Tháng 6/1960, Bộ Chỉ huy lực
lượng vũ trang giải phóng miền Đông (quân khu miền Đông) và Khu ủy miền Đông
(T1) được chính thức thành lập, đặt cơ quan lãnh đạo, chỉ huy tại ngọn suối
Linh (gọi là căn cứ 820) thuộc chiến khu Đ. Tại đây, Khu ủy, Bộ Tư lệnh quân
khu đã đứng chân trong suốt thời gian dài lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách
mạng. Đây cũng là nơi đứng chân và tổ chức chiến đấu, bảo vệ an toàn cho các cơ
quan lãnh đạo, chỉ huy để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng trên toàn miền
Đông Nam Bộ, chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, ngụy trong
những năm đầu thập nên 60 thế kỷ 20.
Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ tại Chiến khu Đ
Căn cứ Khu ủy được cấu thành bởi:
Hệ thống giao thông hào, có tổng chiều dài 569m, sâu từ 50 đến 60cm, rộng 60cm
phân làm ba tuyến. Tuyến phòng thủ vòng trong, vòng ngoài và tuyến phục vụ cho
việc canh gác, chiến đấu. Hệ thống địa đạo liên hoàn có chiều dài trên 260m.
Đường đi trong lòng địa đạo có nhiều đoạn gấp khúc, gãy góc, quanh co, có các
ngã ba nối thông các đoạn địa đạo với nhau hoặc dẫn lên các miệng địa đạo tại
các cửa hầm. Hệ thống miệng địa đạo độc lập chủ yếu dạng hình tròn và chữ nhật,
sâu từ 3-4m. Hệ thống hầm trú ẩn được bố trí đều khắp trên mặt căn cứ. Ngoài
ra, trong Khu căn cứ còn có hệ thống bếp Hoàng Cầm và giếng nước phục vụ cho
sinh hoạt. Đường chính vào căn cứ được ngụy trang cẩn thận. Để vào
căn cứ, phải đi qua hệ thống
cây được chặt ngã chồng lên nhau, sau đó đi qua
một đoạn giao thông hào. Các cơ quan trực thuộc Khu ủy còn có văn phòng, cơ
yếu, phục vụ, vệ binh, nhà y tế…
Chiến khu Đ là căn cứ địa quan trọng
của miền Đông Nam bộ, là hiện thân của tinh thần “Miền Đông gian lao mà anh
dũng”, là nơi che giấu, nuôi dưỡng, rèn luyện các lực lượng cách mạng. Từ chiến
khu Đ có thể liên lạc với hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, với chiến
trường Nam Trung bộ và chiến trường Tây nguyên. Cùng với các căn cứ Bắc Tây
Ninh, Củ Chi... tạo thế áp sát các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn. Từ căn cứ địa
này, trong giai
đoạn 1962 - 1967, Khu ủy miền Đông, Bộ Tư lệnh quân khu đã lãnh đạo, chỉ huy
các lực lượng vũ trang phối hợp với quân chủ lực Miền làm nên những chiến thắng
vang dội như: tiến công diệt một loạt đồn bốt địch nằm sâu
trong chiến khu như đồn Bàu Cá Trê, chi khu Hiếu Liêm, đồn Cây Gáo, đồn Trị An;
mở chiến dịch Bình Giã (2/12/1964 – 3/1/1965) thắng lợi, sau đó mở chiến dịch
Đồng Xoài (đường 14) tiêu
diệt nhiều sinh
lực địch. Đây cũng là nơi sản sinh cách đánh đặc công để từ đó hình thành nên bộ
đội đặc công, phát triển kỹ thuật đánh đặc công ra cả nước…
Đoàn công tác của Ban Công tác Phía Nam và Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh về thăm căn cứ Chiến khu Đ
Căn cứ Khu ủy
miền Đông Nam Bộ hình thành và tồn tại trong một giai đoạn ngắn nhưng đã góp
phần quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường miền
Đông Nam Bộ. Năm 2001, tỉnh Đồng Nai đã tiến hành trùng tu di tích căn cứ. Cùng với hệ
thống các di tích trên địa bàn như địa đạo Suối Linh, căn cứ Trung ương Cục
miền Nam, di tích Căn cứ Khu ủy miền Đông trở thành địa điểm tham quan, sinh
hoạt truyền thống, về nguồn mang
nhiều ý nghĩa cho thế hệ trẻ; đồng thời di tích còn là điểm du lịch
sinh thái lý tưởng của
địa phương.
Tố Nga