội nghị cử chủ tọa trong Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tỉnh và Thư ký hội nghị.
-
Đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trình bày dự kiến của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về cơ cấu, thành phần, số lượng người của tổ chức chính trị,
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,
cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân ở địa phương được giới thiệu ứng cử
đại biểu Quốc hội.
-
Hội nghị thảo luận để thoả thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người được
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội của cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo đảm số dư
người ứng cử, tỷ lệ người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ, người dân tộc
thiểu số theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân.
Trường
hợp không thỏa thuận được vấn đề nào thì hội nghị quyết định biểu quyết bằng
hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu gồm từ 03 đến 05
người. Trường hợp quyết định biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín thì phiếu
biểu quyết phải đóng dấu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh. Chỉ các
đại biểu thuộc thành phần hội nghị hiệp thương có mặt tại hội nghị mới được
quyền biểu quyết.
-
Hội nghị thông qua biên bản (theo Mẫu số 01/BCĐBQH-MT). Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người
tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị và được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc
gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất đối với người ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã do Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp triệu tập và chủ trì trong khoảng thời gian từ ngày 03 tháng 02 năm 2021
đến ngày 17 tháng 02 năm 2021 (chậm nhất là 95 ngày
trước ngày bầu cử) để thỏa thuận về
cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương
được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp tổ chức hiệp thương
trên cơ sở dự kiến của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Thành phần tham dự hội nghị gồm:
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện ban lãnh đạo các tổ
chức thành viên của Mặt trận. Đại diện Ủy ban bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp được mời tham dự hội nghị này.
Thủ
tục tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất đối với việc giới thiệu người ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân được thực hiện như sau:
- Hội nghị cử chủ tọa trong Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hiệp thương và Thư ký
hội nghị.
- Đại diện Thường trực Hội đồng
nhân dân cấp tổ chức hội nghị hiệp thương trình bày dự kiến cơ cấu, thành phần,
số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình của
tổ chức chính trị, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước cùng cấp và của
đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, các đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp
hoặc thôn, tổ dân phố đối với hội nghị hiệp thương tổ chức ở cấp xã.
- Hội nghị thảo luận để thống
nhất cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử của cơ quan, tổ
chức, đơn vị và thôn, tổ dân phố (đối với cấp xã), bảo đảm số dư người ứng cử, tỷ
lệ người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là phụ nữ, người dân tộc thiểu số
theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Trường hợp không thoả thuận được
vấn đề nào thì hội nghị quyết định biểu quyết bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ
phiếu kín. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu gồm từ 03 đến 05 người. Trường hợp quyết
định biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín thì phiếu biểu quyết phải đóng dấu
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương. Chỉ các
đại biểu thuộc thành phần hội nghị hiệp thương có mặt tại hội nghị mới được
quyền biểu quyết.
- Hội nghị thông qua biên bản
(theo Mẫu số 01/BCĐBHĐND-MT). Biên bản hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành
phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị.
Biên bản hội nghị hiệp thương ở cấp tỉnh được gửi ngay
đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
Biên bản hội nghị hiệp thương ở cấp huyện, cấp xã được
gửi ngay đến Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp và Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
Sau khi nhận được biên bản Hội
nghị hiệp thương lần thứ nhất do Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh gửi
đến, căn cứ vào kết quả hội nghị hiệp thương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh
lần thứ nhất về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị
ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội chậm
nhất là ngày 22 tháng 02 năm 2021 (90 ngày trước ngày bầu cử). Văn bản điều chỉnh được gửi ngay đến Đoàn Chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp tỉnh.
Mục đích của việc điều chỉnh là
nhằm bảo đảm cơ cấu, thành phần, số lượng chung của đại biểu Quốc hội thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật và phù hợp với điều kiện của từng địa phương.
Lần điều chỉnh này là cơ sở để Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức
hiệp thương thông báo cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị tiến hành giới thiệu
người ứng cử đại biểu Quốc hội.
Sau
khi nhận được biên bản Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất do Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp tổ chức hiệp thương gửi đến, căn cứ vào
kết quả hội nghị hiệp thương, chậm nhất là ngày 22 tháng 02 năm 2021 (90 ngày trước ngày bầu cử), Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở
địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình; Thường
trực Hội đồng nhân dân cấp xã điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của
cơ quan, tổ chức, đơn vị, thôn, tổ dân phố ở địa phương được giới thiệu ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình.
Văn bản điều chỉnh được gửi ngay
đến Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hiệp thương để làm cơ sở thông báo cho các cơ
quan, tổ chức, đơn vị, thôn, tổ dân phố tiến hành giới thiệu người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân ở từng cấp.
Trên cơ sở điều chỉnh lần thứ
nhất của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về cơ cấu, thành phần, số lượng người của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, điều
chỉnh lần thứ nhất của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã về cơ cấu, thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và
thôn, tổ dân phố (đối với cấp xã) được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân của cấp tương ứng, Đoàn Chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc Ban Thường trực Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương có trách nhiệm thông báo
ngay đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị được phân bổ giới thiệu người ứng cử đại
biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và hướng dẫn về nội dung, trình
tự, thủ tục giới thiệu người ứng cử, làm hồ sơ ứng cử.
Việc giới thiệu người ứng cử đại
biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân của các cơ quan, tổ chức, đơn
vị được tiến hành trong khoảng thời gian từ ngày 24 tháng 02 năm 2021 đến ngày 11 tháng
3 năm 2021.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị được
phân bổ giới thiệu người ứng cử thực hiện việc giới thiệu người của cơ quan, tổ
chức, đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
theo các bước sau đây:
1. Ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức,
đơn vị họp để dự kiến người của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình được giới thiệu
ứng cử.
2. Tổ chức hội nghị lấy ý kiến
của cử tri tại cơ quan, tổ chức, đơn vị đối với người được dự kiến giới thiệu
ứng cử.
3. Trên cơ sở ý kiến nhận xét và
tín nhiệm của hội nghị cử tri nơi công tác hoặc nơi làm việc của người được dự
kiến giới thiệu ứng cử, ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị tổ chức hội nghị
ban lãnh đạo mở rộng để thảo luận, giới thiệu người ứng cử.
Căn cứ vào kết quả của hội nghị
ban lãnh đạo mở rộng, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm hướng dẫn người
của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình được lựa chọn, giới thiệu ứng cử đại biểu đại
biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân làm hồ sơ ứng cử theo quy định
tại Điều 35 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và
hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia.
Cuộc họp ban lãnh đạo cơ quan, tổ
chức, đơn vị để dự kiến người giới thiệu ứng cử do người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị triệu tập và chủ trì với thành phần dự họp gồm Ban lãnh đạo tổ
chức đối với tổ chức chính trị, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội; Ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị và Ban chấp
hành Công đoàn đối với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp hoặc
ban chỉ huy đơn vị đối với đơn vị vũ trang nhân dân.
Thủ
tục tổ chức cuộc họp ban lãnh đạo được thực hiện như sau:
- Đại diện lãnh đạo cơ quan, tổ
chức, đơn vị, chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân giới thiệu mục đích, yêu cầu của
cuộc họp, dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng người được phân bổ giới thiệu
ứng cử, tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân
dân và các bước tiến hành để lập danh sách giới thiệu người ứng cử.
- Những người dự họp thảo luận về
dự kiến giới thiệu người của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình ứng cử để lấy ý kiến nhận xét của hội nghị cử tri trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị.
- Cuộc họp thông qua biên bản
(theo Mẫu số 02/BCĐBQH-MT đối với giới thiệu người ứng đại biểu Quốc hội hoặc Mẫu số
02/BCĐBHĐND-MT đối với giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân).
Hội nghị cử tri nơi công tác để
lấy ý kiến đối với người được dự kiến giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân được tổ chức ở nơi người ứng cử đang công tác hoặc làm
việc (nếu có). Trường hợp người ứng cử có nhiều nơi công tác hoặc nơi làm việc
thì tổ chức lấy ý kiến của cử tri nơi người đó công tác hoặc làm việc thường
xuyên.
Hình thức tổ chức hội nghị được quy định như sau:
- Đối với nơi có dưới 100 cử tri thì tổ chức hội nghị toàn thể cử tri
để lấy ý kiến về người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và
phải bảo đảm số lượng cử tri tham dự hội nghị đạt ít nhất là hai phần ba tổng
số cử tri được triệu tập.
- Đối với nơi có từ 100 cử tri trở lên thì có thể tổ chức hội nghị toàn
thể hoặc hội nghị đại diện cử tri và phải bảo đảm có ít nhất là 70 cử tri tham
dự hội nghị. Tùy đặc điểm, tình hình thực tế của cơ quan, tổ chức, đơn
vị, Ban chấp hành Công đoàn phối hợp với người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị phân bổ số lượng người để các tổ chức Công đoàn trực thuộc cử đại diện
tham dự; trường hợp không có tổ chức Công đoàn thì người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị phân bổ số lượng người để các đơn vị trực thuộc cử đại diện tham
dự.
- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được mời
tham dự hội nghị.
Việc triệu tập và chủ trì hội nghị cử tri nơi công tác
được thực hiện như sau:
- Người ứng cử đang công tác chuyên trách tại cơ quan Đảng, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội thì
người đứng đầu cơ quan, tổ chức phối hợp với Ban chấp hành Công đoàn của cơ
quan, tổ chức đó triệu tập và chủ trì hội nghị, trừ trường hợp người được giới
thiệu ứng cử là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Người ứng cử đang công tác tại các cơ quan của
Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội thì việc
lấy ý kiến cử tri nơi công tác do Văn phòng Quốc hội tổ chức. Người ứng cử
là đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Đoàn đại biểu Quốc hội thì việc
lấy ý kiến cử tri nơi công tác do Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh hoặc Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội (nơi chưa thành lập Văn
phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh) tổ chức. Chủ nhiệm
Văn phòng Quốc hội, Chánh Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh hoặc Chánh Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội phối hợp với Ban chấp hành
Công đoàn cơ quan triệu tập và chủ trì hội nghị.
- Người ứng cử đang công tác tại Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh hoặc Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh (nơi chưa thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh) thì việc lấy ý kiến cử tri nơi công tác do Văn phòng
Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoặc Văn phòng Đoàn đại
biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tổ chức. Người ứng cử đang
công tác tại Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân cấp
huyện thì việc lấy ý kiến cử tri nơi công tác do Văn phòng Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức. Chánh Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Chánh
Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân cấp huyện phối hợp với Ban chấp hành Công đoàn cơ quan triệu tập
và chủ trì hội nghị.
- Người ứng cử đang là Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ thì việc lấy ý kiến cử tri nơi công tác do
Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ tổ chức; người ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đang là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thì việc lấy ý kiến cử tri nơi công
tác do Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân cấp huyện tổ chức. Người đứng đầu cơ quan phối hợp với Ban chấp
hành Công đoàn cơ quan triệu tập và chủ trì hội nghị.
- Người ứng cử đang công tác tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân các cấp, Kiểm toán nhà nước, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và các cơ
quan khác của Nhà nước thì người đứng đầu cơ quan phối hợp với Ban chấp hành
Công đoàn cơ quan triệu tập và chủ trì hội nghị.
- Người ứng cử làm việc tại đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế thì người
đứng đầu đơn vị, tổ chức phối hợp với Ban chấp hành Công đoàn triệu tập và chủ
trì hội nghị.
- Người ứng cử công tác tại Đảng ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội cấp
xã hoặc là công chức xã, phường, thị trấn thì việc lấy ý kiến cử tri nơi công
tác được thực hiện tại hội nghị liên tịch giữa Đảng ủy, Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội
cấp xã. Người đứng đầu Đảng ủy cấp xã triệu tập và chủ trì hội nghị.
- Người ứng cử công tác ở các đơn vị vũ trang nhân dân thì do lãnh đạo,
chỉ huy đơn vị triệu tập và chủ trì hội nghị.
- Trường hợp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị là người ứng cử
thì cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phối hợp với Ban chấp
hành Công đoàn triệu tập và chủ trì hội nghị.
- Trường hợp nơi công tác hoặc nơi làm việc của người ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân chưa có tổ chức Công đoàn thì người đứng
đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị triệu tập và chủ
trì hội nghị.
Trình tự, thủ tục tổ chức hội nghị cử tri nơi công tác được thực hiện
tương tự như đối với hội nghị cử tri nơi cư trú. Biên bản hội
nghị cử tri phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả
hội nghị; trong đó, phải ghi rõ tổng số cử tri được triệu tập, số lượng cử tri
có mặt, ý kiến phát biểu và sự tín nhiệm của cử tri đối với từng người được dự
kiến giới thiệu ứng cử (lập theo Mẫu số 01/HNCT).
Trường hợp người được dự kiến giới thiệu ứng cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị mà không
đạt tín nhiệm của 50% tổng số cử tri
tham dự hội nghị cử tri nơi công tác thì Ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị
tổ chức lựa chọn, giới thiệu người khác. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị
không có người đủ điều kiện để dự kiến giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân theo số lượng đã được phân bổ thì người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị kịp thời báo cáo Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp đã thông báo về việc phân bổ chỉ tiêu giới thiệu người ứng cử để
đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tương
ứng điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử của cơ
quan, tổ chức, đơn vị.
Trường hợp người được đưa ra lấy ý kiến là người tự ứng cử đại
biểu Quốc hội (tổ chức sau Hội nghị hiệp thương lần 2) thì thành phần, trình
tự, thủ tục tổ chức hội nghị cử tri ở nơi công tác được thực hiện tương tự như
đối với hội nghị lấy ý kiến về người được dự kiến giới thiệu ứng cử. Biên bản
hội nghị cử tri nơi công tác đối với người tự ứng cử được lập theo Mẫu số
02/HNCT và phải được gửi đến Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cấp tỉnh ngay sau khi kết thúc hội nghị cử tri.
Thành phần
tham dự hội nghị ban lãnh đạo mở rộng của cơ quan, tổ chức, đơn vị được xác
định như sau:
- Đối với tổ chức chính trị, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, thành phần dự hội nghị gồm Đoàn Chủ tịch mở
rộng tới người đứng đầu các tổ chức thành viên (tổ chức nào không có tổ chức
thành viên thì tổ chức hội nghị Đoàn Chủ tịch mở rộng tới đại diện lãnh đạo các
đơn vị trực thuộc); Ban Thường vụ mở rộng tới đại diện lãnh đạo các đơn vị trực
thuộc hoặc Ban Thường trực mở rộng tới đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc. Trường hợp tổ chức xã hội không lập Ban Thường vụ thì tổ chức hội nghị
Ban chấp hành.
- Đối với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, thành
phần dự hội nghị gồm lãnh đạo cơ quan, đại diện Ban chấp hành Công đoàn, đại
diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc.
- Đối với đơn vị vũ trang nhân dân, thành phần dự hội nghị gồm chỉ huy
đơn vị, đại diện Ban chấp hành Công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ
huy các đơn vị cấp dưới trực tiếp.
- Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thì Chủ tịch Ủy ban nhân
dân triệu tập và chủ trì hội nghị Ủy ban nhân dân mở rộng đến đại diện lãnh đạo
đơn vị trực thuộc.
- Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thì Chủ tịch Hội đồng
nhân dân triệu tập và chủ trì hội nghị gồm Thường trực Hội đồng nhân dân, Phó
Trưởng ban của Hội đồng nhân dân.
- Đối với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã thì Chủ tịch Hội
đồng nhân dân triệu tập và chủ trì hội nghị gồm Thường trực Hội đồng nhân dân,
Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
- Đối với các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện và các cơ quan khác của Nhà nước thì người đứng đầu cơ quan triệu tập và
chủ trì hội nghị ban lãnh đạo mở rộng đến đại diện lãnh đạo các đơn vị trực
thuộc (nếu có) và đại diện Ban chấp hành Công đoàn.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp thì người đứng đầu đơn vị triệu tập và
chủ trì hội nghị ban lãnh đạo mở rộng đến đại diện lãnh đạo các đơn vị trực
thuộc (nếu có) và đại diện Ban chấp hành Công đoàn.
- Đối với tổ chức kinh tế
thì người đứng đầu tổ chức triệu tập và chủ trì hội nghị ban lãnh đạo mở rộng
đến người đứng đầu các phòng, ban, phân xưởng, trạm, trại và đại diện Ban chấp
hành Công đoàn.
- Đối với đơn vị vũ trang
nhân dân thì chỉ huy đơn vị triệu tập và chủ trì hội nghị gồm chỉ huy đơn vị,
đại diện Ban chấp hành Công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ huy các
đơn vị cấp dưới trực tiếp.
- Trường hợp người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị được dự kiến giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân thì cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị triệu tập và chủ
trì hội nghị.
Trình tự,
thủ tục tổ chức hội nghị được thực hiện như sau:
- Đại diện lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị, chỉ huy đơn vị vũ trang
nhân dân báo cáo tình hình và kết quả hội nghị lấy ý kiến của cử tri nơi công
tác đối với từng người được dự kiến giới thiệu ứng cử.
- Những người dự hội nghị thảo luận và biểu thị sự tán thành của mình
đối với từng người được giới thiệu ứng cử bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu
kín do hội nghị quyết định. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu gồm từ 03 đến 05 người.
Trường hợp quyết định biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín thì phiếu giới thiệu
phải đóng dấu của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
- Hội nghị thông qua biên bản và danh sách người được giới thiệu ứng cử
(theo Mẫu số 03/BCĐBQH-MT).
Biên bản hội nghị cử tri nơi công tác lấy ý kiến về
người được cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương dự kiến giới thiệu ứng cử đại
biểu Quốc hội phải được gửi cùng biên bản hội nghị ban lãnh đạo của cơ quan, tổ
chức, đơn vị nhận xét về người được giới thiệu ứng cử đến Ban Thường trực Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trước khi Hội nghị hiệp thương lần thứ
hai được tổ chức.
Biên bản hội nghị cử tri nơi công tác lấy ý kiến về
người được cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương dự kiến giới thiệu ứng cử đại
biểu Quốc hội phải được gửi cùng biên bản hội nghị ban lãnh đạo của cơ quan, tổ
chức, đơn vị nhận xét về người được giới thiệu ứng cử đến Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh trước khi Hội nghị hiệp thương lần thứ
hai được tổ chức.
Biên bản hội nghị cử tri nơi công tác lấy ý kiến về
người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải được gửi cùng biên
bản hội nghị ban lãnh đạo của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó công tác
nhận xét về người được giới thiệu ứng cử đến Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương trước khi Hội nghị hiệp thương
lần thứ hai được tổ chức.
Trưởng ban công tác Mặt trận phối hợp với Chi hội trưởng các đoàn thể
họp với Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ dân phố để thảo
luận, dự kiến người của thôn, tổ dân phố giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã theo thông báo của Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp xã về việc phân bổ số lượng và cơ cấu, thành phần.
Thủ tục tổ
chức cuộc họp này được thực hiện như sau:
- Trưởng
ban công tác Mặt trận giới thiệu mục đích, yêu cầu của hội nghị, cử Thư ký hội
nghị và đọc thông báo của Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
xã về việc phân bổ số lượng, cơ cấu, thành phần người của thôn, tổ dân phố được
giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã; tiêu chuẩn của đại biểu
Hội đồng nhân dân và những trường hợp không được ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân.
- Trưởng ban
công tác Mặt trận nêu dự kiến người của thôn, tổ dân phố để giới thiệu ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Các thành
viên tham gia cuộc họp thảo luận và nhận xét về người được dự kiến giới thiệu
ứng cử.
- Trưởng ban
công tác Mặt trận tổng hợp ý kiến và kết luận cuộc họp.
- Hội nghị thông qua biên bản
cuộc họp (theo Mẫu số 03/HNMT).
Trên cơ sở kết quả của cuộc họp
này, Trưởng ban công tác Mặt trận phối hợp với Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ
dân phố gửi giấy mời cử tri ở thôn, tổ dân phố tham dự hội nghị cử tri giới
thiệu người của thôn, tổ dân phố ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
xã.
Đối với
nơi có dưới 100 cử tri thì tổ chức hội nghị toàn thể cử tri và phải bảo đảm số
lượng cử tri tham dự hội nghị đạt ít nhất là 50% tổng số cử tri được triệu tập.
Đối với nơi có từ 100 cử tri trở lên thì có thể tổ chức hội nghị
toàn thể hoặc hội nghị cử tri đại diện hộ gia đình và phải bảo đảm có ít nhất
là 55 cử tri tham dự hội nghị. Toàn thể thành viên Ban công tác Mặt trận;
Trưởng thôn, Phó trưởng thôn hoặc Tổ trưởng, Tổ phó tổ dân phố và đại diện
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp xã được mời tham dự hội nghị này.
Thủ tục tổ chức hội nghị cử tri ở thôn, tổ dân phố
được thực hiện như sau:
- Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban công tác Mặt trận chủ
trì hội nghị cử tri, tuyên bố lý do và giới thiệu đại biểu dự hội nghị; giới
thiệu mục đích, yêu cầu của hội nghị; giới thiệu Thư ký hội nghị để hội nghị
quyết định; báo cáo về số lượng cử tri được mời, số lượng cử tri có mặt.
- Người chủ trì hội nghị đọc thông báo của Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã về việc phân bổ số lượng và cơ
cấu, thành phần người của thôn, tổ dân phố được giới thiệu ứng cử; đọc tiêu
chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại Điều 7 của Luật Tổ chức
chính quyền địa phương và những trường hợp không được ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân quy định tại Điều 37 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân.
- Đại diện Ban công tác Mặt trận đọc danh sách do Ban
công tác Mặt trận dự kiến những người của thôn, tổ dân phố để giới thiệu ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã. Cử tri có thể giới thiệu thêm người ứng cử
để hội nghị xem xét.
- Hội nghị thảo luận về những người được giới thiệu
ứng cử.
- Hội nghị quyết định biểu quyết danh sách chính thức
những người của thôn, tổ dân phố được giới thiệu ứng cử bằng hình thức giơ tay
hoặc bỏ phiếu kín. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu gồm từ 03 đến 05 người. Trường hợp
hội nghị biểu quyết bằng hình thức giơ tay thì Tổ kiểm phiếu đếm, tính kết quả
biểu quyết đối với từng người được giới thiệu ứng cử. Trường hợp hội nghị biểu
quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín thì phiếu tín nhiệm của cử tri phải đóng dấu
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã hoặc dấu của Ủy ban nhân dân cùng
cấp. Trên phiếu tín nhiệm ghi rõ họ và tên của những người được hội nghị cử tri
dự kiến giới thiệu ứng cử. Nếu có nhiều người được giới thiệu ứng cử thì ghi rõ
họ và tên của những người được giới thiệu ứng cử, xếp theo vần chữ cái A, B, C...
Cử tri gạch tên người được giới thiệu ứng cử mà mình không tín nhiệm và bỏ vào
hòm phiếu.
Người được giới thiệu ứng cử là người được trên 50%
tổng số cử tri có mặt tín nhiệm. Trường hợp có nhiều người cùng được trên 50%
tổng số cử tri có mặt tín nhiệm thì người được giới thiệu ứng cử được xác định
theo kết quả biểu quyết tính từ cao xuống thấp cho đến khi đủ số lượng được
phân bổ; trường hợp kết quả biểu quyết ngang nhau thì người chủ trì hội nghị
lập danh sách những người đó để hội nghị biểu quyết lại và lấy người có kết quả
biểu quyết cao hơn mà không cần phải đạt trên 50% tổng số cử tri có mặt. Trường
hợp biểu quyết lại mà kết quả biểu quyết vẫn ngang nhau thì việc có biểu quyết
tiếp hay không do hội nghị quyết định.
- Tổ trưởng Tổ kiểm phiếu công bố kết quả biểu quyết.
- Hội nghị thông qua biên bản hội
nghị (theo Mẫu số 04/HNCT).
Ban công tác Mặt trận chuyển biên bản hội nghị cử tri
ở thôn, tổ dân phố về việc thảo luận, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã đến Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã.
Hội
nghị hiệp thương lần thứ hai ở trung ương do Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập, chủ trì trong khoảng thời gian từ
ngày 15 tháng 3 năm 2021 đến ngày 19 tháng 3 năm 2021 (chậm nhất là 65
ngày trước ngày bầu cử) để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc
hội, gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đối với người được cơ quan, tổ chức, đơn
vị giới thiệu ứng cử.
Thành
phần tham dự hội nghị cũng tương tự như Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất gồm:
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện ban lãnh
đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đại diện Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ được mời tham dự hội nghị.
Thủ
tục tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở trung ương được thực hiện như
sau:
-
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam báo cáo về tình hình
giới thiệu người ứng cử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương. Danh
sách giới thiệu người ứng cử trình ra Hội nghị hiệp thương lần thứ hai phải bảo
đảm số dư cần thiết để hội nghị xem xét, lựa chọn lập danh sách sơ bộ những
người ứng cử đại biểu Quốc hội.
-
Hội nghị thảo luận, lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội
căn cứ vào các nội dung sau đây: (1) Tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội; (2) Kết
quả điều chỉnh lần thứ nhất của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự kiến cơ cấu,
thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội của cơ
quan, tổ chức, đơn vị; (3) Kết quả thỏa thuận tại Hội nghị hiệp thương lần thứ
nhất; (4) Hồ sơ, biên bản của cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử
đại biểu Quốc hội gửi đến; (5) Ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi công
tác hoặc nơi làm việc đối với người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
-
Hội nghị bàn kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi
cư trú đối với người được cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương giới thiệu ứng
cử; nêu ra các vấn đề cần xác minh, làm rõ đối với những người ứng cử.
-
Hội nghị thông qua biên bản và danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc
hội (theo Mẫu số 01/BCĐBQH-MT và Mẫu số 05/BCĐBQH-MT). Biên bản hội nghị ghi rõ
thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả hội nghị.
Ngay
sau Hội nghị hiệp thương lần thứ hai, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam gửi biên bản đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
Hội nghị hiệp thương lần thứ hai
ở địa phương do Ban Thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh triệu tập, chủ trì trong khoảng thời gian từ ngày
15 tháng 3 năm 2021 đến ngày 19 tháng 3 năm 2021 (chậm nhất là 65 ngày
trước ngày bầu cử) để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội
ở địa phương, gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đối với người được cơ quan, tổ
chức, đơn vị giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử và lấy ý kiến cử tri nơi công
tác (nếu có) đối với người tự ứng cử.
Thành phần tham dự hội nghị cũng
tương tự như Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất gồm: Ban Thường trực Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và đại diện Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp huyện trực thuộc. Đại diện Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh được mời tham dự hội nghị này.
Thủ tục tổ chức Hội nghị hiệp
thương lần thứ hai ở địa phương được thực hiện như sau:
- Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh báo cáo về
tình hình giới thiệu người ứng cử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và tình hình
người tự ứng cử ở địa phương (nếu có). Danh sách giới thiệu người ứng cử trình
ra Hội nghị hiệp thương lần thứ hai phải bảo đảm số dư cần thiết để hội nghị
xem xét, lựa chọn lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội.
- Hội nghị thảo luận, lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu
Quốc hội căn
cứ vào các nội dung sau đây: (1) Tiêu
chuẩn của đại biểu Quốc hội; (2) Kết quả điều chỉnh lần thứ nhất của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới
thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (3) Kết quả thỏa
thuận tại Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất; (4) Hồ sơ, biên bản của cơ quan,
tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội gửi đến; (5) Ý kiến
nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi công tác hoặc nơi làm việc đối với người
được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
- Hội nghị bàn kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử
tri nơi cư trú đối với người được cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương giới
thiệu ứng cử, người tự ứng cử và lấy ý kiến cử tri nơi công tác hoặc nơi làm
việc (nếu có) đối với người tự ứng cử; nêu ra các vấn đề cần xác minh, làm rõ
đối với những người ứng cử.
- Hội nghị thông qua biên bản và danh sách sơ bộ những người ứng cử đại
biểu Quốc hội (theo Mẫu số 01/BCĐBQH-MT và Mẫu số 05/BCĐBQH-MT).
- Biên bản hội nghị
hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả
hội nghị và được gửi ngay đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban bầu
cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã do Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tổ chức hiệp thương triệu tập, chủ trì trong
khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 3 năm 2021 đến ngày 19 tháng 3 năm 2021
(chậm nhất là 65 ngày trước ngày bầu cử) để lập danh sách sơ bộ những người ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình, gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đối
với người được cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử và
lấy ý kiến cử tri nơi công tác (nếu có) đối với người tự ứng cử, người được
thôn, tổ dân phố giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Thành phần tham dự hội nghị cũng tương tự như Hội nghị
hiệp thương lần thứ nhất gồm: Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng cấp. Đại diện Ủy ban bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân cùng cấp được mời tham dự hội nghị này.
Thủ tục tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ hai để giới
thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân được thực hiện như sau:
- Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương báo cáo
về tình hình giới thiệu người ứng cử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và thôn,
tổ dân phố (đối với cấp xã), tình hình người tự ứng cử (nếu có). Danh sách giới thiệu người ứng cử trình ra Hội nghị hiệp
thương lần thứ hai phải bảo đảm số dư cần thiết để hội nghị xem xét, lựa chọn
lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Hội nghị thảo luận, lập danh
sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân căn cứ vào các nội
dung sau đây: (1) Tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân; (2) Kết quả điều
chỉnh của Thường trực Hội đồng nhân dân về cơ cấu, thành phần, số lượng người
được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
(3) Kết quả thỏa thuận tại Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất; (4) Hồ sơ, biên
bản giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân của các cơ quan, tổ
chức, đơn vị gửi đến; (5) Ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi công tác
đối với người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Hội nghị bàn kế hoạch tổ chức
lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú đối với người được cơ
quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử và lấy ý kiến cử tri
nơi công tác (nếu có) của người tự ứng cử, người được thôn, tổ dân phố giới
thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã; nêu ra các vấn đề cần xác minh,
làm rõ đối với những người ứng cử.
- Hội nghị thông qua biên bản và
danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (theo Mẫu số 01/BCĐBHĐND-MT
và Mẫu số 05/BCĐB HĐND-MT).
Ngay sau Hội nghị
hiệp thương lần thứ hai, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tỉnh gửi biên bản và danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban bầu cử cùng cấp; Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
huyện, cấp xã gửi biên bản và danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp mình đến Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban bầu cử cùng cấp.
Ngay sau Hội nghị hiệp thương lần thứ hai, Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tổ chức họp với đại diện Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện, cấp xã nơi có người ứng
cử đại biểu Quốc hội cư trú và đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị có người ứng
cử để hướng dẫn việc tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri.
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tổ chức hội nghị hiệp thương họp với người phụ trách công tác tổ chức cán bộ
của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
đại diện Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp dưới trực tiếp
(đối với cấp xã thì mời các Trưởng ban công tác Mặt trận trên địa bàn), Chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có người ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện cư trú để hướng dẫn việc tổ chức lấy ý kiến
cử tri nơi cư trú đối với những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân có tên
trong danh sách sơ bộ; lấy ý kiến cử tri nơi công tác (nếu có) đối với người tự
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và người được thôn, tổ dân phố giới thiệu ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Việc tổ chức hội nghị lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm
của cử tri nơi cư trú đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân và cử tri nơi công tác (nếu có) đối với người tự ứng cử
đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, người được thôn, tổ
dân phố giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã được thực hiện trong
khoảng thời gian từ ngày 21 tháng 3 năm 2021 đến ngày 13 tháng 4 năm 2021
(từ sau khi kết thúc Hội nghị hiệp thương lần thứ hai đến trước khi bắt đầu Hội
nghị hiệp thương lần thứ ba).
Hội nghị cử tri nơi cư trú để lấy ý kiến đối với người
ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (gồm người được giới thiệu
ứng cử và người tự ứng cử) được tổ chức tại thôn, tổ dân phố nơi người ứng cử
thường trú hoặc tạm trú. Trường hợp không xác định được nơi thường trú hoặc nơi
tạm trú thì tổ chức hội nghị cử tri tại thôn, tổ dân phố nơi người ứng cử đang
sinh sống. Trường hợp người ứng cử cư
trú tại khu chung cư, khu đô thị chưa có tổ dân phố thì tổ chức hội nghị cử tri
tại khu chung cư hoặc khu đô thị nơi người đó sinh sống để lấy ý kiến đối với
người ứng cử.
Hình thức tổ chức hội nghị cử tri nơi cư trú được thực
hiện như sau:
- Đối với nơi có dưới 100 cử tri thì tổ chức hội nghị toàn thể cử tri để
lấy ý kiến về người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và
phải bảo đảm số lượng cử tri tham dự hội nghị đạt ít nhất là 50% tổng số cử tri
được triệu tập.
- Đối với nơi có từ 100 cử tri trở lên thì có thể tổ chức hội nghị toàn
thể hoặc hội nghị cử tri đại diện hộ gia đình và phải bảo đảm có ít nhất là 55
cử tri tham dự hội nghị.
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân cấp xã, người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị, thôn, tổ dân phố đã giới thiệu
người ứng cử được mời tham dự hội nghị.
Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã phối hợp với Ủy ban nhân dân cùng
cấp triệu tập và chủ trì hội nghị. Trưởng ban công tác Mặt trận phối hợp với
Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố lập danh sách và mời cử tri đến dự hội nghị.
Trường hợp tổ chức hội nghị cử tri tại khu
chung cư hoặc khu đô thị chưa được tách hay thành lập tổ dân phố riêng thì Trưởng
ban công tác Mặt trận đang phụ trách địa bàn nơi có khu chung cư, khu đô thị
phối hợp với Ban quản trị hoặc Ban quản lý khu chung cư, Ban quản trị khu đô thị (nếu có) lập danh sách và mời cử
tri cư trú tại tòa nhà khu chung cư hoặc khu đô thị đến dự hội nghị.
Thủ tục tổ chức hội nghị cử tri nơi cư trú được thực hiện
như sau:
- Người chủ
trì hội nghị tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu dự hội nghị. Người chủ trì có
trách nhiệm sau đây:
+ Giới thiệu
mục đích, yêu cầu của hội nghị.
+ Giới thiệu
Thư ký hội nghị để hội nghị quyết định.
+ Báo cáo về
số lượng cử tri được mời, số lượng cử tri có mặt.
+ Giới thiệu
danh sách người ứng cử.
+ Đọc tiêu
chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Điều 22 của Luật Tổ chức Quốc
hội (đối với hội nghị cử tri lấy ý kiến về người ứng cử đại biểu Quốc
hội), tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại Điều 7 của
Luật Tổ chức chính quyền địa phương (đối với hội nghị cử tri lấy ý kiến về
người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân) và những trường hợp không được ứng cử
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại Điều 37 của
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Thư ký hội
nghị đọc tiểu sử tóm tắt của từng người ứng cử.
- Cử tri phát
biểu ý kiến đối với từng người ứng cử. Cử tri đối chiếu với tiêu chuẩn của đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối
với người ứng cử.
- Người ứng cử
phát biểu.
- Đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử phát biểu ý
kiến.
- Hội nghị
biểu quyết bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu
gồm từ 03 đến 05 người. Trường hợp hội nghị biểu quyết bằng hình thức giơ tay
thì Tổ kiểm phiếu đếm, tính kết quả biểu quyết đối với từng người ứng cử.
Trường hợp hội nghị biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín thì phiếu tín nhiệm
của cử tri nơi công tác phải đóng dấu của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc Ban
chấp hành Công đoàn của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; phiếu tín nhiệm của cử tri
nơi cư trú phải đóng dấu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã hoặc của
Ủy ban nhân dân cùng cấp. Trên phiếu tín nhiệm ghi rõ họ và tên người ứng cử.
Nếu có nhiều người ứng cử thì ghi rõ họ và tên của những người ứng cử, xếp theo
vần chữ cái A, B, C... Cử tri gạch tên người ứng cử mà mình không tín nhiệm và bỏ
vào hòm phiếu.
- Tổ trưởng Tổ
kiểm phiếu công bố kết quả biểu quyết.
- Hội nghị thông qua biên bản hội nghị cử tri (theo
Mẫu số 02/HNCT).
Biên
bản hội nghị cử tri phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến,
kết quả hội nghị; trong đó, phải ghi rõ tổng số cử tri được triệu tập, số lượng
cử tri có mặt, ý kiến phát biểu và sự tín nhiệm của cử tri đối với từng người
ứng cử.
Biên
bản hội nghị cử tri nơi cư trú lấy ý kiến về người ứng cử đại biểu Quốc hội
được cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương giới thiệu phải được gửi đến Ban
Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; biên bản hội nghị cử
tri nơi cư trú lấy ý kiến về người ứng cử đại biểu Quốc hội được cơ quan, tổ
chức, đơn vị ở địa phương giới thiệu, người tự ứng cử đại biểu Quốc hội phải
được gửi đến Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh ngay sau
khi kết thúc hội nghị cử tri.
Biên
bản hội nghị cử tri nơi cư trú lấy ý kiến về người được cơ quan, tổ chức, đơn
vị giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, biên bản hội nghị cử tri lấy ý
kiến về người tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải được gửi đến Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương ngay sau
khi kết thúc hội nghị cử tri.
Trong quá trình lấy ý kiến cử tri
nơi cư trú (đối với tất các những người được giới thiệu ứng cử) và lấy ý kiến
cử tri nơi công tác (nếu có) (đối với những người tự ứng cử, người được thôn,
tổ dân phố giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã), nếu phát sinh
các vấn đề, vụ việc mà cử tri nêu ra cần phải được kiểm tra, xác minh thì việc
xác minh và trả lời về các vụ việc do cử tri nêu được thực hiện như sau:
- Đối với vụ việc ở nơi công tác
thì cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý người ứng cử có trách nhiệm xác
minh và trả lời bằng văn bản cho Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh (đối
với người ứng cử đại biểu Quốc hội); Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương (đối với người ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân).
Trường hợp người ứng cử là người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực
tiếp có trách nhiệm xác minh và trả lời. Nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị không có
cấp trên trực tiếp quản lý thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định, thành lập
cơ quan, tổ chức, đơn vị đó có trách nhiệm xác minh và trả lời.
- Đối với vụ việc ở khu dân cư
thì cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử có trách nhiệm phối hợp
với Ủy ban nhân dân cấp xã xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban Thường trực
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp tỉnh (đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội); Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương (đối với
người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân).
- Đối với người tự ứng cử đại
biểu Quốc hội thì Ủy ban bầu cử ở tỉnh có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ
chức, đơn vị trực tiếp quản lý người đó hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người
đó cư trú xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh. Đối với người tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
thì Ủy ban bầu cử có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị trực
tiếp quản lý người đó hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác minh
và trả lời bằng văn bản cho Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cấp tổ chức hội nghị hiệp thương.
Chậm nhất là ngày 13 tháng
4 năm 2021 (40 ngày trước ngày bầu cử và trước khi tiến hành Hội
nghị hiệp thương lần thứ ba), việc xác minh và trả lời về các vụ việc mà cử tri
nêu đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải
được tiến hành xong.
Việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội
điều chỉnh lần thứ hai về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ
chức, đơn vị ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc
hội là nhằm bảo đảm cơ cấu, thành phần người được giới thiệu đáp ứng được yêu
cầu mà luật đã quy định (về số người ứng cử là người dân tộc thiểu số, là phụ
nữ), bảo đảm tỷ lệ cân đối người ứng cử là người trẻ tuổi, người ngoài Đảng,
người đại diện cho các cơ quan, tổ chức ở trung ương với địa phương, người đại diện
cho các cơ cấu ngành nghề trong xã hội... và phù hợp với tình hình thực tế, số
lượng, chất lượng của người ứng cử trong cuộc bầu cử này.
Do đó, sau khi nhận được biên bản
của Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở trung ương và địa phương về danh sách sơ
bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội do Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương gửi đến và căn cứ vào kết quả Hội nghị hiệp
thương lần thứ hai, chậm nhất là ngày 29 tháng 3 năm 2021 (55
ngày trước ngày bầu cử), Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ hai cơ
cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và
địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
Hội
nghị hiệp thương lần thứ ba ở trung ương do
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập, chủ trì trong
khoảng thời gian từ ngày 14 tháng 4 năm 2021 đến ngày 18 tháng 4 năm 2021 (chậm
nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử) để lựa chọn, lập danh sách những người đủ
tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội ở trung ương.
Thành
phần tham dự hội nghị cũng tương tự như các Hội nghị hiệp thương lần trước đó
gồm: Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện ban
lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đại diện Hội đồng bầu cử quốc
gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ được mời tham dự hội nghị.
Thủ tục tổ chức
Hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở trung ương được thực hiện như sau:
-
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam báo cáo về tình hình,
kết quả tổ chức lấy ý kiến nhận xét và sự tín nhiệm của cử tri nơi công tác,
nơi cư trú đối với những người ứng cử, trong đó nêu rõ những trường hợp cần xem
xét do có vụ việc cử tri nêu và danh sách người được dự kiến giới thiệu ứng cử đại
biểu Quốc hội. Những trường hợp người ứng cử không đạt sự tín nhiệm của trên 50% tổng số cử
tri tham dự tại hội nghị cử tri nơi cư trú thì không đưa vào danh sách giới
thiệu tại Hội nghị hiệp thương lần thứ
ba, trừ trường hợp đặc biệt cần báo cáo rõ để hội
nghị hiệp thương xem xét, quyết định.
Trường hợp đặc biệt là những người có đủ điều kiện,
tiêu chuẩn dự kiến giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội nhưng do điều kiện công
tác đặc thù ít tiếp xúc với cử tri và Nhân dân nơi cư trú nên không đạt được
trên 50% tổng số phiếu tín nhiệm của cử tri tham dự hội nghị…
-
Hội nghị tiến hành thảo luận, lựa chọn, lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn
ứng cử đại biểu Quốc hội.
Trường
hợp không thoả thuận được thì hội nghị quyết định biểu quyết bằng hình thức giơ
tay hoặc bỏ phiếu kín. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu gồm từ 03 đến 05 người. Trường
hợp quyết định biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín thì phiếu biểu quyết phải
có dấu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chỉ các đại biểu thuộc
thành phần hội nghị hiệp thương có mặt tại hội nghị mới được quyền biểu quyết.
-
Hội nghị thông qua biên bản và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại
biểu Quốc hội (theo Mẫu số 01/BCĐBQH-MT và Mẫu số 05/BCĐBQH-MT).
Chậm nhất là ngày 23 tháng 4 năm 2021 (30 ngày trước ngày bầu
cử), Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gửi biên
bản Hội nghị hiệp thương lần thứ ba và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng
cử được Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới
thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đến Hội đồng bầu cử quốc gia và Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
Hội
nghị hiệp thương lần thứ ba ở địa phương do
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh triệu tập, chủ trì trong
khoảng thời gian từ ngày 14 tháng 4 năm 2021 đến ngày 18 tháng 4 năm 2021 (chậm
nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử) để lựa chọn, lập danh sách những người đủ
tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội ở địa phương.
Thành
phần tham dự hội nghị cũng tương tự như các Hội nghị hiệp thương lần trước đó
gồm: Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện ban lãnh đạo các tổ chức
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và đại diện Ban Thường trực
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện trực thuộc. Đại diện Ủy ban bầu cử ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự hội nghị này.
Thủ tục tổ chức
Hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở địa phương được thực hiện như sau:
-
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh báo cáo về tình hình,
kết quả tổ chức lấy ý kiến nhận xét và sự tín nhiệm của cử tri nơi công tác,
nơi cư trú đối với những người ứng cử, trong đó cần nêu rõ những trường hợp cần
xem xét do có vụ việc cử tri nêu và danh sách người được dự kiến giới thiệu ứng cử đại
biểu Quốc hội. Danh sách giới thiệu người ứng cử trình Hội nghị hiệp thương lần thứ
ba phải bảo đảm có số dư lớn hơn số dư tối thiểu theo quy định của Luật Bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Những trường hợp người ứng cử không đạt sự tín nhiệm của trên 50% tổng số cử
tri tham dự tại hội nghị cử tri nơi cư trú thì không đưa vào danh sách giới
thiệu tại Hội nghị hiệp thương lần thứ
ba, trừ trường hợp đặc biệt cần báo cáo rõ để hội
nghị hiệp thương xem xét, quyết định.
Trường hợp đặc biệt là những người có đủ điều kiện,
tiêu chuẩn dự kiến giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội nhưng do điều kiện công
tác đặc thù ít tiếp xúc với cử tri và Nhân dân nơi cư trú nên không đạt được
trên 50% tổng số phiếu tín nhiệm của cử tri tham dự hội nghị…
-
Hội nghị tiến hành thảo luận, lựa chọn,
lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội.
Trường
hợp không thoả thuận được thì hội nghị quyết định biểu quyết bằng hình thức giơ
tay hoặc bỏ phiếu kín. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu gồm từ 03 đến 05 người.
Trường hợp quyết định biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín thì phiếu biểu
quyết phải đóng dấu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh. Chỉ các đại
biểu thuộc thành phần hội nghị hiệp thương có mặt tại hội nghị mới được quyền
biểu quyết.
-
Hội nghị thông qua biên bản và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại
biểu Quốc hội (theo Mẫu số 01/BCĐBQH-MT và Mẫu số 05/BCĐBQH-MT).
Chậm nhất là ngày 23 tháng 4 năm 2021 (30 ngày trước ngày bầu
cử), Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh gửi biên bản Hội nghị hiệp
thương lần thứ ba ở địa phương cùng danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử được Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh giới thiệu ứng cử đại
biểu Quốc hội đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ban
Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban bầu cử ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hội
nghị hiệp thương lần thứ ba ở cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã do Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp tổ chức hiệp thương triệu tập, chủ trì trong khoảng
thời gian từ ngày 14 tháng 4 năm 2021 đến ngày 18 tháng 4 năm 2021 (chậm
nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử) để lựa chọn, lập danh sách những người đủ
tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình.
Thành phần tham dự hội nghị cũng tương tự như các Hội
nghị hiệp thương lần trước đó gồm: Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại
diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Đại diện Ủy ban bầu cử, Thường trực Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng cấp được mời tham dự hội nghị này.
Thủ tục tổ
chức Hội nghị hiệp thương lần thứ ba để giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân được thực hiện như sau:
-
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp
thương báo cáo về tình hình, kết quả tổ chức lấy ý kiến nhận xét và sự tín
nhiệm của cử tri nơi công tác, nơi cư trú đối với những người ứng cử, trong đó
cần nêu rõ những trường hợp cần xem xét do có vụ việc cử tri nêu và danh sách người
được dự kiến giới thiệu ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân. Danh sách giới thiệu
người ứng cử trình Hội nghị hiệp thương lần thứ ba phải bảo đảm có số dư lớn
hơn số dư tối thiểu theo quy định của Luật. Những
trường hợp người ứng cử không đạt sự tín nhiệm của trên
50% tổng
số cử tri tham dự tại hội nghị cử tri nơi cư trú thì không đưa vào danh
sách giới thiệu tại Hội nghị hiệp thương lần thứ
ba, trừ trường hợp đặc biệt cần báo cáo rõ để hội
nghị hiệp thương xem xét, quyết định.
Trường hợp đặc biệt là những người có đủ điều kiện,
tiêu chuẩn dự kiến giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhưng do điều
kiện công tác đặc thù ít tiếp xúc với cử tri và Nhân dân nơi cư trú nên không
đạt được trên 50% tổng số phiếu tín nhiệm của cử tri tham dự hội nghị…
-
Hội nghị tiến hành thảo luận, lựa chọn, lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Trường
hợp không thoả thuận được thì hội nghị quyết định biểu quyết bằng hình thức giơ
tay hoặc bỏ phiếu kín. Hội nghị cử Tổ kiểm phiếu gồm từ 03 đến 05 người. Trường
hợp quyết định biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín thì phiếu biểu quyết phải
đóng dấu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương.
Chỉ các đại biểu thuộc thành phần hội nghị hiệp thương có mặt tại hội nghị mới
được quyền biểu quyết.
-
Hội nghị thông qua biên bản và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân (theo Mẫu số 01/BCĐBHĐND-MT và Mẫu số 05/BCĐBHĐND-MT).
Chậm nhất là ngày 23 tháng 4 năm 2021 (30 ngày trước ngày bầu cử), Ban Thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh gửi biên bản Hội nghị hiệp thương lần thứ ba
và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
bầu cử cùng cấp; Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện,
cấp xã gửi biên bản Hội nghị hiệp thương lần thứ ba và danh sách những người đủ
tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp đến Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp
và Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử cùng cấp.
Ngày
14 tháng 3 năm 2021 (70 ngày
trước ngày bầu cử) là thời hạn cuối cùng để công dân hoàn thành việc nộp hồ sơ
ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (bao gồm cả người
được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử).
Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định chậm nhất là 65
ngày trước ngày bầu cử phải tổ chức xong Hội nghị hiệp thương lần thứ hai. Hội
nghị hiệp thương lần thứ hai căn cứ vào tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân, cơ cấu thành phần và số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân được bầu của các cơ quan, tổ chức, đơn vị đã được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp điều chỉnh lần
thứ nhất để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân và gửi lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri
nơi cư trú; đối với người tự ứng cử thì còn được gửi lấy ý kiến nhận xét và tín
nhiệm của cử tri nơi người đó làm việc (nếu có). Do đó, khi thời hạn tổ chức
Hội nghị hiệp thương lần thứ hai đã hết thì không thể còn thời gian để nộp bổ
sung hồ sơ ứng cử mới được nữa. Bởi vậy, việc bổ sung người ứng cử vào danh
sách sơ bộ người ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc danh sách sơ bộ người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân sau ngày 14 tháng 3 năm 2021 là không thể thực hiện được.
Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc chỉ
đạo công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu cử được phân công cụ thể như
sau:
- Hội đồng bầu cử quốc gia chỉ đạo công tác thông tin,
tuyên truyền và vận động bầu cử trong phạm vi cả nước; Ủy ban bầu cử các cấp
chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu cử và giải
quyết khiếu nại, tố cáo về vận động bầu cử ở địa phương.
- Các cơ quan báo
chí ở trung ương có trách nhiệm đưa tin về quá trình tổ chức công tác bầu cử,
tình hình vận động bầu cử trong phạm vi cả nước. Các cơ quan thông tin đại
chúng của địa phương có trách nhiệm đưa tin về hội nghị tiếp xúc cử tri, trả
lời phỏng vấn của những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân và việc vận động bầu cử ở địa phương.
- Ban Thường trực
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức hội nghị tiếp
xúc cử tri cho người ứng cử đại biểu Quốc hội. Ban thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã có trách nhiệm tổ chức hội nghị
tiếp xúc cử tri cho người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình. Ủy ban
nhân dân các cấp có trách nhiệm phối hợp với Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng cấp trong việc tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri cho người
ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị sự
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và chính quyền địa phương
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tạo điều kiện cho người ứng cử đại
biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc với cử tri ở cơ quan,
tổ chức, đơn vị, địa phương mình.
Việc tuyên truyền
về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021-2026 có các mục đích sau đây:
- Tuyên truyền sâu
rộng, tạo sự thống nhất về nhận thức, tư tưởng chính trị và hành động trong
Đảng, sự đồng thuận trong xã hội để tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đạt kết quả cao,
bảo đảm dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm và thực sự là
ngày hội của toàn dân.
- Thông qua tuyên
truyền bầu cử góp phần tích cực vào việc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; cổ vũ, động viên toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân đoàn kết, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị
quyết đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 và Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Việc tuyên truyền
về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng; nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 cần tập trung vào các nội dung sau đây:
1. Tuyên truyền,
nêu bật mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; phân
tích, làm rõ bối cảnh diễn ra sự kiện chính trị quan trọng này, đó là đất nước
ta sau 35 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực đời sống
cũng như vượt qua những khó khăn, thách thức, nhất là từ dịch bệnh Covid - 19
của năm 2020.
2. Quán triệt đầy
đủ, sâu sắc chủ trương, quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về cuộc
bầu cử được nêu trong các chỉ thị của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ (Chỉ
thị số 45-CT/TW ngày 20 tháng 6 năm 2020 của Bộ Chính trị về Lãnh đạo cuộc bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026; Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Thủ tướng Chính
phủ về Tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026); các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cơ quan
chức năng các cấp, như Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Nghị quyết số
1185/NQ-UBTVQH14 về dự kiến số lượng, cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội khóa
XV, Nghị quyết số 1186/NQ-UBTVQH14 về việc hướng dẫn tổ chức hội nghị cử tri,
việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở thôn, tổ dân
phố, việc hiệp thương, giới thiệu người ứng cử, lập danh sách người ứng cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân trong bầu cử bổ sung, Nghị quyết số
1187/NQ-UBTVQH14 về dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được
giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026…), Ủy
ban Kiểm tra Trung ương Đảng (Hướng dẫn số 13-HD/UBKTTW ngày 02 tháng 12 năm
2020 về giải quyết tố cáo, khiếu nại về bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 của cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy
ban kiểm tra các cấp), Hội đồng Bầu cử quốc gia, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (Nghị quyết liên tịch số 09/2021/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN
ngày 15/01/2021 về Hướng dẫn quy trình
hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026) và Hội đồng nhân dân các cấp...
3. Tuyên truyền
các quy định của pháp luật, như Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm
2015 (vừa được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 65/2020/QH14), Luật Tổ
chức chính quyền địa phương (vừa được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
47/2019/QH14), Thông tư số 01/2021/TT-BNV ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Bộ Nội
vụ về Hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Trong đó, tập trung
tuyên truyền vị trí, vai trò của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; nguyên
tắc bầu cử, tiêu chuẩn đại biểu, quyền bầu cử và ứng cử của công dân; số lượng,
cơ cấu đại biểu (độ tuổi, vùng miền, thành phần...); việc thẩm định hồ sơ, danh
sách, lý lịch của người được giới thiệu ứng cử và tự ứng cử; quyền lợi và trách
nhiệm của cử tri... Chú trọng giới thiệu những điểm mới của cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
4. Nêu bật những
thành tựu của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp qua các thời kỳ; khẳng định
sự kế thừa, phát huy tinh thần đổi mới của Quốc hội trong hoạt động lập pháp,
giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; việc thực hiện
trách nhiệm là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thể chế hóa đường lối, chủ
trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong những
năm vừa qua, đặc biệt là 05 năm gần đây.
5. Tuyên truyền sự
lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp đối với công
tác bầu cử (chuẩn bị tổ chức và quá trình thực hiện...); nhấn mạnh vai trò,
tinh thần trách nhiệm của các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị cũng như cử tri cả
nước, góp phần vào sự thành công của cuộc bầu cử. Tập trung tuyên truyền kết
quả bầu cử và không khí dân chủ, đúng pháp luật trong bầu cử, nhất là ý thức tự
giác thực hiện quyền lợi và trách nhiệm của cử tri.
6. Tuyên truyền
các phong trào thi đua yêu nước và các hoạt động chào mừng; biểu dương kịp thời
những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác bầu cử, nhất là
bầu cử ở nơi biên giới, hải đảo, các vùng còn nhiều khó khăn, các vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, tôn giáo.
7. Tuyên truyền
đấu tranh, phản bác thông tin, quan điểm sai trái, xuyên tạc phá hoại cuộc bầu
cử, lợi dụng bầu cử để kích động, gây rối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, chống phá Đảng và Nhà nước.
Trong cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XV, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026, các cơ quan, tổ chức, địa phương cần tập trung sử dụng các khẩu hiệu
tuyên truyền sau đây:
1. Nhiệt liệt chào
mừng Ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2021-2026!
2. Ngày 23-5-2021,
cử tri cả nước đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026!
3. Cử tri cả nước
tích cực tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026!
4. Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là quyền và nghĩa vụ của mỗi
công dân!
5. Bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 là
ngày hội của toàn dân!
6. Sáng suốt lựa
chọn những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của Nhân dân bầu vào Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026!
7. Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là trực tiếp góp phần xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân!
8. Toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân thi đua lập thành tích chào mừng cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026!
9. Đảng Cộng sản
Việt Nam quang vinh muôn năm!
10. Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
11. Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
Công tác tuyên
truyền về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 được tiến hành từ tháng 01 năm 2021, cao điểm từ
tháng 4 năm 2021 đến ngày bầu cử 23 tháng 5 năm 2021 và sau khi kết thúc bầu
cử, công bố kết quả bầu cử, cụ thể:
- Đợt 1: Từ tháng 01
năm 2021, cao điểm tháng 4 năm 2021.
Tập trung tuyên
truyền Hiến pháp năm 2013, Chỉ thị 45-CT/TW ngày 20 tháng 6 năm 2020 của Bộ
Chính trị, Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Thủ tướng Chính
phủ, các quy định của pháp luật, kế hoạch, hướng dẫn về bầu cử; tiêu chuẩn về
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; quy định về giới thiệu
người ứng cử, tự ứng cử; quyền lợi và trách nhiệm của cử tri.
Tuyên truyền những
thành tựu của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp qua các thời kỳ, đặc biệt
là những đổi mới trong hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước những năm gần đây.
- Đợt 2: Từ tháng 4 năm 2021
đến ngày bầu cử 23 tháng 5 năm 2021.
Tiếp tục tuyên truyền về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp, quyền và nghĩa vụ của người ứng cử, quyền lợi và nghĩa vụ của
cử tri, các quy định về bầu cử và thể thức bầu cử.
Tập trung tuyên truyền về diễn biến cuộc bầu cử, không khí phấn khởi, tin
tưởng của cử tri và Nhân dân cả nước trong Ngày bầu cử 23 tháng 5 năm 2021.
- Đợt 3: Sau ngày bầu cử 23
tháng 5 năm 2021.
Tập trung tuyên truyền kết quả bầu cử và các hoạt động chào mừng thành
công cuộc bầu cử trên cả nước.
Vận
động bầu cử của người ứng cử là hoạt động gặp gỡ, tiếp xúc cử tri hoặc thông
qua phương tiện thông tin đại chúng để người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân báo cáo với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình
nhằm thực hiện trách nhiệm đại biểu nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân và trao đổi những vấn đề mà cử tri quan tâm; tạo điều
kiện để cử tri tiếp xúc với người ứng cử, hiểu rõ hơn người ứng cử; trên cơ sở
đó cân nhắc, lựa chọn, bầu những người đủ tiêu chuẩn làm đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân.
Việc
tổ chức vận động bầu cử phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
- Việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, công
khai, bình đẳng, đúng pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
- Người ứng cử đại biểu
Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử nào thì thực hiện
vận động bầu cử tại đơn vị bầu cử đó.
-
Các tổ chức phụ trách bầu cử và thành viên của các tổ chức này không được vận
động cho người ứng cử.
Việc
vận động bầu cử của người ứng cử được tiến hành bằng các hình thức sau đây:
-
Gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri ở địa phương nơi mình
ứng cử.
-
Thông qua phương tiện thông tin đại chúng.
Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh chủ trì phối hợp với Ủy
ban nhân dân ở đơn vị bầu cử tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri cho những người
ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Thành
phần tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri gồm đại diện các cơ quan, tổ chức, đơn vị
và cử tri ở địa phương.
Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện, cấp xã phối hợp với Ủy
ban nhân dân cấp xã tại đơn vị bầu cử tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri cho
những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình. Thành phần tham dự hội
nghị tiếp xúc cử tri gồm đại diện các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cử tri ở địa
phương.
Ủy
ban nhân dân nơi tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri có trách nhiệm thông báo về
thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị để cử tri tham dự đông đủ.
Chương
trình hội nghị tiếp xúc cử tri gồm các nội dung sau đây:
- Tuyên bố lý do.
- Đại diện Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri chủ trì cuộc
tiếp xúc cử tri, giới thiệu và đọc tiểu sử tóm tắt của người ứng cử.
- Từng người ứng cử báo cáo
với cử tri về chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Cử tri nêu ý kiến, đề đạt
nguyện vọng của mình với những người ứng cử. Người ứng cử và cử tri trao đổi
dân chủ, thẳng thắn và cởi mở những vấn đề cùng quan tâm.
- Người chủ trì hội nghị phát
biểu ý kiến kết thúc hội nghị.
Sau hội nghị tiếp xúc cử tri, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp tỉnh lập báo cáo tình hình tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri của
người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa phương,
ý kiến của cử tri về từng người ứng cử đại biểu Quốc hội gửi đến Hội đồng bầu
cử quốc gia và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp lập báo cáo tình hình tổ
chức hội nghị tiếp xúc cử tri của người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa
phương mình gửi đến Ủy ban bầu cử cùng cấp và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội
trình bày với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu
làm đại biểu Quốc hội khi trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại
chúng ở địa phương nơi mình ứng cử và trên trang thông tin điện tử về bầu cử
đại biểu Quốc hội của Hội đồng bầu cử quốc gia.
Người ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân trình bày với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nếu
được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân khi trả lời phỏng vấn trên các phương
tiện thông tin đại chúng ở địa phương và trên trang thông tin điện tử về bầu cử
của Ủy ban bầu cử (nếu có).
Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban
bầu cử có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan quản lý trang thông tin điện tử thực hiện
đúng các quy định của pháp luật về việc đăng tải nội dung vận động bầu cử.
Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức việc đăng tải, thông tin chương trình hành động
của người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân trên các
phương tiện thông tin đại chúng của địa phương.
Hội đồng bầu cử quốc
gia chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử trong phạm vi
cả nước; Ủy ban bầu cử các cấp chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên
truyền, vận động bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo về vận động bầu cử ở
địa phương.
Các
cơ quan báo chí ở trung ương có trách nhiệm đưa tin về quá trình tổ chức công
tác bầu cử, tình hình vận động bầu cử trong phạm vi cả nước. Các cơ quan thông
tin đại chúng của địa phương có trách nhiệm đưa tin về hội nghị tiếp xúc cử
tri, trả lời phỏng vấn của những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân và việc vận động bầu cử ở địa phương.
Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức
hội nghị tiếp xúc cử tri cho người ứng cử đại biểu Quốc hội. Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã có trách nhiệm tổ
chức hội nghị tiếp xúc cử tri cho người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
mình. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm phối hợp với Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp trong việc tổ chức hội nghị tiếp xúc cử
tri cho người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị sự nghiệp,
tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và chính quyền địa phương trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tạo điều kiện cho người ứng cử đại biểu Quốc
hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc với cử tri ở cơ quan, tổ chức,
đơn vị, địa phương mình.
Những hành vi bị cấm trong
vận động bầu cử gồm:
- Lợi dụng vận động bầu cử để
tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, nhân
phẩm, uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân khác.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn
để sử dụng phương tiện thông tin đại chúng trong vận động bầu cử.
- Lợi dụng vận động bầu cử để
vận động tài trợ, quyên góp ở trong nước và nước ngoài cho tổ chức, cá nhân
mình.
- Sử dụng hoặc hứa tặng, cho,
ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo, mua chuộc cử tri.
- Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy
ban bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử không được vận động bầu cử cho những người
ứng cử. Thành viên của các tổ chức phụ trách bầu cử nói trên không được lợi
dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vận động bầu cử cho những người ứng cử nhằm
bảo đảm sự công bằng, bình đẳng đối với những người ứng cử.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân quy định ngày bầu cử phải là ngày Chủ nhật và được công bố chậm nhất
là 115 ngày trước ngày bầu cử. Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc
bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử quốc gia
xem xét, quyết định.
Căn cứ vào quy định nói trên, Quốc hội khóa XIV đã
ban hành Nghị quyết số 133/2020/QH14 ngày 17 tháng 11 năm 2020 quyết định rõ Ngày
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026 là Chủ nhật, ngày 23 tháng 5 năm 2021.
Trong ngày bầu cử đã được cơ quan có thẩm quyền
quyết định, công bố, việc bỏ phiếu sẽ được bắt đầu từ 07 giờ sáng và thực hiện
liên tục cho đến 07 giờ tối cùng ngày. Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có
thể quyết định cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không được trước 05 giờ
sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá 09 giờ tối cùng ngày.
Trường hợp gần đến giờ kết thúc việc bỏ phiếu theo
quy định mà vẫn còn cử tri chưa thực hiện xong việc bỏ phiếu thì Tổ bầu cử có
trách nhiệm thông báo đến các cử tri còn ở trong khu vực phòng bỏ phiếu về việc
chuẩn bị kết thúc thời gian bỏ phiếu và đề nghị cử tri khẩn trương hoàn thành
việc bỏ phiếu. Tổ bầu cử thực hiện việc đóng hòm phiếu vào đúng thời gian đã
quy định, không phụ thuộc vào việc cử tri đã bỏ phiếu hết hay chưa.
Việc bỏ phiếu phải được tiến hành liên tục. Trong
trường hợp có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu thì Tổ bầu cử phải
lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu liên quan trực tiếp đến cuộc bầu cử, kịp
thời báo cáo cho Ban bầu cử, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để
việc bỏ phiếu được tiếp tục.
Trường hợp chưa hết thời gian bỏ phiếu theo quy
định mà đã có 100% người trong danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu đã tham
gia bỏ phiếu thì Tổ bầu cử cũng không được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu và
tiến hành kiểm phiếu trước thời điểm 07 giờ tối cùng ngày. Do đó, về nguyên
tắc, các Tổ bầu cử, thành viên các Tổ bầu cử có thể vận động, tuyên truyền để
cử tri tích cực tham gia bỏ phiếu, thực hiện quyền bầu cử của mình nhưng không
được thúc giục, ép buộc cử tri phải đi bỏ phiếu sớm để kết thúc sớm việc bỏ
phiếu.
Địa điểm bỏ phiếu được bố trí ở những nơi công cộng
(như nhà văn
hóa, hội trường, trường học,...) thuận tiện cho cử tri cũng như thuận lợi cho
việc bố trí các trang thiết bị phục vụ cho cuộc bầu cử. Tùy theo điều kiện cơ sở vật
chất ở địa phương và căn cứ vào mật độ phân bố dân cư ở
khu vực bỏ phiếu, Tổ bầu cử lựa chọn địa điểm bỏ phiếu (phòng bỏ phiếu) cho phù
hợp, bảo đảm thuận tiện để cử tri đến bầu cử.
Địa điểm bỏ phiếu phải được trang
trí trang nghiêm, tiết kiệm; bố trí lối vào cho cử tri bỏ phiếu và lối ra cho
cử tri sau khi đã bỏ phiếu xong; địa điểm bỏ phiếu phải bảo đảm an ninh, trật
tự. Tổ trưởng Tổ bầu cử phải phân
công thành viên Tổ bầu cử luân phiên trực bảo vệ địa điểm bỏ phiếu cả ngày và
đêm trước, trong ngày bầu cử và cho đến khi kết thúc việc bỏ phiếu, tổng hợp,
lập biên bản kiểm phiếu gửi đến Ủy ban bầu cử tương ứng.
Địa điểm bỏ phiếu gồm: cổng ra -
vào, khu vực bên ngoài phòng bỏ phiếu và khu vực bên trong phòng bỏ phiếu phải
được trang trí theo mẫu hướng dẫn tại Thông tư số 01/2020/TT-BNV ngày 11 tháng
01 năm 2021 của Bộ Nội vụ và cơ quan có thẩm quyền ở địa phương.
a) Cổng ra
- vào và khu vực bên ngoài phòng bỏ phiếu:
- Tổ bầu cử sử dụng vật liệu sẵn
có ở địa phương để làm cổng ra vào khu vực bỏ phiếu.
- Khu vực bên ngoài phòng bỏ
phiếu là nơi niêm yết danh sách cử tri; nội quy phòng bỏ phiếu, thể lệ bầu cử;
nơi tổ chức lễ khai mạc; nơi tiếp đón cử tri đến bỏ phiếu. Khu vực này có thể
bố trí bàn, ghế để cử tri chờ thực hiện việc bỏ phiếu.
b) Khu vực
bên trong phòng bỏ phiếu:
- Khu vực bên trong phòng bỏ
phiếu phải được bố trí trang trọng, đủ bàn, ghế, bút viết và những điều kiện
cần thiết để cử tri đến bỏ phiếu; nơi nào có hội trường rộng thì có thể tổ chức
lễ khai mạc ngay trong phòng bỏ phiếu.
- Phòng bỏ phiếu phải có lối đi
vào, lối đi ra một chiều và theo trật tự nhất định, có thể tham khảo bố trí
theo sơ đồ sau: Bắt đầu lối vào là bàn hướng dẫn, bàn để cử tri xuất trình Thẻ
cử tri và nhận phiếu bầu; tiếp đến là một số bàn để cử tri viết phiếu bầu, nơi
để hòm phiếu; bàn đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào Thẻ cử tri để xác nhận cử tri đã
bỏ phiếu; lối ra cho cử tri sau khi cử tri đã thực hiện xong việc bỏ phiếu.
- Tùy điều kiện cụ thể của từng
phòng bỏ phiếu, Tổ bầu cử niêm yết danh sách, tiểu sử những người ứng cử; tiêu
chuẩn đại biểu Quốc hội và tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân để cử tri tham
khảo trước khi viết phiếu bầu.
- Nơi cử tri viết phiếu bầu cần
có các vách ngăn hoặc phòng kín để bảo đảm cử tri ‘‘bỏ phiếu kín’’ theo quy
định của pháp luật về bầu cử.
Để cuộc bầu cử đạt kết quả,
bảo đảm dân chủ, hợp pháp của cuộc bầu cử và bảo đảm trật tự, an toàn, nhất là
trong ngày bỏ phiếu, các tổ chức phụ trách bầu cử và mọi công dân phải nghiêm
chỉnh chấp hành Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và
những văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Bên cạnh đó, khi đến bỏ
phiếu, mọi người đều phải tuân theo nội quy của phòng bỏ phiếu do Hội đồng bầu
cử quốc gia quy định.
Nội quy phòng bỏ phiếu được
Tổ bầu cử niêm yết tại phòng bỏ phiếu và gồm các nội dung sau đây:
- Phải chấp hành đúng
nguyên tắc, trình tự bỏ phiếu.
- Cử tri phải xếp hàng lần
lượt để thực hiện việc bỏ phiếu, ưu tiên người cao tuổi, người khuyết tật và
phụ nữ có thai.
- Phải giữ gìn an ninh,
trật tự, an toàn tại khu vực bỏ phiếu.
- Không được vận động bầu
cử tại nơi bỏ phiếu dưới bất kỳ hình thức nào.
- Không được mang vũ khí,
chất nổ, vật dễ cháy… vào khu vực bỏ phiếu, phòng bỏ phiếu.
- Những người không có
nhiệm vụ thì không được vào phòng bỏ phiếu.
- Thành viên của các tổ
chức phụ trách bầu cử, những người có nhiệm vụ phục vụ bầu cử phải đeo phù hiệu
theo mẫu do Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh quy định; thành viên Tổ bầu cử có trách
nhiệm hướng dẫn cử tri bỏ phiếu và giải đáp thắc mắc của cử tri.
- Khi cử tri bỏ phiếu xong,
Tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào mặt trước của Thẻ cử tri.
Thẻ cử tri chỉ có giá trị cho một lần bỏ phiếu.
- Người nào dùng thủ đoạn
lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử của công dân, vi phạm
các quy định về vận động bầu cử; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà
giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết
quả bầu cử hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về bầu cử thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc chuẩn bị hòm phiếu, số lượng, kích cỡ hòm
phiếu tùy theo đặc điểm, điều kiện của từng địa phương theo hướng dẫn cụ thể
của Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh. Hòm phiếu có thể được đóng mới hoặc sử dụng hòm
phiếu bầu cử hiện có. Hòm phiếu phải bảo đảm chắc chắn, trang trí sạch đẹp,
phía mặt trước của hòm phiếu có dán hình Quốc huy, phía dưới có dòng chữ “HÒM
PHIẾU”. Ngoài hòm phiếu chính, Tổ bầu cử phải chuẩn bị hòm phiếu phụ (hòm phiếu
lưu động) và băng niêm phong hòm phiếu.
Hòm phiếu phụ là hòm phiếu dự phòng và có thể được
di chuyển ra khỏi phòng bỏ phiếu. Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu,
khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ
và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và
thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm giam, người đang
chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ
chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ; người đang bị cách ly xã hội tập trung tại
các cơ sở điều trị Covid-19 hoặc các địa điểm cách ly tập trung khác và người đang
bị cách ly tại nhà (nếu có); những khu vực bị chia cắt do thiên tai, lũ lụt thì Tổ bầu cử
mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến các địa điểm nêu trên để cử tri nhận phiếu
bầu và thực hiện việc bầu cử.
Sau khi những cử tri này bỏ phiếu xong, thành
viên Tổ bầu cử phải mang ngay hòm phiếu phụ về phòng bỏ phiếu.
Phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội, Phiếu
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân từng cấp phải được in riêng từng loại trên 01
mặt trang giấy A5 (21cm x 14,8cm) theo chiều dọc khổ giấy. Màu sắc từng loại phiếu
bầu cử do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lựa chọn nhưng không được trùng màu với các
loại Phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội hay Phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp khác trên cùng địa bàn.
Phiếu bầu cử hợp lệ phải có dấu của Tổ
bầu cử ở góc phía trên bên trái. Trên phiếu phải ghi rõ:
- Tên đơn vị bầu cử.
- Tên phiếu bầu cử (Phiếu bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV hay Phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khóa mấy,
nhiệm kỳ 2021-2026 của đơn vị hành chính cụ thể nào).
- Số lượng đại biểu Quốc hội được bầu
do Hội đồng bầu cử quốc gia ấn định cho đơn vị bầu cử đó đối với Phiếu bầu cử
đại biểu Quốc hội hoặc số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu do Ủy ban
bầu cử tương ứng ấn định cho đơn vị bầu cử đó đối với Phiếu bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân.
- Phần ghi họ và tên những người ứng cử
tại đơn vị bầu cử xếp tên theo vần chữ cái A, B, C... như trên Danh sách chính thức những người ứng
cử đại biểu đã được công bố. Họ và tên mỗi người ứng cử ghi ở một dòng riêng.
Đằng trước họ và tên có từ "Ông" hoặc "Bà" tương ứng với
giới tính của từng người ứng cử. Trường hợp người ứng cử có tên khai sinh, tên
thường gọi khác nhau hoặc có tên gọi khác thì ghi tên khai sinh trước; tên
thường gọi, tên gọi khác hoặc pháp danh kèm theo pháp hiệu được ghi và đặt
trong dấu ngoặc đơn ở phía sau. Có thể viết trong cùng 01 dòng hoặc tách thành
02 dòng liền nhau nhưng có cùng kiểu chữ, cỡ chữ.
Trường hợp họ và tên của những người
ứng cử có phần tên giống nhau thì căn cứ vào phần họ để xác định thứ tự; trường
hợp phần họ cũng giống nhau thì căn cứ vào phần tên đệm. Trường hợp trùng hoàn
toàn cả họ, tên và tên đệm thì xếp theo ngày tháng năm sinh; người nào có ngày
tháng năm sinh sớm hơn thì được xếp trước; trên Phiếu bầu cử sẽ ghi thêm ngày
tháng năm sinh trong dấu ngoặc đơn ngay cạnh phần họ và tên của những người ứng
cử có họ và tên giống nhau.
Việc tổ chức in ấn Phiếu bầu cử đại
biểu Quốc hội do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện; việc tổ chức in ấn Phiếu bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào do Ủy ban nhân dân ở cấp đó thực hiện.
Các địa phương căn cứ vào điều kiện, tình hình thực tế, danh sách cử tri của
địa phương để quyết định tổng số phiếu bầu cử cần in (bao gồm cả tỷ lệ phiếu dự
phòng cần thiết). Việc in ấn, bàn giao, quản lý phiếu bầu cử phải được thực
hiện chặt chẽ, đúng quy định. Tại các khu vực bỏ phiếu, trước khi mở hòm phiếu
để kiểm phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm đếm, thống kê, lập biên bản và niêm phong
toàn bộ số phiếu bầu cử chưa sử dụng, số phiếu gạch hỏng bị đổi trả lại theo
đúng quy định.
Để sử dụng trong việc thực hiện công tác bầu cử,
Tổ bầu cử phân công thành viên nhận các loại tài liệu, vật tư sau đây từ Ủy ban
nhân dân cấp xã và Ban bầu cử cùng cấp:
1. Nhận Thẻ cử tri theo danh sách cử tri ở khu
vực bỏ phiếu và phát cho cử tri trước ngày bầu cử theo quy định của pháp luật
về bầu cử.
2. Nhận đủ số lượng phiếu bầu theo danh sách cử
tri và số lượng phiếu bầu dự phòng. Khi nhận phiếu bầu phải có biên bản bàn
giao giữa người giao và người nhận về số lượng cụ thể của từng loại phiếu bầu.
Tổ bầu cử kiểm tra kỹ phiếu bầu về số lượng đại biểu được bầu ở đơn vị bầu cử,
danh sách họ và tên những ứng cử viên đúng với khu vực bỏ phiếu của tổ mình và
phải quản lý chặt chẽ số lượng các loại phiếu bầu.
3. Con dấu của Tổ bầu cử và con dấu “Đã bỏ
phiếu”.
4. Các loại biên bản, biểu mẫu của Tổ bầu cử.
5. Danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu.
6. Danh sách và tiểu sử tóm tắt của những người
ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026 tại khu vực bỏ phiếu.
7. Nội quy phòng bỏ phiếu, thể lệ bầu cử, mẫu
diễn văn khai mạc, tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng
nhân dân.
8. Phù hiệu của các thành viên Tổ bầu cử.
9. Văn phòng phẩm (bút, giấy, kéo, thước kẻ, keo
dán, hộp mực con dấu,…).
10. Các tài liệu khác liên quan đến bầu cử theo
hướng dẫn của địa phương.
Câu 172.
Các công việc mà Tổ bầu cử cần thực hiện
trước ngày bầu cử là gì?
1. Tổ trưởng Tổ bầu cử chủ trì cuộc họp phân công
cụ thể cho từng thành viên thực hiện các công việc sau:
- Tổ trưởng phụ trách chung, trực tiếp chỉ đạo
hoạt động trong phòng bỏ phiếu và việc bỏ phiếu, việc kiểm phiếu.
- Thư ký chịu trách nhiệm quản lý tài liệu, phiếu
bầu, con dấu, làm biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử.
- Phân công thành viên chịu trách nhiệm về trang
trí phòng bỏ phiếu, trực tiếp chỉ đạo hoạt động ngoài phòng bỏ phiếu và bảo đảm
các điều kiện vật chất - kỹ thuật cho ngày bầu cử của Tổ bầu cử.
- Phân công thành viên chịu trách nhiệm kiểm tra
Thẻ cử tri, đối chiếu danh sách cử tri, đánh dấu theo dõi số cử tri đi bầu vào
danh sách cử tri, phát phiếu bầu đã được đóng dấu của Tổ bầu cử cho cử tri.
- Phân công thành viên chịu trách nhiệm hướng dẫn
cử tri cách thức bỏ phiếu và viết phiếu bầu.
- Phân công thành viên chịu trách nhiệm trực tại
bàn gần hòm phiếu, đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào mặt trước của Thẻ cử tri khi cử
tri đã bỏ phiếu bầu vào hòm phiếu.
- Phân công thành viên hướng dẫn cử tri ra, vào
phòng bỏ phiếu, nhận phiếu, viết phiếu và bỏ phiếu.
- Phân công thành viên phụ trách công tác bảo đảm
an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa điểm bỏ phiếu.
- Phân công thành viên đôn đốc, thông báo để các
cử tri đi bỏ phiếu.
- Các công việc khác liên quan đến công tác bầu
cử.
2. Tổ bầu cử thực hiện việc rà soát, kiểm tra lại
toàn bộ các loại phương tiện vật chất - kỹ thuật phục vụ ngày bầu cử, bao gồm:
- Phòng bỏ phiếu.
- Nơi niêm yết danh sách cử tri, danh sách người
ứng cử đại biểu Quốc hội và người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Phiếu bầu bảo đảm đúng đơn vị bầu cử, khu vực
bỏ phiếu.
- Các con dấu.
- Các hòm phiếu.
- Các biên bản, biểu mẫu của Tổ bầu cử.
- Thành phần dự lễ khai mạc, diễn văn khai mạc và
các văn phòng phẩm phục vụ việc bầu cử.
- Danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu, trong đó
cần xác định rõ số cử tri là người ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể trực
tiếp đi bỏ phiếu; người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở
giáo dục bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng; người đang bị tạm giữ
tại nhà tạm giữ; người đang bị cách ly xã hội tập trung tại các cơ sở điều trị
Covid-19 hoặc các địa điểm cách ly tập trung khác và người đang bị cách ly tại
nhà (nếu có); những khu vực bị chia cắt do thiên tai, lũ lụt để có kế hoạch đưa
hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến cho những cử tri này nhận phiếu bầu và thực hiện
việc bầu cử.
- Các phương tiện vật chất - kỹ thuật khác phục
vụ cho ngày bầu cử.
3. Quản lý phiếu bầu: Tổ trưởng Tổ bầu cử phân
công thành viên quản lý chặt chẽ số phiếu bầu. Trường hợp phát hiện phiếu bầu
bị mất thì Tổ bầu cử phải báo cáo ngay Ban bầu cử để có biện pháp xử lý kịp
thời.
1. Các thành viên Tổ bầu cử phải đến trước giờ
khai mạc để kiểm tra công tác chuẩn bị, bảo đảm thời gian khai mạc đúng giờ quy
định. Việc bỏ phiếu bắt đầu từ 07 giờ sáng và kết thúc vào 07 giờ tối cùng ngày. Căn cứ tình hình thực tế ở địa
phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu bỏ phiếu sớm hơn nhưng không
được trước 05 giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn
nhưng không được quá 09 giờ tối cùng ngày. Sau
khi đã kiểm tra đầy đủ các điều kiện cần thiết cho ngày bầu cử, Tổ bầu cử mới
tổ chức lễ khai mạc và tiến hành việc bỏ phiếu.
2. Tổ bầu cử
tổ chức lễ
khai mạc cuộc bầu cử tại phòng bỏ phiếu. Lễ khai mạc phải được tổ
chức trang trọng, thời gian khoảng 15 đến 20 phút, do Tổ trưởng Tổ bầu cử chủ
trì.
3. Tổ bầu cử tổ chức để cử tri thực hiện việc bỏ phiếu:
- Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử hộ, bầu cử thay. Khi đến phòng bỏ phiếu, cử tri xuất trình Thẻ
cử tri để được nhận phiếu bầu.
- Khi bắt đầu việc bỏ phiếu, Tổ bầu cử mời
những cử tri có tên trong danh sách cử tri là lãnh đạo cấp ủy đảng, chính quyền
địa phương, người có công với cách mạng, chức sắc tôn giáo (nếu có) và cử tri
là người cao tuổi nhất có mặt tại thời điểm khai mạc bỏ phiếu trước.
- Việc bỏ phiếu được tiến
hành liên tục. Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo, hướng dẫn cử tri thực
hiện đúng các quy định của pháp luật về bầu cử, thể lệ bầu cử, nội quy phòng bỏ
phiếu; đôn đốc cử tri tích cực thực hiện quyền và nghĩa vụ bầu cử của công dân;
hướng dẫn cử tri cách thức bỏ phiếu và gạch phiếu bầu.
- Khi cử tri gạch phiếu
bầu, không ai được xem, kể cả các thành viên Tổ bầu cử. Nếu cử tri gạch bị nhầm
hoặc bị hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác; nếu
cử tri yêu cầu đổi phiếu bầu khác do gạch hỏng, Tổ bầu cử phải thu hồi phiếu
gạch hỏng của cử tri, sau đó mới được phát phiếu bầu khác. Cử tri không thể tự
gạch phiếu bầu thì nhờ người khác gạch phiếu hộ nhưng phải tự mình bỏ phiếu.
Người gạch phiếu hộ phải đọc đầy đủ họ và tên những người ứng cử trên phiếu bầu
để cử tri tự mình quyết định. Người gạch hộ phiếu bầu phải ghi trung thực ý
muốn của cử tri nhờ viết hộ và bảo đảm bí mật phiếu bầu. Khi viết hộ phiếu bầu
xong phải giao lại phiếu bầu cho cử tri để cử tri tự mình bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Người khuyết tật không thể bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm
phiếu. Ngoài các trường hợp nói trên, Tổ
bầu cử không được cho phép cử tri bầu cử thay hay bầu cử hộ cho cử tri khác.
- Trong khi tiến hành bỏ
phiếu, nếu có tình huống bất thường xảy ra làm gián đoạn cuộc bỏ phiếu thì Tổ
trưởng Tổ bầu cử và các thành viên Tổ bầu cử phải nhanh chóng hội ý để kịp thời xử lý. Trường hợp vượt quá thẩm quyền
hoặc không thể tự xử lý được thì phải tạm dừng cuộc bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải
tiến hành niêm phong và quản lý chặt chẽ hòm phiếu, phiếu bầu và các tài liệu
liên quan khác, kịp thời báo cáo Ban bầu cử
có liên quan để có phương án giải quyết, đồng thời phải có biện pháp cần thiết để việc
bỏ phiếu được tiếp tục tiến hành.
- Tổ bầu cử phải chú ý đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào
mặt trước của Thẻ cử tri khi cử tri đã hoàn thành việc bỏ phiếu bầu vào hòm
phiếu; không được bỏ sót, bỏ lọt trường hợp cử tri đã bỏ phiếu bầu cử rồi mà
chưa được đóng dấu “Đã bỏ phiếu” trên Thẻ cử tri; quản lý chặt chẽ số phiếu bầu
cử và việc kiểm kê, kiểm tra, phân loại phiếu bầu.
- Trong quá trình diễn ra
việc bỏ phiếu, các thành viên Tổ bầu cử phải ân cần, lịch sự, hướng dẫn tận tình, chu đáo
cho cử tri đến tham gia bỏ phiếu. Các thành viên Tổ bầu cử được phân công đảm
nhiệm từng công việc trong ngày bầu cử phải chủ động thực hiện nhiệm vụ được
phân công và hỗ trợ thành viên khác hoàn thành nhiệm vụ chung của Tổ bầu cử. Tổ bầu cử không được để những người không có nhiệm vụ vào
phòng bỏ phiếu. Không ai được mang vũ khí, chất nổ, vật dễ cháy,... vào địa
điểm bỏ phiếu.
- Trường hợp phải sử dụng
hòm phiếu phụ thì Tổ trưởng Tổ bầu cử chịu trách nhiệm kiểm tra số lượng phiếu bầu khi phát ra cho thành viên Tổ bầu cử
để mang theo cùng với hòm phiếu phụ đến các cử tri là người ốm đau, già yếu,
khuyết tật; người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo
dục bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng; người đang bị tạm giữ tại
nhà tạm giữ; người đang bị cách ly xã hội tập trung tại các cơ sở điều trị
Covid-19 hoặc các địa điểm cách ly tập trung khác và người đang bị cách ly tại
nhà (nếu có); những khu vực bị chia cắt do thiên tai, lũ lụt, để thực hiện việc
bỏ phiếu do không đến được phòng bỏ phiếu. Sau khi những cử tri này bỏ phiếu
xong, thành viên Tổ bầu cử phải mang ngay hòm phiếu phụ về phòng bỏ phiếu.
4. Kết thúc việc bỏ phiếu và tổ
chức kiểm phiếu:
Sau khi đã kết thúc giờ bỏ phiếu theo quy
định thì Tổ bầu cử mới được mở hòm phiếu để kiểm phiếu.
5.
Phân công nhiệm vụ cho các thành viên khi tiến hành kiểm phiếu và lập biên bản
kiểm phiếu:
-
Tổ trưởng Tổ bầu cử phân công các thành viên Tổ bầu cử thành các nhóm để thực
hiện việc kiểm phiếu. Đối với các Tổ bầu cử đủ số lượng thành viên để phân
thành 04 nhóm thì phân công thực hiện như sau: Nhóm kiểm phiếu bầu cử đại biểu
Quốc hội; nhóm kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; nhóm kiểm
phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện; nhóm kiểm phiếu bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Đối
với các Tổ bầu cử không đủ số lượng thành viên để phân thành 04 nhóm thì Tổ
trưởng Tổ bầu cử phân công các nhóm kiểm phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp cho phù hợp.
-
Thư ký Tổ bầu cử tiến hành lập các biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử.
Khi đến giờ bắt đầu bỏ phiếu theo quy định, Tổ
bầu cử phải tổ chức lễ khai mạc cuộc bầu cử tại phòng bỏ phiếu.
Thành phần
tham dự lễ khai mạc bao gồm:
- Các thành viên Tổ bầu cử, những người có nhiệm vụ liên
quan đến công tác bầu cử.
- Đại diện cơ quan đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức đoàn thể ở địa phương.
- Đại diện cử tri là người cao tuổi, người có công với
cách mạng và chức sắc tôn giáo trong khu vực (nếu có).
- Cử tri đến dự lễ khai mạc.
- Phóng viên báo, đài (nếu có).
Tổ trưởng Tổ bầu cử chủ trì lễ khai mạc theo trình tự sau đây:
- Chào cờ, tuyên bố lý do, giới thiệu
đại biểu.
- Đọc diễn văn khai
mạc. Diễn văn khai mạc cần được chuẩn bị trang trọng, ngắn gọn,
súc tích, nêu được mục đích, ý nghĩa của việc bầu cử.
- Đọc nội quy phòng bỏ phiếu.
- Kiểm tra hòm phiếu chính, hòm phiếu
phụ trước sự chứng kiến của cử tri; mời 02 cử tri không phải là người có tên trong danh sách
người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân tại đơn vị
bầu cử nơi có khu vực bỏ phiếu chứng kiến việc kiểm tra hòm phiếu, sau đó
niêm phong hòm phiếu chính, hòm phiếu phụ theo quy định.
- Sau khi thực hiện thủ tục niêm phong
hòm phiếu, Tổ trưởng Tổ bầu cử tuyên bố cuộc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 bắt đầu.
Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm
phiếu trước sự chứng kiến của cử tri để bảo đảm tính công khai, khách quan và
thực hiện nguyên tắc nhân dân kiểm tra. Đây cũng là hình thức để cử tri trực
tiếp giám sát cuộc bầu cử.
Đúng giờ bắt đầu bỏ phiếu theo quy định, Tổ trưởng
Tổ bầu cử mời 02 cử tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà không phải là người có tên
trong danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân tại đơn vị bầu cử nơi có khu vực bỏ phiếu chứng kiến việc kiểm tra hòm
phiếu. Sau khi kiểm tra hòm phiếu và xác nhận không có gì ở trong, hòm phiếu
được đóng và niêm phong bằng giấy có đóng dấu của Tổ bầu cử, thì cuộc bỏ phiếu
mới được bắt đầu.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân quy định về nguyên tắc bỏ phiếu như sau:
- Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu
Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp
Hội đồng nhân dân.
- Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không được nhờ
người khác bầu cử thay.
- Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem,
kể cả thành viên Tổ bầu cử.
- Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác.
- Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “Đã
bỏ phiếu” vào Thẻ cử tri.
- Mọi người phải tuân theo nội quy phòng bỏ phiếu.
Tổ bầu cử có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể cử tri
cách thức bỏ phiếu. Nếu cử tri không tín nhiệm người ứng cử nào thì gạch ngang
cả họ và tên người ứng cử đó (gạch đè lên hàng chữ họ và tên người ứng cử);
không khoanh tròn; không được đánh dấu trên phiếu bầu; không được viết thêm,
không được ghi tên người ngoài danh sách ứng cử vào phiếu bầu; không bầu quá số
đại biểu được ấn định trong phiếu bầu; không để nguyên phiếu bầu đối với phiếu
bầu có số dư người ứng cử (không gạch tên người ứng cử nào) hoặc gạch tất cả
người ứng cử trong phiếu bầu.
Trường hợp có phiếu gạch chéo, gạch xiên, gạch
dọc hoặc gạch ngang nhưng gạch hết họ và tên của người ứng cử thì vẫn được tính
là phiếu hợp lệ.
Trường hợp người ứng cử có hai tên (tên khai
sinh, tên thường gọi) hoặc có chức vị, pháp danh, pháp hiệu theo tôn giáo, nếu
cử tri không tín nhiệm người này, thì cần hướng dẫn cho cử tri gạch tất cả tên
khai sinh, tên thường gọi hoặc chức vị, pháp danh, pháp hiệu tôn giáo của ứng
cử viên đó. Tuy nhiên, trường hợp cử tri chỉ gạch một dòng tên khai sinh hoặc
tên thường gọi; chỉ gạch một dòng tên khai sinh hoặc một dòng có chức vị, pháp
danh, pháp hiệu (đối với chức sắc tôn giáo) thì phiếu bầu đó vẫn được tính là
hợp lệ.
Trường hợp bên cạnh họ và tên của người ứng cử có
cả ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn do có sự giống nhau cả họ, tên và
tên đệm, nếu cử tri không tín nhiệm người này thì cần hướng dẫn cho cử tri gạch
hết cả họ và tên và ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn. Tuy nhiên, nếu cử
tri chỉ gạch họ và tên mà không gạch ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn
thì phiếu bầu đó vẫn được tính là hợp lệ.
Nếu cử tri yêu cầu đổi phiếu bầu khác do gạch
hỏng, Tổ bầu cử phải thu hồi phiếu gạch hỏng của cử tri, sau đó mới được phát
phiếu bầu khác.
Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu cử thì được
nhờ người khác viết hộ, người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu cử của cử
tri.
Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu
bầu cử được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Sau khi cử tri bỏ phiếu bầu cử xong, thành viên Tổ
bầu cử có trách nhiệm nhắc cử tri xuất trình lại Thẻ cử tri và đóng dấu “Đã bỏ
phiếu” lên mặt trước của Thẻ cử tri. Cử tri được giữ lại Thẻ cử tri; cử tri
không được xuất trình Thẻ cử tri đã đóng dấu “Đã bỏ phiếu” để yêu cầu tham gia
bỏ phiếu.
-
Trường hợp dịch bệnh Covid-19 bùng phát ở địa phương trong thời gian gần đến
ngày bầu cử, thì Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét chỉ đạo, hướng dẫn phương án tổ chức bầu cử
đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, trên tinh thần là địa
phương chủ động xây dựng các phương án tốt nhất để có kế hoạch đưa hòm phiếu
phụ và phiếu bầu cử đến cho những cử tri bị ảnh hưởng do mắc bệnh hoặc do phải
cách ly để họ nhận phiếu bầu cử và thực hiện việc bầu cử. Đồng thời, Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19
theo các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
-
Trường hợp xảy ra mưa lũ, thiên tai đặc biệt nghiêm trọng, địa hình bị chia cắt
dẫn đến cử tri không thể đi đến các phòng bỏ phiếu thì Ủy ban bầu cử các cấp
chỉ đạo Tổ bầu cử tìm phương án tốt nhất để có kế hoạch đưa hòm phiếu phụ và
phiếu bầu cử đến giúp những cử tri này nhận phiếu bầu cử và thực hiện việc bầu
cử.
-
Trong trường hợp các tình huống phát sinh trên đã được các cơ quan có thẩm
quyền ở địa phường giải quyết nhưng không thể xử lý được, do vượt quá thẩm
quyền thì Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh báo cáo Hội động bầu cử quốc gia xem xét,
quyết định phương án tổ chức bầu cử tại các khu vực này.
Theo quy định tại Điều 71 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân, việc bỏ phiếu phải được tiến hành liên tục trong ngày bầu cử. Trường
hợp có những sự kiện bất ngờ làm gián đoạn cuộc bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải
lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu liên quan trực tiếp đến cuộc bầu cử, kịp
thời báo cho Ban bầu cử biết, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để
việc bỏ phiếu được tiếp tục.
Trường
hợp vì lý do đặc biệt phải hoãn ngày bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo
cáo cho Ban bầu cử biết để đề nghị Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.
Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại
phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc. Trình tự tiến hành việc
kiểm phiếu được thực hiện như sau:
- Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm kê
(đếm), niêm phong phiếu bầu cử chưa sử dụng và phiếu bầu cử do cử tri gạch hỏng
(nếu có), lập biên bản kiểm kê việc sử dụng phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 (theo Mẫu số
35/HĐBC); toàn bộ phiếu bầu cử chưa sử dụng và phiếu bầu cử bị gạch hỏng được
niêm phong và gửi kèm theo biên bản kiểm kê việc sử dụng phiếu bầu đến các Ban
bầu cử tương ứng.
- Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử mời 02 cử tri
là người biết chữ, có uy tín trong Nhân dân tại địa bàn và không phải là những
người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
tại khu vực bỏ phiếu đó chứng kiến việc mở hòm phiếu. Người ứng cử hoặc người
đại diện hợp pháp của người ứng cử và các phóng viên được chứng kiến việc kiểm
phiếu của Tổ bầu cử, nhưng phải đảm bảo khoảng cách an toàn để Tổ bầu cử thực
hiện nhiệm vụ kiểm phiếu.
- Tổ trưởng Tổ bầu cử mở hòm phiếu chính và hòm
phiếu phụ (nếu có) để tiến hành việc kiểm phiếu.
- Tổ bầu cử thực hiện việc phân loại phiếu bầu
theo màu phiếu bầu đại biểu Quốc hội, màu phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh; màu phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện; màu phiếu bầu đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã; kiểm kê (đếm) tổng số phiếu trong hòm phiếu để
xác định số phiếu thu vào và bàn giao các loại phiếu cho các nhóm đã được phân
công của Tổ bầu cử để bắt đầu việc kiểm phiếu.
- Tổ bầu cử tiến hành kiểm tra tổng số phiếu thu
vào so với tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu. Nếu tổng số phiếu thu vào bằng
hoặc ít hơn số cử tri đã tham gia bỏ phiếu thì Tổ bầu cử mới được tiến hành
kiểm phiếu. Trường hợp tổng số phiếu thu vào nhiều hơn tổng số cử tri đã tham
gia bỏ phiếu thì Tổ bầu cử phải kiểm tra lại; nếu kiểm tra lại vẫn cho kết quả
tổng số phiếu thu vào nhiều hơn tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu thì lập tức
niêm phong hòm phiếu và báo cáo ngay Ban bầu cử tương ứng để giải quyết. Trường
hợp vượt quá thẩm quyền giải quyết của Ban bầu cử thì Ban bầu cử phải kịp thời
báo cáo Ủy ban bầu cử tương ứng để xem xét, quyết định.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân quy định: người ứng cử, đại
diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm
có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu. Các phóng
viên báo chí được chứng kiến việc kiểm phiếu (Điều 73). Để bảo đảm thực hiện quy định này, Hội đồng bầu cử quốc gia đã có
hướng dẫn như sau:
Những người
được tham gia chứng kiến việc kiểm phiếu bao gồm:
- “Người ứng cử” là người có tên trong danh sách
chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp đã được niêm yết ở khu vực bỏ phiếu.
- “Đại
diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử” là người được cơ quan,
tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử chỉ định, phân công bằng văn bản tham
gia chứng kiến việc kiểm phiếu bầu cử tại khu vực bỏ phiếu nơi có người ứng cử
là người do cơ quan, tổ chức, đơn vị mình giới thiệu.
- “Người được ủy nhiệm” là người được người có
tên trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân ủy quyền bằng văn bản để chứng kiến việc kiểm phiếu
bầu cử tại khu vực bỏ phiếu mà người đó ứng cử. Văn bản ủy quyền phải được công
chứng theo quy định của pháp luật.
- “Phóng viên báo chí” là người có thẻ nhà báo
còn hiệu lực, được cơ quan báo chí phân công, giới thiệu đến để chứng kiến việc
kiểm phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Việc đăng
ký tham gia chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu được
thực hiện theo thủ tục sau đây:
- Người ứng cử xuất trình giấy Chứng minh nhân
dân, thẻ Căn cước công dân hoặc giấy tờ tùy thân hợp pháp khác với Tổ trưởng Tổ
bầu cử khi đề nghị tham gia chứng kiến việc kiểm phiếu hoặc khiếu nại về việc
kiểm phiếu.
- Đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu
người ứng cử xuất trình văn bản phân công, chỉ định hoặc giấy giới thiệu của cơ
quan, tổ chức đơn vị và giấy Chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân hoặc
giấy tờ tùy thân hợp pháp khác; người được ủy nhiệm xuất trình giấy ủy quyền và
giấy Chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân hoặc giấy tờ tùy thân hợp pháp
khác với Tổ trưởng Tổ bầu cử khi đề nghị tham gia chứng kiến việc kiểm phiếu
hoặc khiếu nại về việc kiểm phiếu.
- Phóng viên báo chí xuất trình thẻ nhà báo còn
hiệu lực và văn bản phân công hoặc giấy giới thiệu của cơ quan báo chí với Tổ
trưởng Tổ bầu cử khi đề nghị tham gia chứng kiến việc kiểm phiếu.
- Trong quá trình chứng kiến việc kiểm phiếu, nếu
phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì người ứng cử, đại diện cơ
quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền
khiếu nại, tố cáo tại chỗ với Tổ bầu cử.
Để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp diễn ra thành công tốt đẹp và đúng quy định của pháp
luật, đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng của người ứng cử và các cá nhân,
tổ chức có liên quan, người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới
thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm có trách nhiệm liên hệ trước với Tổ
bầu cử về việc tham dự chứng kiến kiểm phiếu; quan sát quá trình Tổ bầu cử thực
hiện việc kiểm phiếu từ vị trí đã được Tổ bầu cử bố trí; tuân thủ các quy định
của pháp luật, nội quy phòng bỏ phiếu và sự hướng dẫn của Tổ bầu cử; bảo đảm an
toàn, trật tự, không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của Tổ bầu cử;
khiếu nại, tố cáo với Tổ bầu cử nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp
luật trong quá trình kiểm phiếu.
Phóng viên báo chí có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp
luật về báo chí, nội quy phòng bỏ phiếu và sự hướng dẫn của Tổ bầu cử trong quá
trình tác nghiệp; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của Tổ bầu cử;
đưa tin, bài kịp thời, trung thực, chính xác về quá trình kiểm phiếu bầu cử để
góp phần vào công tác thông tin, tuyền truyền về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Phóng viên báo chí nước ngoài có nhu cầu tham dự, đưa tin về hoạt
động trong ngày bầu cử tại Việt Nam thì thực hiện theo quy định tại Nghị định
số 88/2012/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2012 về Hoạt động thông tin, báo chí của
báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt
Nam.
Tổ bầu cử có trách nhiệm hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi để
người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc
người được ủy nhiệm, phóng viên báo chí tham gia chứng kiến việc kiểm phiếu. Bố
trí vị trí quan sát, chứng kiến thuận lợi nhưng không làm ảnh hưởng đến hoạt
động kiểm phiếu của Tổ bầu cử; giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc kiểm
phiếu (nếu có) và ghi nội dung giải quyết vào biên bản. Trường hợp không giải
quyết được thì phải ghi rõ ý kiến của Tổ bầu cử vào biên bản giải quyết khiếu
nại, tố cáo và chuyển đến Ban bầu cử tương ứng. Tổ trưởng Tổ bầu cử có quyền yêu cầu người chứng kiến kiểm phiếu,
phóng viên báo chí ra khỏi khu vực kiểm phiếu nếu người chứng kiến kiểm phiếu,
phóng viên báo chí có hành vi vi phạm nội quy phòng bỏ phiếu, gây mất an toàn,
trật tự, làm ảnh hưởng đến hoạt động của Tổ bầu cử.
Về nguyên tắc, phiếu bầu cử hợp lệ là phiếu đáp ứng
đủ các điều kiện sau đây:
- Phiếu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát ra.
- Phiếu có đóng dấu của Tổ bầu cử.
- Phiếu bầu đủ hoặc ít hơn số lượng đại biểu đã ấn
định cho đơn vị bầu cử.
- Phiếu không ghi thêm tên người khác ngoài danh
sách những người ứng cử hoặc ghi thêm nội dung khác.
Tổ
bầu cử có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể cử tri cách thức bỏ phiếu để bảo đảm
phiếu bầu cử hợp lệ. Theo các hướng dẫn tại Thông tư số 01/2021/TT-BNV của Bộ
Nội vụ và hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia, nếu cử tri không tín nhiệm
người ứng cử nào thì gạch ngang giữa cả họ và tên người ứng cử đó (gạch đè lên
hàng họ và tên người ứng cử); không khoanh tròn, gạch chéo, gạch dưới, gạch
trên hàng họ và tên người ứng cử; không được đánh dấu trên phiếu bầu; không
được viết thêm, không được ghi tên người ngoài danh sách ứng cử vào phiếu bầu;
không được bầu quá số đại biểu được ấn định trong phiếu bầu; không được để nguyên phiếu bầu đối với phiếu bầu có số dư người ứng cử
(không gạch tên người ứng cử nào) hoặc gạch tất cả người ứng cử trong phiếu
bầu. Tuy nhiên, trường hợp trên phiếu gạch chéo, gạch xiên, gạch dọc hoặc gạch
ngang nhưng gạch hết họ và tên của người ứng cử thì vẫn được tính là phiếu hợp
lệ.
Trường
hợp người ứng cử có hai tên (tên khai sinh, tên thường gọi) hoặc có chức vị,
pháp danh, pháp hiệu theo tôn giáo, nếu cử tri không tín nhiệm người này, thì
cần hướng dẫn cho cử tri gạch tất cả tên khai sinh, tên thường gọi hoặc chức
vị, pháp danh, pháp hiệu tôn giáo của ứng cử viên đó. Tuy nhiên, nếu cử tri chỉ
gạch một dòng tên khai sinh hoặc tên thường gọi; chỉ gạch một dòng tên khai
sinh hoặc một dòng chức vị, pháp danh, pháp hiệu (đối với chức sắc tôn giáo)
thì phiếu bầu đó vẫn được tính là hợp lệ.
Tương tự như vậy, trường hợp bên cạnh họ và tên của
người ứng cử có cả ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn () do những người
ứng cử trong danh sách ghi trên phiếu có cả họ, tên và tên đệm giống nhau, nếu
cử tri không tín nhiệm người này, thì cần gạch hết cả họ và tên và ngày tháng
năm sinh đặt trong ngoặc đơn. Tuy nhiên, nếu cử tri chỉ gạch họ và tên mà không
gạch ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn thì phiếu bầu đó vẫn được tính là
hợp lệ.
Những phiếu bầu cử không hợp lệ là:
- Phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát
ra.
- Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử.
- Phiếu để số người được bầu nhiều hơn số lượng đại
biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử.
- Phiếu gạch xóa họ, tên của tất cả những người ứng
cử; phiếu ghi thêm tên người ngoài danh sách những người ứng cử hoặc phiếu có
ghi thêm nội dung khác.
Trong quá trình kiểm phiếu, nếu phát hiệu có phiếu
bầu cử được cho là không hợp lệ thì Tổ trưởng Tổ bầu cử đưa ra để toàn Tổ xem
xét, quyết định. Tổ bầu cử không được gạch xóa hoặc sửa các tên, nội dung ghi
trên phiếu bầu.
Việc kiểm phiếu bầu cho từng người ứng cử chỉ thực
hiện đối với những phiếu hợp lệ. Các phiếu bầu hợp lệ được xếp thành các loại,
gồm: Loại phiếu bầu 01 đại biểu; loại phiếu bầu 02 đại biểu; loại phiếu bầu 03
đại biểu,...
Tổ bầu cử kiểm phiếu theo từng loại phiếu bầu để
làm căn cứ xác định số phiếu bầu cho từng người ứng cử.
Để việc kiểm phiếu được
chính xác, Tổ bầu cử phân công ít nhất 03 người kiểm phiếu, gồm: 01 người đọc,
01 người ghi, 01 người kiểm tra việc đọc và ghi. Cách ghi số phiếu cho từng
người ứng cử tham khảo theo cách vẽ lần lượt các hình vuông và 01 đường chéo,
cứ 05 phiếu tạo thành một hình vuông có 01 đường chéo.
Tỷ
lệ phần trăm (%) trong các biên bản kết quả bầu cử được xác định đến số ở hàng
thập phân thứ hai (chữ số thứ hai sau dấu thập phân) và được làm tròn số để bảo
đảm tổng tỷ lệ phần trăm của các tiêu chí, thành phần là 100%. Nếu chữ số thứ
ba sau dấu thập phân là từ 5 trở lên thì được làm tròn lên thêm 01 đơn vị vào
chữ số ở hàng thập phân thứ hai. Ví dụ: 22,566% thì được làm tròn thành 22,57%.
Nguyên tắc xác định người trúng cử được thực hiện
như sau:
- Kết quả bầu cử được tính trên số phiếu bầu hợp lệ
và chỉ được công nhận khi đã có quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử
tri tại đơn vị bầu cử tham gia bầu cử, trừ trường hợp bầu cử lại mà số cử tri
đi bầu cử vẫn chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri thì
kết quả bầu cử lại được công nhận mà không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
- Người trúng cử phải là người ứng cử có số phiếu
bầu đạt quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ.
- Trường hợp số người ứng cử đạt số phiếu bầu quá
một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ nhiều hơn số lượng đại biểu mà đơn vị bầu cử
được bầu thì những người trúng cử là những người có số phiếu bầu cao hơn.
- Trường hợp cuối danh sách trúng cử có nhiều người
được số phiếu bầu bằng nhau và nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định
cho đơn vị bầu cử thì người nhiều tuổi hơn là người trúng cử.
Những khiếu nại, tố cáo tại chỗ về những hành vi có
dấu hiệu vi phạm pháp luật trong việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử nhận, giải quyết
và ghi nội dung giải quyết vào biên bản.
Trong trường hợp Tổ bầu cử không giải quyết được
thì phải ghi rõ ý kiến của Tổ bầu cử vào biên bản giải quyết khiếu nại, tố cáo
và chuyển đến Ban bầu cử tương ứng.
Sau khi kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập các
loại biên bản sau đây:
(1) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu
Quốc hội tại khu vực bỏ phiếu (theo Mẫu số 20/HĐBC-QH).
(2) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh tại khu vực bỏ phiếu (theo Mẫu số 25/HĐBC-HĐND).
(3) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp huyện tại khu vực bỏ phiếu (theo Mẫu số 25/HĐBC-HĐND).
(4) Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã tại khu vực bỏ phiếu (theo Mẫu số 25/HĐBC-HĐND).
Biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử gồm các nội dung
sau đây:
- Tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu (theo danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu
được cập nhật đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu, thống kê riêng theo tổng số cử
tri có quyền bầu cử đại biểu ở cấp tương ứng).
- Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu (riêng
cho mỗi loại biên bản).
- Số phiếu phát ra (riêng cho mỗi loại biên bản).
- Số phiếu thu vào (riêng cho mỗi loại biên bản).
- Số phiếu hợp lệ (riêng cho mỗi loại biên bản).
- Số phiếu không hợp lệ (riêng cho mỗi loại biên
bản).
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử (riêng cho
mỗi loại biên bản).
- Những khiếu nại, tố cáo nhận được; những khiếu
nại, tố cáo đã giải quyết và kết quả giải quyết (riêng cho mỗi loại biên bản).
- Những khiếu nại, tố cáo chuyển đến từng loại Ban
bầu cử (tương ứng với từng loại việc bầu cử cụ thể).
Việc xác định tỷ lệ phần
trăm cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng số cử tri trong từng loại biên bản
phải căn cứ vào số cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng số cử tri có quyền
bầu cử đại biểu Quốc hội, tổng số cử tri có quyền bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân ở từng cấp.
Mỗi loại biên bản được lập thành 03 bản, có chữ ký
của Tổ trưởng, Thư ký Tổ bầu cử và 02 cử tri được mời chứng kiến việc kiểm
phiếu. Biên bản được gửi đến Ban bầu cử tương ứng và Ủy ban nhân dân, Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã chậm nhất là ngày 26 tháng 5 năm
2021 (hoặc 03 ngày sau ngày bầu cử).
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản kết quả kiểm phiếu
bầu cử của các Tổ bầu cử và tình hình tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo
(nếu có), Ban bầu cử đại biểu Quốc hội lập biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV ở đơn vị bầu cử mà mình phụ trách (theo
mẫu 21/HĐBC-QH).
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV
tại đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội gồm các nội dung sau đây:
- Số lượng đại biểu Quốc hội được bầu đã ấn định
cho đơn vị bầu cử.
- Số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội.
- Tổng số cử tri của đơn vị bầu cử.
- Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so
với tổng số cử tri của đơn vị bầu cử.
- Số phiếu phát ra.
- Số phiếu thu vào.
- Số phiếu hợp lệ.
- Số phiếu không hợp lệ.
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử (có tỷ lệ % so với tổng số phiếu hợp lệ).
- Danh sách những người
trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XV tại đơn vị bầu cử.
- Tóm tắt những việc xảy
ra, kiến nghị về việc bầu cử thêm, bầu cử lại (nếu có).
- Những khiếu nại, tố cáo do các Tổ bầu cử giải
quyết; những khiếu nại, tố cáo do Ban bầu cử đại biểu Quốc hội giải quyết.
- Những khiếu nại, tố cáo chuyển đến Ủy ban bầu cử,
Hội đồng bầu cử quốc gia.
Biên bản xác định kết quả bầu cử bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV ở đơn vị bầu cử
được lập thành 03 bản, có chữ ký của Trưởng ban, các Phó Trưởng Ban bầu cử.
Biên bản được gửi đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tỉnh chậm
nhất là ngày 28 tháng 5 năm 2021 (hoặc 05 ngày sau ngày bầu cử).
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản kết quả kiểm phiếu
bầu cử của các Tổ bầu cử và tình hình tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo
(nếu có), Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh lập biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh nhiệm kỳ 2021-2016 ở đơn vị bầu cử mà mình phụ trách (theo mẫu 26/HĐBC-HĐND).
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2021-2026 của Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh gồm những nội dung sau đây:
- Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được
bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử.
- Số lượng người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh.
- Tổng số cử tri của đơn vị bầu cử.
- Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so
với tổng số cử tri của đơn vị bầu cử.
- Số phiếu phát ra.
- Số phiếu thu vào.
- Số phiếu hợp lệ.
- Số phiếu không hợp lệ.
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử (có tỷ lệ % so với tổng số phiếu hợp lệ).
- Danh sách những người trúng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2021-2026 tại đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh.
- Tóm tắt những việc xảy
ra, kiến nghị về việc bầu cử thêm, bầu cử lại (nếu có).
- Những khiếu nại, tố cáo do các Tổ bầu cử giải
quyết; những khiếu nại, tố cáo do Ban bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh giải quyết; những
khiếu nại, tố cáo chuyển đến Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh, Hội đồng bầu cử quốc
gia.
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh ở đơn vị bầu cử được lập thành 04 bản, có chữ ký của
Trưởng ban, các Phó Trưởng Ban bầu cử. Biên bản được gửi đến Ủy ban bầu cử ở
cấp tỉnh, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh chậm nhất là ngày 28 tháng 5 năm 2021
(hoặc 05 ngày sau ngày bầu cử).
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản kết quả kiểm phiếu
bầu cử của các Tổ bầu cử và tình hình tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo
(nếu có), Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện lập biên bản xác định kết
quả bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện nhiệm kỳ 2021-2026 ở đơn vị bầu cử mà mình
phụ trách (theo mẫu 26/HĐBC-HĐND).
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp huyện nhiệm kỳ 2021-2026 của Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp huyện gồm những nội dung sau đây:
- Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện
được ấn định cho đơn vị bầu cử.
- Số lượng người ứng cử.
- Tổng số cử tri của đơn vị bầu cử có quyền bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện.
- Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so
với tổng số cử tri của đơn vị bầu cử.
- Số phiếu phát ra.
- Số phiếu thu vào.
- Số phiếu hợp lệ.
- Số phiếu không hợp lệ.
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử (có tỷ lệ % so với tổng số phiếu hợp lệ).
- Danh sách những người trúng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp huyện nhiệm kỳ 2021-2026 tại đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp huyện.
- Tóm tắt những việc xảy
ra, kiến nghị về việc bầu cử thêm, bầu cử lại (nếu có).
- Những khiếu nại, tố cáo do các Tổ bầu cử giải
quyết; những khiếu nại, tố cáo do Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
huyện giải quyết; những khiếu nại, tố cáo chuyển đến Ủy ban bầu cử ở cấp huyện.
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp huyện ở đơn vị bầu cử được lập thành 04 bản, có chữ ký của
Trưởng ban, các Phó Trưởng Ban bầu cử. Biên bản được gửi đến Ủy ban bầu cử ở
cấp huyện, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện chậm nhất là ngày 28 tháng 5 năm 2021
(hoặc 05 ngày sau ngày bầu cử).
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản kết quả kiểm phiếu
bầu cử của các Tổ bầu cử và tình hình tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo
(nếu có), Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã lập biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã nhiệm kỳ 2021-2026 ở đơn vị bầu cử mà mình phụ trách (theo mẫu 26/HĐBC-HĐND).
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2021-2026 của Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử Hội đồng nhân
dân cấp xã gồm những nội dung sau đây:
- Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã được
bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử.
- Số lượng người ứng cử.
- Tổng số cử tri của đơn vị bầu cử có quyền bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so
với tổng số cử tri của đơn vị bầu cử.
- Số phiếu phát ra.
- Số phiếu thu vào.
- Số phiếu hợp lệ.
- Số phiếu không hợp lệ.
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử (có tỷ lệ % so với tổng số phiếu hợp lệ).
- Danh sách những người trúng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2021-2026 tại đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã.
- Tóm tắt những việc xảy
ra, kiến nghị về việc bầu cử thêm, bầu cử lại (nếu có).
- Những khiếu nại, tố cáo do các Tổ bầu cử giải
quyết; những khiếu nại, tố cáo do Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã giải
quyết; những khiếu nại, tố cáo chuyển đến Ủy ban bầu
cử ở cấp xã.
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã ở đơn vị bầu cử được lập thành 04 bản, có chữ ký của Trưởng
ban, các Phó Trưởng Ban bầu cử. Biên bản được gửi đến Ủy ban bầu cử ở cấp xã,
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp xã chậm nhất là ngày 28 tháng 5 năm 2021
(hoặc 05 ngày sau ngày bầu cử).
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả
bầu cử đại biểu Quốc hội của các Ban bầu cử đại biểu Quốc hội và giải quyết
khiếu nại, tố cáo (nếu có), Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương lập biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV ở địa
phương (theo Mẫu số 22/HĐBC-QH).
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XV của Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm các nội
dung sau đây:
- Số lượng đơn vị bầu cử.
- Số lượng người ứng cử.
- Tổng số cử tri của tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
- Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so
với tổng số cử tri của địa phương.
- Số phiếu hợp lệ.
- Số phiếu không hợp lệ.
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử (có tỷ lệ % so với tổng số phiếu hợp lệ).
- Danh sách những người trúng cử theo từng đơn vị
bầu cử (có tỷ lệ % so với tổng số phiếu
hợp lệ).
- Những khiếu nại, tố cáo do Tổ bầu cử, Ban bầu cử
đại biểu Quốc hội đã giải quyết.
- Những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải
quyết.
- Những khiếu nại, tố cáo do Ủy ban bầu cử ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương đã giải quyết.
- Những khiếu nại, tố cáo và kiến nghị chuyển đến
Hội đồng bầu cử quốc gia.
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XV ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được lập thành 04 bản, có chữ ký của
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban bầu cử. Biên bản được gửi đến Hội đồng bầu cử
quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh chậm nhất là ngày 30 tháng 5 năm
2021 (hoặc 07 ngày sau ngày bầu cử).
Trong cuộc bầu cử đầu tiên tại một đơn vị bầu cử
đại biểu Quốc hội, nếu số người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XV chưa đủ số
lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử đó thì Ban bầu cử đại biểu
Quốc hội phải ghi rõ vào biên bản xác định kết quả bầu cử và báo cáo ngay cho
Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan để đề nghị
Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định việc bầu cử thêm đại biểu Quốc hội
khóa XV ở đơn vị bầu cử đó.
Trong cuộc bầu cử đầu tiên tại một đơn vị bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu số người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
của cấp đó nhiệm kỳ 2021-2026 chưa đủ hai phần ba số lượng đại biểu được bầu đã
ấn định cho đơn vị bầu cử này thì Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cấp
tương ứng phải ghi rõ vào biên bản xác định kết quả bầu cử và báo cáo ngay cho
Ủy ban bầu cử chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp
đó để quyết định ngày bầu cử thêm ở đơn vị bầu cử đó.
Trong trường hợp bầu cử thêm thì ngày bầu cử được
tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử
thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử tại cuộc bầu cử
đầu tiên nhưng không trúng cử. Người trúng cử là người được quá một nửa tổng số
phiếu bầu hợp lệ và có số phiếu bầu cao hơn. Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số
lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì không tổ chức bầu cử
thêm lần thứ hai. Đơn vị bầu cử đó được xác định là đơn vị bầu cử thiếu đại
biểu (tức là sau khi đã tổ chức bầu cử thêm mà vẫn không bầu được đủ số đại
biểu đã được ấn định cho đơn vị bầu cử đó).
Danh sách cử tri của cuộc bầu cử thêm được lập theo
danh sách cử tri trong cuộc bầu cử đầu tiên.
Bầu cử lại là việc bầu cử được thực hiện ở các đơn
vị bầu cử mà tại cuộc bầu cử đầu tiên, số cử tri đi bỏ phiếu tại đơn vị bầu cử
chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri hoặc việc bầu cử
được thực hiện ở khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong cuộc bầu cử đầu tiên và kết quả bầu cử bị hủy bỏ theo quyết định
của Hội đồng bầu cử quốc gia.
Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban bầu cử ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, căn cứ vào biên bản do Ban bầu cử đại
biểu Quốc hội chuyển đến, đề nghị Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định
việc bầu cử lại đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa
đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri hoặc kết quả bầu cử
lần đầu bị hủy bỏ do có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban
bầu cử chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quyết định
ngày bầu cử lại đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ
phiếu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri sau khi đã
báo cáo và được sự đồng ý của Hội đồng bầu cử quốc gia hoặc kết quả bầu cử lần
đầu bị Hội đồng bầu cử quốc gia hủy bỏ do có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Trong trường hợp bầu cử lại thì ngày bầu cử được
tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử lại,
cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu
tiên. Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu cử vẫn chưa đạt quá một nửa tổng số cử
tri trong danh sách cử tri thì kết quả bầu cử lại được công nhận mà không tổ
chức bầu cử lại lần thứ hai.
Danh sách cử tri của cuộc bầu cử lại được lập theo
danh sách cử tri trong cuộc bầu cử đầu tiên.
Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội
ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là biên bản duy nhất xác định kết quả
bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội ở từng đơn vị bầu cử
của một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Do vậy, trong trường hợp trên
địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có những đơn vị bầu cử phải tiến
hành bầu cử thêm hoặc đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu phải tiến hành bầu cử
lại, thì Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa lập Biên
bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố mình (theo Mẫu
số 22/HĐBC-QH) mà khẩn trương có báo cáo bằng văn bản gửi Hội đồng bầu cử quốc
gia đề nghị xem xét, quyết định việc bầu cử thêm, bầu cử lại ở đơn vị bầu cử.
Nội dung báo cáo cần nêu cụ thể số lượng đơn vị bầu cử, tổng số cử tri, số cử
tri tham gia bỏ phiếu tại địa phương; các đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ
phiếu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri của đơn vị bầu cử hoặc đơn vị bầu cử,
khu vực bỏ phiếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, phải tổ chức bầu cử lại;
các đơn vị bầu cử có số người trúng cử ít hơn số đại biểu Quốc hội được bầu do
Hội đồng bầu cử quốc gia ấn định, phải tổ chức bầu cử thêm,...
Trường hợp Hội đồng bầu cử quốc gia quyết định bầu
cử thêm, bầu cử lại ở đơn vị bầu cử, thì thời hạn để gửi Biên bản xác định kết
quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đến các cơ
quan, tổ chức hữu quan vẫn thực hiện theo quy định tương ứng của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nhưng mốc tính thời hạn là kể
từ ngày hoàn thành việc bỏ phiếu trên địa bàn đơn vị hành chính cấp tỉnh (tức
ngày bầu cử lại, ngày bầu cử thêm).
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các
Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Hội đồng bầu cử quốc gia lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV
trong cả nước.
Biên bản tổng kết cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV có các nội dung sau đây:
- Tổng số đại biểu Quốc hội được bầu.
- Tổng số người ứng cử.
- Tổng số cử tri trong cả
nước.
- Tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử tri
trong cả nước.
- Số phiếu hợp lệ.
- Số phiếu không hợp lệ.
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử.
- Danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XV theo
từng đơn vị bầu cử.
- Những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết.
- Những khiếu nại, tố cáo do Hội đồng bầu cử quốc gia đã giải
quyết.
Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội được lập thành 05
bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia. Biên
bản được gửi đến Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và trình Quốc hội khóa mới.
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả
bầu cử của các Ban bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Ủy ban bầu
cử ở từng cấp lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân mà
mình chịu trách nhiệm tổ chức (theo Mẫu số 27/HĐBC-HĐND).
Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 có các nội dung sau đây:
- Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu của
đơn vị hành chính.
- Tổng số người ứng cử.
- Tổng số cử tri của đơn vị hành chính có quyền bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp tương ứng.
- Tổng số cử
tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử tri của đơn vị hành chính có
quyền bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp tương ứng.
- Số phiếu hợp lệ.
- Số phiếu không hợp lệ.
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử (có tỷ lệ % so với tổng số phiếu hợp lệ).
- Danh sách những người trúng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân theo từng đơn vị bầu cử (có tỷ
lệ % so với tổng số phiếu hợp lệ).
- Những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải
quyết.
- Những khiếu nại, tố cáo do Ủy ban bầu cử đã giải
quyết.
Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân được lập thành 06 bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban
bầu cử. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp
xã được gửi đến Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được gửi đến Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hội đồng bầu cử quốc gia căn cứ vào biên bản tổng
kết cuộc bầu cử trong cả nước công bố kết quả bầu cử và danh sách những người
trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chậm nhất là ngày 12 tháng 6 năm
2021 (hoặc 20 ngày sau ngày bầu cử).
Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử và danh
sách những người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chậm
nhất là ngày 02 tháng 6 năm 2021 (hoặc 10 ngày sau ngày bầu cử).
Ủy ban bầu cử ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào biên bản
tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện chậm nhất là ngày 02 tháng 6 năm 2021
(hoặc 10 ngày sau ngày bầu cử).
Ủy ban bầu cử ở xã, phường, thị trấn căn cứ vào
biên bản tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử và danh sách những người
trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã chậm nhất là ngày 02 tháng 6 năm 2021
(hoặc 10 ngày sau ngày bầu cử).
Khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội phải
được gửi đến Hội đồng bầu cử quốc gia chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày công bố
kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội. Khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân phải được gửi đến Ủy ban bầu cử chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày công
bố kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Hội đồng bầu cử quốc gia có trách nhiệm xem xét,
giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày nhận được khiếu nại. Ủy ban bầu cử có trách nhiệm xem xét, giải
quyết khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong thời hạn 20
ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng bầu cử
quốc gia, Ủy ban bầu cử là quyết định cuối cùng.
Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XV, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử
đại biểu Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia tiến hành xác nhận tư cách của
người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, cấp Giấy chứng nhận đại biểu Quốc hội
khóa XV cho người trúng cử và báo cáo Quốc hội khóa XV về kết quả xác nhận tư
cách đại biểu Quốc hội tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội.
Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 ở cấp mình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố
cáo liên quan đến người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử các
cấp tiến hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
nhiệm kỳ 2021-2026 của cấp mà mình chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử, cấp Giấy chứng
nhận đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026 cho người trúng cử và báo
cáo Hội đồng nhân dân khóa mới về kết quả xác nhận tư cách đại biểu Hội đồng
nhân dân tại kỳ họp đầu tiên của Hội đồng nhân dân.
Trường hợp có đơn thư tố cáo đối với người trúng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân nhưng chưa có
kết luận, kết quả xác minh, trả lời chính thức của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền, thì Ủy ban bầu cử các cấp vẫn tiến hành việc xác nhận tư cách của người
trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình căn cứ vào các tài liệu, kết
luận hiện có. Các nội dung tố cáo chưa có kết luận hoặc chưa được giải quyết
được chuyển cho Thường trực Hội đồng nhân dân khóa mới để tiếp tục xem xét,
gỉải quyết theo thẩm quyền.
Trường hợp cơ quan chức
năng đã có kết luận kiểm tra khẳng định người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân có vi phạm và bị xử lý kỷ luật với hình thức từ khiển trách trở lên thì Ủy
ban bầu cử cần xem xét, đánh giá cụ thể về tính chất, mức độ của hành vi vi phạm.
Nếu đó là hành vi vi phạm pháp luật, không phù hợp với tiêu chuẩn của đại
biểu Hội đồng nhân dân là phải có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật đã được quy định
tại khoản 2 Điều 7 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì Ủy ban bầu
cử không công nhận tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân đối với người này.
Trường hợp sau khi
người trúng cử đã được xác nhận tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân mà cơ quan
chức năng mới có kết luận khẳng định người này có vi phạm pháp luật, không đáp ứng
đủ tiêu chuẩn của đại biểu Hội đông nhân dân, không xứng đáng với sự tín nhiệm
của Nhân dân thì Thường trực Hội đồng nhân dân khóa mới sẽ xem xét, quyết định
việc tự mình báo cáo để Hội đồng nhân dân bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân
hoặc theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp báo cáo để cử
tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân đối với người có vi phạm theo quy định
tại Điều 102 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Bầu cử bổ sung là việc tổ chức bầu cử trong thời
gian giữa nhiệm kỳ của Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân để bầu thêm số đại biểu
thiếu hụt so với tổng số đại biểu Quốc hội được bầu trong nhiệm kỳ (500 đại
biểu) hoặc so với tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở đầu nhiệm kỳ
của đơn vị hành chính theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội trong nhiệm
kỳ chỉ được tiến hành khi thời gian còn lại của nhiệm kỳ nhiều hơn 02 năm và
thiếu trên 10% tổng số đại biểu Quốc hội đã được bầu ở đầu nhiệm kỳ.
Việc bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân
trong nhiệm kỳ chỉ được tiến hành khi thời gian còn lại của nhiệm kỳ nhiều hơn
18 tháng và đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
- Hội đồng nhân dân thiếu trên một phần ba tổng số
đại biểu Hội đồng nhân dân đã được bầu ở đầu nhiệm kỳ.
- Đơn vị hành chính mới được thành lập trên cơ sở
nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính hiện có có số lượng đại
biểu Hội đồng nhân dân không đủ hai phần ba tổng số đại biểu được bầu theo quy
định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Quốc hội quyết định và công bố ngày bầu cử bổ sung
đại biểu Quốc hội; Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định và công bố ngày bầu cử
bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh quyết định và công bố ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
huyện, cấp xã.
Sau khi kiểm phiếu và lập biên bản kết quả kiểm
phiếu, Tổ bầu cử tiến hành niêm phong phiếu bầu cử theo từng loại phiếu bầu cử
đại biểu Quốc hội, phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, trong đó
chia riêng số phiếu bầu cử hợp lệ và số phiếu bầu cử không hợp lệ.
Toàn bộ số phiếu đã được niêm phong phải được Tổ
bầu cử cho vào hòm phiếu và làm thủ tục niêm phong hòm phiếu có chữ ký của Tổ
trưởng, Thư ký Tổ bầu cử gửi Ủy ban nhân dân cấp xã.
Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm quản lý các
loại phiếu bầu cử của các Tổ bầu cử ở địa phương mình. Trong thời gian quản lý
phiếu bầu cử theo quy định của pháp luật về lưu trữ (ít nhất là 05 năm), nếu
không có ý kiến bằng văn bản của cấp có thẩm quyền thì tuyệt đối không được mở
và kiểm tra phiếu bầu cử đã được niêm phong.
Sau khi kết thúc bầu cử, Ủy ban bầu cử,
Ban bầu cử, Tổ bầu cử có trách nhiệm bàn giao các loại phiếu bầu cử, biên bản, tài liệu liên
quan đến công tác bầu cử đến Ủy ban nhân dân cấp tương ứng để bảo quản và lưu
trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
Thời gian lưu trữ ít nhất là 05 năm đối với phiếu
bầu cử và 10 năm đối với các tài liệu khác.
Các mẫu dấu của các tổ chức phụ trách bầu cử đã được thiết kế để dùng lâu
dài trong tất cả các cuộc bầu cử nhằm tiết kiệm chi phí. Do đó, sau khi
kết thúc cuộc bầu cử, các tổ chức phụ trách bầu cử có trách nhiệm bàn giao con
dấu của tổ chức mình cho các cơ quan hành chính nhà nước để lưu giữ, quản lý,
tiếp tục sử dụng cho cuộc bầu cử tiếp theo. Cụ thể như sau:
- Các Tổ bầu cử, Ban bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã và Ủy ban bầu cử ở cấp xã bàn giao các con dấu của tổ chức
mình cho Ủy ban nhân dân cấp huyện (qua Phòng Nội vụ) để lưu giữ và quản lý; có
biên bản giao nhận các con dấu bầu cử.
- Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp huyện và Ủy ban bầu cử ở cấp huyện bàn giao con dấu của tổ chức mình cho Ủy
ban nhân dân cùng cấp (qua Phòng Nội vụ) để lưu giữ và quản lý; có biên bản
giao nhận các con dấu bầu cử.
- Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Ban bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh bàn giao con
dấu của tổ chức mình cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (qua Sở Nội vụ) để lưu giữ và
quản lý; có biên bản giao nhận các con dấu bầu cử.
(Xuân Tuấn)