“Tình bạn” trong mỗi giai đoạn
Nhìn lại lịch sử, theo nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Quang
Vinh, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ nhiệm kỳ 2011-2014, quan hệ Việt-Mỹ xuất phát từ
vài trăm năm trước đây. Ngay trong chiến tranh Việt Nam, quan hệ giữa nhân dân
hai nước cũng đã được coi trọng và thúc đẩy, khi ấy, ngay trong lòng nước Mỹ đã
có những tầng lớp nhân dân khác nhau, trở thành những người bạn của Việt Nam,
tham gia vào phong trào đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đòi bình thường
hóa quan hệ giữa Mỹ với Việt Nam. Đó là những câu chuyện diễn ra ngay cả vào
những thời điểm khó khăn khi mà hai bên còn cách biệt bởi một cuộc chiến.
Tiếp đến là cuộc đấu tranh của những người bạn của Việt Nam
trong lòng nước Mỹ đòi bỏ cấm vận. Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm
1995 đã có rất nhiều những trao đổi, giao lưu nhân dân, đáng chú ý là những
người Mỹ, các tổ chức xã hội, nhân đạo đến Việt Nam tham gia vào quá trình khắc
phục hậu quả chiến tranh như bom mìn, chất độc màu da cam, hàn gắn nỗi đau
chiến tranh giữa những người dân hai phía, còn có cả những cựu binh trong các
tổ chức của Mỹ đã đến để xin lỗi Việt Nam. Giai đoạn Việt Nam mở cửa hội nhập,
có rất nhiều người bạn, tổ chức của Mỹ ủng hộ Việt Nam tham gia hội nhập và
phát triển.
Nhà ngoại giao có nhiều năm gắn bó với quan hệ Việt-Mỹ cho rằng,
tất cả những gì có được trong những giai đoạn kể trên cho thấy giao lưu nhân
dân là một bộ phận của chính sách đối ngoại nhưng trong quan hệ Việt-Mỹ có
những đặc thù và càng quan trọng. Hiện nay, với quan hệ ngày càng được mở rộng,
nhất là trong khuôn khổ Đối tác toàn diện, cần phải nhìn nhận quan hệ giao lưu
nhân dân rộng hơn.
“Trước đây, chúng ta từng có những người bạn chống chiến tranh
Việt Nam, đòi bình thường hóa… Ngày nay, chúng ta cần phải mở rộng để có những
người bạn cùng Việt Nam hợp tác vì lợi ích song trùng, giúp Việt Nam độc lập,
phát triển, thịnh vượng và ngày càng có vị thế, đóng góp tốt hơn vào quan hệ
quốc tế”, ông Phạm Quang Vinh nhấn mạnh.
Nhà ngoại giao kỳ cựu cho rằng “Chúng ta phải nhìn rộng hơn ra,
giao lưu nhân dân không chỉ là những người bạn, người dân hai phía một cách
bình thường mà còn là những người ở các vị trí, tầng lớp khác nhau trong xã
hội, dù họ là cựu Tổng thống, cựu quan chức, nghị sỹ, học giả, chính giới,
doanh nghiệp trong các tổ chức xã hội khác nhau nhưng hoạt động với tư cách cá
nhân để mở rộng hơn cơ sở quan hệ và giao lưu con người với con người”.
Thêm nữa, nếu trong quá khứ, quan hệ giữa người dân đã tạo ra
những phòng trào ủng hộ Việt Nam ngay khi còn chiến tranh thì ngày nay Việt Nam
càng phải nhấn vào việc mở rộng cơ sở bạn bè và nhân dân đó thông qua quảng bá
hình ảnh Việt Nam, tiếp cận Việt Nam, nhấn mạnh vào thế hệ mới và đại diện các
tầng lớp khác nhau.
Các Thượng nghị sĩ Mỹ bên cạnh người khuyết tật Việt Nam.
Kết nối “từ trái tim đến trái tim”
Kênh đối ngoại “từ trái tim đến trái tim” cũng được nguyên Thứ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Tâm Chiến nhấn mạnh. Vị Đại sứ Việt Nam tại Mỹ nhiệm kỳ
2001-2007 luôn tâm niệm rằng nguồn lực thúc đẩy hòa giải Việt-Mỹ trước hết thể
hiện qua suy nghĩ và hành động của người dân. Tiến trình hoà giải và bình
thường hóa giữa hai nước đã bắt đầu chính bằng những tiếp xúc và hoạt động
không chính thức, và mọi chính sách của nhà nước cũng xuất phát từ mong muốn
của người dân và được đại đa số nhân dân đồng tình, ủng hộ. Không phải ngẫu
nhiên mà có cuộc khảo sát xã hội Việt Nam gần đây cho kết quả đại đa số người
được hỏi có cảm tình với Mỹ.
Nghĩ về hành trình tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích trong chiến
tranh (MIA), trong vị Đại sứ với gần 40 năm làm Ngoại giao Nhà nước và hơn 12
năm làm Đối ngoại nhân dân, là hàng dài câu chuyện cảm động về hàng nghìn người
dân Việt Nam đã cao thượng tham gia tìm kiếm MIA cho phía Mỹ dù đến nay hơn 30
vạn con em họ chưa có tung tích.
Khắp mảnh đất hình chữ S, Việt Nam vẫn thầm lặng vượt qua và
khắc phục hậu quả buồn đau mang tên “da cam” đã kéo dài đến ba thế hệ... mà
không đặt điều kiện nào cho các bước cải thiện và bình thường hóa quan hệ với
Mỹ. Đã diễn ra nhiều cuộc gặp đầy cảm động giữa các giới nhân dân Việt-Mỹ trong
mấy chục năm qua, nhất là của các bà mẹ và các cựu chiến binh. Trong những lần
gặp gỡ ấy, đã có bao giọt nước mắt từ cả hai phía bởi mọi mất mát đều đau
thương.
“Hệ quả xấu không thể quên nhưng người Việt không giữ lâu hận
thù mà cảm thông, tha thứ và thậm chí chia sẻ; còn người Mỹ là sám hối và xúc
động trước lòng nhân hậu, vị tha.
Sức truyền cảm của truyền thống tốt đẹp của người Việt đã cảm
hóa từng con người quốc tế và làm nên những kỳ tích trong lịch sử ngoại giao
của ta”, ông Nguyễn Tâm Chiến chia sẻ.
Tạo dựng nền tảng tốt đẹp
Nói về quan hệ Việt-Mỹ, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel J. Kritenbrink
đã dành từ “phi thường” để mô tả những chuyển biến trong quan hệ hai nước suốt
25 năm qua.
Trong đối ngoại nhân dân, Đại sứ Daniel J. Kritenbrink cho rằng,
các cựu chiến binh và gia đình họ ở cả hai phía là những người đầu tiên đối mặt
với quá khứ và bắt đầu xây dựng cầu nối để chính phủ hai nước có thể gắn kết
thành công. Người Mỹ và người Việt đã bắt đầu làm việc cùng nhau để giải quyết
các vấn đề nhân đạo và di sản chiến tranh nhiều năm trước khi bình thường hoá
quan hệ.
Đoàn Cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam (VVA) tại địa
điểm tìm kiếm MIA ở Bình Dương năm 2010.
Kể từ năm 1988, các nhóm công tác của Mỹ và Việt Nam đã hợp tác
để tìm kiếm và trao trả hài cốt những người lính đã ngã xuống, năm 1991, Văn
phòng Tìm kiếm Tù binh và người mất tích của Bộ Quốc phòng Mỹ đã mở cửa tại Hà
Nội. Trong nhiệm kỳ Tổng thống George H.W. Bush, Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ
(USAID) đã bắt đầu hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam thông qua Quỹ hỗ trợ Nạn
nhân Chiến tranh Leahy. Từ năm 1993, Mỹ và Việt Nam đã hợp tác với nhau để giúp
Việt Nam loại bỏ hiểm hoạ từ vật liệu chưa nổ (UXO).
Những bước đi đầu tiên đó đã đặt nền móng cho việc chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao và mở cửa hai Đại sứ quán tại Washington và Hà Nội
vào năm 1995.
Sau đó, vào năm 1997, Thượng viện Mỹ xác nhận ông Douglas “Pete”
Peterson là Đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đại
sứ Peterson - người đã từng là phi công của Không lực Mỹ trong cuộc chiến ở
Việt Nam và có sáu năm là tù binh chiến tranh, đã dành cả nhiệm kỳ để hàn gắn
và xây dựng một mối quan hề dài lâu giữa Việt Nam và Mỹ.
Đại sứ Daniel J. Kritenbrink đặc biệt nhấn mạnh những thành quả
trong việc hai bên cùng giải quyết các vấn đề nhân đạo và di sản chiến tranh.
Từ năm 1988, hài cốt 727 người Mỹ mất tích trong chiến tranh đã
được xác định nhờ sự hợp tác giữa các nhóm công tác của Mỹ và Việt Nam nhằm thu
thập và trao trả hài cốt chiến sĩ đã khuất. Từ năm 1989, Mỹ đã cung cấp 100
triệu USD để hỗ trợ cho người khuyết tật Việt Nam, giúp đỡ hàng triệu người
Việt Nam khó khăn.
Và từ năm 1993, Mỹ đã đóng góp hơn 120 triệu USD để giúp Việt
Nam rà phá các vật liệu chưa nổ. Trong hai năm qua đã không còn thương vong
liên quan đến vật liệu chưa nổ tại tỉnh Quảng Trị được Chính phủ Mỹ hỗ trợ.
Năm 2018, USAID đã hoàn thành dự án xử lý ô nhiễm dioxin trị giá
110 triệu USD tại sân bay Đà Nẵng và năm ngoái chúng tôi đã bắt đầu xử lý ô
nhiễm dioxin tại sân bay Biên Hoà, điểm nóng ô nhiễm dioxin lớn cuối cùng ở
Việt Nam.
Những nỗ lực mang tính chất “nền tảng” này đã góp phần tăng sự
hiểu biết nhiều mặt giữa nhân dân hai nước, làm sâu sắc sự hòa giải cũng như
cách thức thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Mỹ.
(Theo Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam)