Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới
Chế độ dân chủ bắt nguồn từ chính bản chất chế độ xã hội chủ
nghĩa. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là điều kiện cơ bản để thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Sự sáng tạo của nhân dân, quyền
lực của nhân dân và sự bình đẳng, tự do cá nhân là cơ sở lý luận và thực tiễn
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trên quan điểm quyền lực nhân dân dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa, đặt ra nhiệm vụ phấn đấu để mọi thành viên trong xã hội đều
tham gia vào việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo nên những hình thức dân chủ hoàn
toàn mới, phù hợp với điều kiện kinh tế của xã hội, làm cho nền dân chủ đó ngày
càng phong phú, đa dạng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, bên cạnh nền dân chủ có
tính chất dân cử, những hình thức dân chủ trực tiếp khác nhau cũng được phát
triển hài hòa, thể hiện trong các hoạt động của những tổ chức xã hội, tổ chức
dân lập, trong hệ thống kiểm soát của nhân dân.
ân chủ xã hội chủ nghĩa ghi nhận toàn bộ những quyền tự do
cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng,
quyền bất khả xâm phạm thân thể và nhà ở, quyền nghỉ ngơi, học hành. Nhà nước
xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho tất cả công dân được hưởng những quyền đó. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa tạo cho công dân những khả năng rộng rãi để bày tỏ nguyện
vọng và trình bày ý kiến của mình về những vấn đề của đời sống xã hội.
Việc xác lập nền dân chủ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Để có dân chủ xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện một Đảng cầm quyền, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa dân
chủ ở cấp Trung ương với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; trong đó dân chủ ở cơ
sở có tính chất nền tảng, dân chủ ở cấp Trung ương có tính chất quyết định.
Dân chủ ở nước ta, trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ. Hệ thống chính trị đã
động viên sự tham gia của công dân vào công việc của Nhà nước ở cơ sở, trong
các hoạt động đa dạng, nhằm thực hiện Quy chế chế dân chủ ở cơ sở, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn
xã hội. Bài học lớn về dân chủ là phát huy tối đa và nội lực và ý thức tự lực,
tự cường của nhân dân; vai trò quan trọng của nhân dân trong việc kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước; dân chủ đi đôi với chấp
hành pháp luật, kỷ cương xã hội.
Dân chủ Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “Dân chủ
có nghĩa là “Dân là chủ, Dân làm chủ”, “toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân”;
“Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” và
“Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”.
Thực hành dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện trong mối quan
hệ với vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trong các Nghị quyết Đại hội XI của Đảng năm 2011 và Đại hội
XII của Đảng năm 2016, Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa chủ trương, đường lối trong
Cương lĩnh 2011 về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết
trong giai đoạn hiện nay.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, Đảng ta đề ra nhiều nội dung
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa: Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; nhân dân có quyền
tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; Cán bộ công chức phải hoàn thành tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao. Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân;
Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ tham gia quản
lý xã hội; Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã
hội; Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn; Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự
do toàn diện của con người; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng
và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; nâng
cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật
của nhân dân; đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Về hình thức dân chủ, có dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện. Dân chủ trực tiếp do nhân dân thực hiện, còn dân chủ đại diện là người
dân thực hiện dân chủ thông qua đại diện là các cơ quan quyền lực Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân mà mình là hội viên.
Muốn thực hiện dân chủ trực tiếp, Đảng, Nhà nước phải có cơ
chế, chính sách, pháp luật để nhân dân thực hiện trong thực tế trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, xã hội, thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân; đó
là:
Thứ nhất, thực hiện dân chủ tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền.
Cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền hiện nay, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 218 ngày 12/12/2013 về
việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân góp
ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, nhằm mục đích phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị -
xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước.
Trong đó quy định các hình thức nhân dân trực tiếp góp ý
như: Nhân dân trực tiếp góp ý với chi ủy, chi bộ, đảng viên, cán bộ, công chức,
viên chức thông qua hội nghị đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền mỗi năm một lần ở địa phương; nhân dân ở thôn, bản, tổ dân phố góp
ý nhận xét đối với cán bộ, đảng viên mỗi năm một lần trước khi kiểm điểm cấp
ủy, tổ chức đảng, đảng viên; góp ý thường xuyên thông qua hòm thư góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền đặt tại trụ sở các cơ quan, tổ chức Đảng, chính
quyền các cấp; góp ý thông qua trực tiếp tiếp xúc với cán bộ, công chức, viên
chức, đảng viên.
Nhân dân không chỉ trực tiếp tham gia xây dựng bộ máy nhà
nước mà còn thông qua hội nghị cử tri, nhận xét và biểu thị sự tín nhiệm đối
với những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong các
kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Nhân dân vừa trực tiếp
tham gia xây dựng Đảng, vừa thông qua các hình thức khác theo quy định của pháp
luật.
Thứ hai, thực hiện dân chủ trong xây dựng chính sách, pháp
luật.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa đặt ra nhiệm vụ phấn đấu để mọi thành viên trong xã hội đều tham gia vào
việc hoạch định chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.
Nhân dân tham gia xây dựng chính sách, pháp luật thông qua
việc trực tiếp góp ý kiến dự thảo Hiến pháp khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ
chức lấy ý kiến nhân dân, hoặc trưng cầu dân ý về những vấn đề quan trọng của
đất nước. Nhân dân trực tiếp góp ý kiến các dự thảo luật, pháp lệnh thông qua
Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương.
Thứ ba, thực hiện dân chủ trực tiếp giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên.
Giám sát thông qua việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước mà phát hiện những hành vi vi phạm chính sách,
pháp luật, vi phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức; phát hiện, kiến nghị, tố cáo với cơ quan
của Đảng, Nhà nước xem xét, xử lý.
Giám sát của nhân dân thông qua hoạt động của Ban Thanh tra
nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng theo quy định của Luật Thanh tra,
Luật Đầu tư công. Thông qua 2 hình thức tổ chức của nhân dân ở địa bàn thôn,
làng, ấp, bản, nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp giám sát việc thực
hiện chính sách, pháp luật, giám sát thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, giám sát công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí của chính quyền cơ sở và cán bộ, công chức, viên chức, đảng
viên.
Thứ tư, thực hiện dân chủ trong kinh tế.
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế, dân chủ trong kinh tế ngày càng được mở rộng, với
các chủ trương, chính sách trong đầu tư phát triển, trong sản xuất - kinh
doanh, xuất nhập khẩu, chính sách tài chính, tiền tệ, cải cách hành chính… đã
thu hút các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế và người dân đầu tư, sản xuất
kinh doanh ngày càng phát triển. Số doanh nghiệp do người dân đăng ký thành lập
năm sau cao hơn năm trước, chỉ số tăng trưởng kinh tế mấy năm qua và cả hiện
nay đang có chiều hướng tăng mạnh. GDP năm 2016 đạt 6, 21%, GDP năm 2017 tăng
6,81% và 6 tháng đầu năm 2018 đạt 7,08%, cao nhất trong 7 năm qua kể từ năm
2011 trở lại đây.
Mở rộng dân chủ trong kinh tế là động lực quan trọng để phát
triển kinh tế, là phát huy sức mạnh toàn dân tộc, động viên đến cao độ sức mạnh
của mọi tầng lớp nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của đồng bào
trong và ngoài nước; giải phóng mọi tiềm năng, phát huy mọi nguồn lực, mọi
thành phần kinh tế, phát huy sức mạnh của truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc
và ý chí của người Việt Nam để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Thứ năm, thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Phương châm làm chủ theo cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm,
dân giám sát ở cơ sở là thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân theo chủ
trương của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật.
Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là nhằm phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan
liêu, mất dân chủ, tham nhũng, trong đó khâu quan trọng và cấp bách là phát huy
quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là nơi thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
Thấm nhuần sự cần thiết và quan trọng của việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở, ở xã, phường, thị trấn, chúng ta cần nhận thức sâu sắc quan điểm,
đường lối của Đảng về dân chủ ở cơ sở, đó là:
Một là, dân chủ phải tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã
hội, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí. Hai là, dân chủ phải gắn liền với cơ chế Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Coi trọng cả 3 mặt nêu trên, không vì một
mặt mà coi nhẹ, hạ thấp mặt khác. Ba là, dân chủ trực tiếp gắn liền với phát
huy dân chủ đại diện, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và
khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng. Bốn là, dân chủ đi đôi
với kỷ cương, trật tự trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Chống quan liêu,
mệnh lệnh, đồng thời cũng chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi
phạm pháp luật. Năm là, gắn thực hiện Quy chế dân chủ với cải cách hành chính,
sửa đổi cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính không phù hợp với dân chủ.
Phát huy dân chủ ở cơ sở là một khâu trọng yếu nhằm động
viên sức mạnh của các tầng lớp nhân dân vượt qua khó khăn, thách thức để thực
hiện các nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát là cốt lõi của dân
chủ, đồng thời là biện pháp để thực hiện dân chủ, công khai.
Thực hiện dân chủ trực tiếp ở xã, phường, thị trấn, mở rộng
quyền làm chủ của nhân dân phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, chính quyền, tham
gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
theo chủ trương xã hội hóa Nhà nước và nhân dân cùng làm, xây dựng nông thôn
mới, đô thị văn minh theo chủ trương vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Để thực hiện dân chủ ở cơ sở, ở xã, phường, thị trấn, Đảng,
Nhà nước ban hành nhiều cơ chế, chính sách, pháp luật, đó là Chỉ thị số 30CT-TƯ
ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở; Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH 11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Từ việc tổng kết 10 năm thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh 34 quy định rõ cơ chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn với 4 khâu quan trọng nhất, đây là nội dung cốt lõi của Quy
chế dân chủ, đó là: Những nội dung công khai để dân biết; những nội dung dân
bàn và quyết định; những nội dung mà nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan
có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát. Ở mỗi khâu nội
dung, Pháp lệnh quy định các hình thức thực hiện, trách nhiệm của chính quyền,
cán bộ, công chức cấp xã, cấp thôn, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và
nhân dân thực hiện.
Qua hơn 20 năm thực hiện Chỉ thị 30 - CT của Bộ Chính trị,
10 năm thực hiện Pháp lệnh 34 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ngày 16/7/2018,
Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tổ chức Hội nghị toàn
quốc về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã đến dự và có bài phát biểu quan trọng. Tổng Bí thư đánh giá:
“Trong những năm gần đây, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của cấp ủy,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng
viên, công chức và các tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng lên. Thực hiện cải
cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính có nhiều chuyển biến. Công
tác đối thoại, tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và những kiến
nghị, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân, doanh nghiệp được quan tâm
hơn trước. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, đạo đức công vụ của đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức có tiến bộ. Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu
tư của cộng đồng, Tổ hòa giải ở cơ sở nhiều nơi hoạt động khá, hiệu quả, phát
huy được dân chủ trực tiếp của nhân dân tại địa bàn dân cư. Hoạt động giám sát,
phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội đạt nhiều kết quả, một số nơi đã tổ chức được các hoạt
động phản biện xã hội ở cấp huyện và cơ sở. Nhân dân tham gia tích cực hơn vào
công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền. Quyền làm chủ của
nhân dân, các hình thức dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp được mở rộng;
phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần phát huy
vai trò, tiềm năng sức sáng tạo của nhân dân trong tham gia bàn bạc những công
việc của địa phương, đất nước, góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, hương
ước, quy ước, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia giám sát hoạt động của
cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư. Bầu không khí dân chủ trong Đảng,
trong xã hội được mở rộng. Nhiều khó khăn trong quá trình phát triển được dân
bàn bạc, tháo gỡ, giải quyết có hiệu quả”.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Tổng Bí thư đã chỉ ra những
hạn chế, yếu kém như: “Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ
trương, chính sách, pháp luật về quy chế dân chủ ở một số địa phương, cơ quan,
đơn vị chưa kịp thời, nhiều nơi còn mang tính hình thức, đối phó. Việc công
khai các nội dung liên quan ở nhiều địa phương, cơ sở chưa đầy đủ, chưa tạo cho
người dân tiếp cận thông tin. Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của người dân
tham gia bàn bạc, quyết định các vấn đề của địa phương, giám sát, góp ý xây
dựng Đảng, chính quyền ở một số nơi còn hạn chế. Lâu nay cứ nói là thực hiện
quy chế dân chủ, nhưng thực chất là người đứng đầu đơn vị đó vẫn mượn danh hoặc
nhân danh tập thể để hợp thức hóa những quy định, ý chí chủ quan của cá nhân
mình. (Báo Hà Nội Mới, 17/7/2018).
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đối với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò quan trọng trong thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Theo quan điểm của Đảng ta, “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi
bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời là
một nội dung của dân chủ đại diện, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân thông
qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc cũng là góp phần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, với vị trí là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò, nhiệm vụ quan trọng
được chỉ ra trong các Nghị quyết của Đảng, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, song
để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hành dân chủ xã hội chủ
nghĩa, Mặt trận cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây: Tập hợp, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đại diện, bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; thực hiện giám
sát và phản biện xã hội; thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Thứ nhất, thực hiện dân chủ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
Tư tưởng về tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
là, Mặt trận phải phát triển đa dạng các hình thức tổ chức và hoạt động để tập
hợp hết thảy mọi người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, không phân biệt
thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quá khứ,
nhằm động viên mọi nguồn lực, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là
mở rộng dân chủ tập hợp mọi người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội để xây dựng một nước Việt Nam: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
còn tồn tại lâu dài các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn
giáo. Với nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã và sẽ
thay đổi nhiều cùng với những biến đổi về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ đoàn kết, hợp tác lâu dài trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp ra đời. Sự
phát triển của khoa học và công nghệ, sự giao lưu văn hoá không ngừng tác động
đến lối sống và nếp nghĩ của mọi tầng lớp, mọi người trong xã hội. Mặt khác,
các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình"
với nhiều âm mưu nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, hòng phá hoại sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Tình hình tham nhũng, tiêu cực là nỗi bức xúc
trong nhân dân. Do vậy, sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc có vai trò hết sức quan trọng. Xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết
toàn dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, không chỉ
là trách nhiệm duy nhất của Mặt trận, nhưng Mặt trận có vai trò quan trọng tập
hợp, xây dựng, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kêt toàn dân tộc, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thấm nhuần quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận
Tổ quốc cần nắm vững vai trò của mình trong việc tập hợp, xây dựng và phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mặt trận Tổ quốc có nhiều phương thức để tập hợp nhân dân về
tổ chức như kết nạp các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp làm thành viên của
Mặt trận; đoàn kết, ủng hộ hoạt động của các tổ chức tham gia các hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc, nhưng chưa tham gia vào tổ chức của Mặt trận; phát huy tính
tích cực của những cá nhân tiêu biểu trong xã hội để thực hiện chương trình của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thông qua các cuộc vận động, các phong trào thi
đua yêu nước và hoạt động khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để tập hợp các tổ
chức và cá nhân người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Mặt trận Tổ
quốc đã tiến hành đổi mới phương thức, nội dung hoạt động, đã tập hợp được đông
đảo các tổ chức, cá nhân gia nhập Mặt trận Tổ quốc. Đại hội nhiệm kỳ V năm 1999
ở Trung ương mới có 21 tổ chức thành viên, đến nay, nhiệm kỳ Đại hội IX Mặt
trận đã có 47 tổ chức thành viên, cùng với cá nhân tiêu biểu hợp thành một tổ
chức liên minh chính trị rộng lớn từ Trung ương đến cơ sở, địa bàn dân cư, có
vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện dân chủ
và đổi mới xã hội.
Thứ hai, thực hiện dân chủ trong việc đại diện, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Vai trò và nhiệm vụ đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân, vừa là quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam mới được quy định trong Hiến pháp 2013 và được thể chế hóa trong Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015. Đây là chủ trương, chính sách, pháp luật mới,
mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa về vai trò và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nội dung của vai trò và nhiệm vụ này bao gồm: Mặt trận có
trách nhiệm tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để phản ánh, kiến
nghị với Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân
dân; Mặt trận phối hợp với chính quyền tổ chức các cuộc họp cử tri để tiếp xúc
với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Thông qua các cuộc họp này,
cử tri nắm được hoạt động của Quốc hội, những chính sách, pháp luật được Quốc
hội thông qua và ban hành trong đời sống xã hội, đồng thời cũng là hoạt động để
nhân dân giám sát hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, giám sát hoạt động
của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; Mặt trận tuyên truyền, vận
động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện chính sách, pháp luật; Mặt
trận phối hợp với chính quyền cấp xã, tổ chức vận động nhân dân thực hiện dân
chủ ở cơ sở, xã, phường, thị trấn, xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước ở
địa bàn dân cư. Mặt trận Tổ quốc xã phường, thị trấn chỉ đạo hoạt động của Ban
Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, tham gia công tác hòa
giải ở cơ sở; tiếp công dân, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc xá.
Những hoạt động trên, thể hiện vai trò đại diện cho nhân dân
tham gia với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện các quy định của pháp
luật về quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân và quyền dân chủ của nhân dân
thông qua đại diện là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trước khi có Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam 2015, pháp luật chỉ quy định Mặt trận cùng Nhà nước chăm lo bảo
vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, nên việc thực hiện chức năng đại
diện là chưa có, do vậy các hoạt động chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nhân dân còn ở chừng mực nhất định. Từ sau khi Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam (2015) được ban hành, chức năng đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân mới được triển khai thực hiện. Tuy nhiên, Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam quy định các quyền đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân còn mang tính chất khung, chưa có đầy đủ cơ chế, chính
sách để Mặt trận Tổ quốc thực hiện trên thực tế. Trong giai đoạn hiện nay, thực
hiện dân chủ và đổi mới, với cơ chế đại diện là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng
thời trước những yêu cầu, kiến nghị của cử tri và nhân dân, đòi hỏi Mặt trận Tổ
quốc phải nâng cao vai trò của mình trong việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, coi đây là một trong những nhiệm vụ chủ
yếu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, với tư cách là chủ
thể thực hiện chứ không chỉ là tham gia thực hiện như trước đây.
Thứ ba, thực hiện dân chủ, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
Dân chủ ở nước ta, trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do nhân dân làm chủ. Trên quan điểm quyền
lực của nhân dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đặt ra nhiệm vụ phấn đấu để mọi
thành viên trong xã hội đều tham gia vào việc hoạch định chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước. Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước theo chủ trương, đường lối
của Đảng trong giai đoạn hiện nay, thực chất là mở rộng dân chủ theo hướng từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện dân chủ tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước là quyền
và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Bộ Chính trị ban hành cơ chế
thông qua Quyết định 218 về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính
trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền,
cùng với nhiều nhiệm vụ được quy định trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các luật khác. Từ thực tiễn hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên lĩnh
vực này, việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong phát huy vai trò Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước cần tập trung thực hiện
tốt những nhiệm vụ sau đây:
Về tham gia xây dựng Đảng: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đảm đương vai
trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Xây dựng Đảng không chỉ là nhiệm vụ của Đảng
và đảng viên, mà còn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của nhân dân,
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Nước ta là nước dân chủ, việc mở rộng phạm vi tham gia xây
dựng Đảng như trên là thể hiện quan điểm nhân dân là chủ thể quyền lực nhà
nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng Đảng thực chất là
phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Quan hệ giữa Đảng
và nhân dân như cá với nước. Mặt trận Tổ quốc là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân.
Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, trước hết và quan trọng là
tham gia xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, liên quan đến vai trò,
nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội. Phạm vi góp ý bao
gồm: Góp ý kiến vào dự thảo báo cáo chính trị của cấp ủy, tổ chức Đảng trước
mỗi kỳ đại hội; góp ý việc thực hiện các quy định Đảng, mối quan hệ giữa cấp
ủy, tổ chức Đảng và đảng viên với nhân dân; góp ý với đảng viên trong việc thực
hiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp ý về phẩm
chất, đạo đức, lối sống và vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên,
nhất là những người đứng đầu cấp ủy, tổ chức Đảng.
Về tham gia xây dựng Nhà nước: Thể chế Cương lĩnh 2011 của
Đảng, Nhà nước ban hành Hiến pháp năm 2013, đến năm 2015 ban hành Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, trong đó quy định nhiệm vụ Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng
và củng cố chính quyền bao gồm: Tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, tham gia xây
dựng pháp luật; tham gia tố tụng, tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên, giới
thiệu người để Hội đồng nhân bầu làm Hội thẩm nhân dân.
Để hình thành bộ máy Nhà nước, bao gồm cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp, trước hết phải tổ chức bầu cử để nhân dân bầu
ra các đại biểu dân cử - là người đại diện cho nhân dân lập nên bộ máy các cơ
quan Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Với nhiệm vụ trong bầu cử đại biểu dân
cử, Mặt trận Tổ quốc có vai trò quan trọng tổ chức hiệp thương, lựa chọn giới
thiệu người ra ứng cử. Công tác hiệp thương dân chủ vừa là thực hiện dân chủ
đại diện là Mặt trận Tổ quốc, vừa là thực hiện dân chủ trực tiếp của cử tri để
thực hiện các bước của công tác hiệp thương dân chủ, lựa chọn giới thiệu người
ra ứng cử.
Thứ tư, thực hiện dân chủ trong giám sát và phản biện xã
hội.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực
hiện theo các quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
năm 1999, đến Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 các cơ chế, chính sách để
thực hiện giám sát đã được pháp luật quy định khá đầy đủ. Trên thực tế, quyền
giám sát của Mặt trận Tổ quốc đã và đang đi vào đời sống xã hội, đang tiếp cận
vào những lĩnh vực trọng tâm, bức xúc trong từng thời gian, trên phạm vi toàn
quốc cũng như ở từng địa phương, cơ sở. Hoạt động giám sát đã bám sát yêu cầu
của nhiệm vụ chính trị và những đòi hỏi, bức xúc trong nhân dân ngày càng thiết
thực và hiệu quả, được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện, được xã
hội theo dõi, động viên và nhân dân đồng tình, hưởng ứng theo công tác vận động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tuy nhiên có thể nói, giám sát và hoạt động giám sát của Mặt
trận Tổ quốc vẫn còn là một khâu yếu và khó, do nhận thức trong nhân dân, cán
bộ, đảng viên chưa đầy đủ và sâu sắc về chủ trương, chính sách, pháp luật về
giám sát, về hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc; do cơ chế chính sách có
những vấn đề chưa đầy đủ; do kiến thức, năng lực và tổ chức thực hiện còn hạn
chế của cán bộ Mặt trận, đoàn thể và do các điều kiện bảo đảm để thực hiện còn
những bất cập.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động giám sát phải tiếp tục
đẩy mạnh, tập trung giám sát vào những ngành, lĩnh vực mà việc thực hiện pháp
luật Nhà nước còn nhiều yếu kém như: tài nguyên và môi trường, đầu tư công,
chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo, phòng chống tham nhũng, lãng
phí, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân...
Hoạt động phản biện xã hội là một bước mở rộng dân chủ theo
chủ trương của Đảng từ Đại lần thứ X đến nay, đã được Nhà nước thể chế hóa
trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản hướng dẫn gần đây. Hai năm
qua, hoạt động phản biện được triển khai ở cấp tỉnh, nhiều địa phương đã triển
khai thực hiện đến cấp huyện và cấp xã. Hoạt động phản biện mới đi vào phản
biện những dự thảo văn bản pháp luật, kế hoạch, chương trình, dự án liên quan
mật thiết đến quyền và lợi ích của nhân dân, đến quyền, trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc thông qua hình thức hội nghị phản biện.
Hoạt động phản biện xã hội cùng với hoạt động tham gia xây
dựng pháp luật là xu hướng chủ đạo của công tác Mặt trận tham gia xây dựng pháp
luật Nhà nước theo chủ trương cải cách hành chính, cải cách tư pháp với phương
châm mở rộng dân chủ để nhân dân tham gia xây dựng và hoạch định chính sách,
pháp luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, phù hợp với thực tế cuộc sống,
có tính khả thi và theo yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, đem lại lợi ích cho
nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Thứ năm, thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận đối với việc thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) theo Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ
Chính trị đã chỉ rõ 3 vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đó là: Một là, tuyên truyền
rộng rãi trong nhân dân về chủ trương của Đảng về thực hiện dân chủ ở cấp xã để
nhân dân nhận thức đầy đủ quyền và trách nhiệm công dân trong thực hiện dân chủ
ở địa phương. Hai là, cùng với chính quyền tổ chức để nhân dân thực hiện quyền
dân chủ theo 4 khâu được quy định của pháp luật. Ba là, thực hiện quyền giám
sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc trong mỗi vai trò được quy
định cụ thể trong Pháp lệnh số 34. Ở mỗi khâu thực hiện dân chủ, Mặt trận Tổ
quốc phối hợp chính quyền cùng cấp tổ chức để nhân dân thực hiện quyền được
thông tin về chính sách của Đảng, chủ trương pháp luật của Nhà nước quy định
các nội dung thực hiện dân chủ ở cấp xã; phối hợp với chính quyền tổ chức các
cuộc họp nhân dân để thực hiện các khâu thực hiện dân chủ và nhiệm vụ cuối cùng
là Mặt trận Tổ quốc thực hiện quyền giám sát, trong đó có việc tổ chức lấy
phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu ra.
Thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong việc
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một trong những nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên của cả hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc cấp xã đóng vai trò chủ chốt. Thực hiện dân chủ ở cấp xã tốt
hay không, phần rất quan trọng là ở vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
cấp xã.
Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo Pháp lệnh 34
đến nay đã được hơn 10 năm, những kết quả đạt được cùng những hạn chế đã được
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu ra tại Hội nghị toàn quốc do Ban Chỉ đạo Trung
ương xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chúng ta có quyền hy vọng
về việc thực hiện dân chủ ở cấp xã sẽ được cả hệ thống chính trị quan tâm chỉ
đạo và thực hiện, để dân chủ xã hội chủ nghĩa ở cơ sở thực sự là nền tảng của
dân chủ, góp phần từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Từng bước mở rộng quyền, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
thực hiện dân chủ trong 5 lĩnh vực công tác trọng tâm nêu trên, theo hướng thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được mở rộng, là xu thế đúng đắn của
Mặt trận Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay, góp phần từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Đỗ Duy Thường
Nguyên Phó Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam
(nguồn: tạp chí Mặt trận)