Già làng Đô Ha Mít (xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc), người có uy
tín của các dân tộc thiểu số đóng góp cho dự thảo nghị quyết về “Danh mục
các tập quán về hôn nhân và gia đình” được áp dụng trên địa bàn tỉnh
Hiện tại, 36 dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh luôn có sự giao
lưu, tiếp thu các giá trị văn hóa lẫn nhau. Bên cạnh mặt tích cực, mặt trái là
những giá trị cổ truyền, những nét văn hóa đặc trưng của từng dân tộc thiểu
số bị lãng quên khi tiếp nhận nét văn hóa của dân tộc Kinh. Ông Điểu Bảo,
Trưởng ban Dân tộc tỉnh, bày tỏ các tập quán về hôn nhân và gia đình của các
đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh dần được thay đổi như người Kinh,
như: cách ăn mặc, sinh hoạt, tổ chức lễ cưới, hỏi…
Tập tục không được trái quy định pháp luật
Ông Điểu Bảo phân tích, xét về khía cạnh xã hội, việc tiếp thu
những cái hay, cái đẹp về tập quán hôn nhân và gia đình của người Kinh hoàn
toàn hợp lý với xu thế hiện đại, hòa nhập văn hóa, phù hợp với pháp luật về hôn
nhân và gia đình hiện nay. Tuy vậy, từng cộng đồng dân tộc, vùng dân tộc thiểu
số cần phải giữ và bảo tồn những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
mình, góp phần tạo nên một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Theo Nghị định 126/2014/NĐ-CP, danh mục các tập quán lạc hậu về
hôn nhân và gia đình cần vận động xóa bỏ, gồm: kết hôn trước tuổi quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình; việc đăng ký kết hôn không do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thực hiện; cưỡng ép kết hôn do xem lá số, do mê tín dị đoan và cản
trở hôn nhân do khác dân tộc, tôn giáo; cấm kết hôn giữa những người có họ
trong phạm vi 4 đời trở lên; nếu nhà trai không có tiền cưới và đồ sính lễ thì
sau khi kết hôn, người con rể buộc phải ở rể để trả công cho cha mẹ vợ; quan hệ
gia đình theo chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ, không đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ
và chồng, con trai và con gái.
Phó giám đốc Sở Tư pháp Võ Thị Xuân Đào cho biết Nghị định
126/2014/NĐ-CP cũng chỉ rõ các tập tục về hôn nhân và gia đình cấm áp dụng,
như: chế độ hôn nhân đa thê; kết hôn giữa những người có cùng dòng máu về trực
hệ, giữa những người có họ trong phạm vi 3 đời; tục cướp vợ để ép người phụ nữ
làm vợ; thách cưới cao mang tính chất gả bán; bắt buộc người phụ nữ hay đàn ông
góa nếu kết hôn với người khác thì phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ hoặc
nhà vợ cũ; đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ chồng ly hôn…
Danh mục tập quán chung
Già làng Thổ Bọng cho rằng đồng bào dân tộc Chơro xã Bảo Vinh,
TX.Long Khánh giờ lấy vợ, lấy chồng đều theo pháp luật; các nghi lễ tổ chức
cưới xin đều có trình tự giống như người Kinh trong xã. Đồng bào Chơro trong
làng giờ đã bỏ các tập tục lạc hậu, bỏ phân biệt giàu nghèo, địa vị xã hội
theo kiểu “môn đăng hộ đối”. “Theo đời sống mới hiện nay, đồng bào Chơro trong
làng chỉ giữ và thực hiện những tập tục tiến bộ, phù hợp với pháp luật và đơn
giản nhằm tiết kiệm thời gian và tiền bạc” - già làng Thổ Bọng nói.
Ông Đô Ha Mit (giáo cả đồng bào người Chăm ở xã Xuân Hưng, huyện
Xuân Lộc) tỏ bày, trước đây đồng bào Chăm theo đạo Islam thường có nhiều vợ,
nhưng nay quan điểm này không còn nữa. Hiện tại, đồng bào Chăm theo đạo Islam
vẫn còn giữ truyền thống: 2 bên gia đình gặp nhau bàn bạc khi cưới vợ, lấy
chồng cho con. Nam - nữ muốn lấy nhau phải xin ý kiến của giáo cả... Để hài hòa
giữa tập tục, tôn giáo và pháp luật, đồng bào Chăm ở Xuân Hưng đã dần bỏ các
tập tục lạc hậu, không phù hợp với cuộc sống tiến bộ.
Theo các già làng, người có uy tín của các dân tộc thiểu số
trên địa bàn tỉnh, các tập quán tốt đẹp về hôn nhân hiện nay đồng bào dân tộc
thiểu số đang thực hiện, giữ gìn và phát huy trong cộng đồng, như: tục dùng
trầu cau để mở đầu câu chuyện cưới, hỏi; lễ xuất giá đối với nữ và lễ gia tiên
đối với nam trước ngày tổ chức hôn lễ; nam nữ tự do tìm hiểu để đi đến kết hôn;
các nghi thức cưới hỏi tiết kiệm, lành mạnh thể hiện bản sắc của dân tộc
mình... Riêng về truyền thống gia đình thì: coi trọng hôn nhân bền vững; tục
dùng vải đỏ trong ngày cưới nếu người em lập gia đình trước anh, chị; lễ giỗ
tổ tiên…
Qua tiếp thu các ý kiến già làng, người có uy tín của các dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đóng góp cho dự thảo nghị quyết về “Danh mục
các tập quán và hôn nhân trên địa bàn tỉnh” của hôn nhân và gia đình tỉnh, bà
Võ Thị Xuân Đào nhấn mạnh các già làng, người có uy tín của các dân tộc
thiểu số trên địa bàn tỉnh không chỉ là người góp ý kiến giá trị cho dự thảo
nghị quyết, mà còn là người tuyên truyền hiệu quả nhất khi nghị quyết được hôn
nhân gia đình tỉnh thông qua, áp dụng vào cuộc sống.
Diễm Quỳnh